MEI và một số bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng Bộ chỉ tiêu quốc gia về đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật

15/01/2014

MEI (Ministerial Effectiveness Index) là chỉ số hiệu quả hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật về kinh doanh của các Bộ do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) xây dựng dựa trên sự đánh giá thường niên của hơn 400 hiệp hội đại diện cho gần 500.000 doanh nghiệp và các ngành nghề thuộc các thành phần kinh tế của Việt Nam.

 

I. Giới thiệu sơ lược về MEI

MEI (Ministerial Effectiveness Index) là chỉ số hiệu quả hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật về kinh doanh của các Bộ do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) xây dựng dựa trên sự đánh giá thường niên của hơn 400 hiệp hội đại diện cho gần 500.000 doanh nghiệp và các ngành nghề thuộc các thành phần kinh tế của Việt Nam. Hoạt động này của VCCI được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận theo Công văn số 2353/VPCP-PL ngày 18/4/2011 và MEI được kỳ vọng là một trong những công cụ quan trọng giúp Nhà nước, xã hội, các Bộ nhận biết về thực trạng hoạt động pháp luật kinh doanh từ đó có những biện pháp thích hợp nhằm phát huy những ưu điểm và khắc phục các hạn chế trong hoạt động của mình.

Thành phần của MEI là các tiêu chí trực tiếp phản ánh chất lượng của các hoạt động trong quy trình xây dựng và thi hành pháp luật. Theo đó, với MEI 2011, hoạt động xây dựng pháp luật được đánh giá trên ba tiêu chí: (1) chất lượng hoạt động xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (với chỉ số về “sự cần thiết” và “đánh giá tác động - RIA”); (2) chất lượng hoạt động lấy ý kiến đối tượng chịu tác động khi soạn thảo (với chỉ số về “hình thức lấy ý kiến”, “thông tin phục vụ việc góp ý” và “tỷ lệ dự thảo lấy ý kiến VCCI”) ; (3) chất lượng văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành (với các chỉ số về “tính minh bạch”, “tính thống nhất và khả thi”, và “tính hợp lý”). Hoạt động thi hành pháp luật được đánh giá trên ba tiêu chí: (1) chất lượng hoạt động công khai thông tin, tuyên truyền phổ biến pháp luật (với chỉ số về “hình thức cung cấp thông tin và mức độ đầy đủ của thông tin” và “tuyên truyền, phổ biến pháp luật”); (2) chất lượng hoạt động tổ chức thi hành pháp luật (với chỉ số về “tổ chức triển khai các hoạt động cơ bản”, “ban hành văn bản hướng dẫn”, “giải quyết vướng mắc và trách nhiệm giải trình”); (3) chất lượng hoạt động rà soát, kiểm tra, tổng kết quá trình thi hành pháp luật (với các chỉ số về “theo dõi, kiểm tra thi hành pháp luật” và “rà soát văn bản và thực tiễn thi hành”). Các tiêu chí trên được chuyển hóa vào Báo cáo MEI 2011 tương ứng với sáu chỉ số điểm thành phần.  Với năm 2012, chỉ số MEI được thu gọn lại thành 5 chỉ số thành phần do chỉ số về chất lượng soạn thảo và chỉ số chất lượng lấy ý kiến được tích hợp lại thành 1 chỉ số chung là chỉ số “soạn thảo văn bản QPPL”. 

Hệ thống 6 chỉ tiêu đánh giá (cũng là 6 chỉ số thành phần) của MEI 2011 (và 5 chỉ tiêu của MEI 2012) kể trên được thiết kế trên cơ sở các yêu cầu được quy định trong pháp luật hiện hành về xây dựng, ban hành và tổ chức thi hành các văn bản quy phạm pháp luật mà các Bộ phải tuân thủ, trong đó có Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 , các đạo luật chuyên ngành về quản lý nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đó cũng là những kỳ vọng mà cộng đồng doanh nghiệp mong muốn các Bộ thực hiện trong hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật của mình. Tổng trị số tối đa của cả 3 chỉ tiêu thuộc hoạt động xây dựng pháp luật và 3 chỉ tiêu thuộc hoạt động thi hành pháp luật đều là 50 điểm. Để đạt điểm số cao, các Bộ không chỉ phải thực hiện đúng và đầy đủ các yêu cầu của pháp luật mà còn phải thực hiện một cách hiệu quả và thân thiện với cộng đồng doanh nghiệp.

Riêng với Bộ Tư pháp, MEI đánh giá hiệu quả hoạt động pháp luật về kinh doanh của Bộ Tư pháp ở cả hai mặt xây dựng pháp luật (chủ trì soạn thảo hoặc ban hành) và thi hành pháp luật, trong đó riêng hoạt động thi hành pháp luật có tập trung nhiều hơn vào 3 lĩnh vực quan trọng là: Thi hành án dân sự, đăng ký giao dịch bảo đảm, và Bổ trợ tư pháp.

Các hoạt động này được Bộ Tư pháp triển khai dựa trên yêu cầu của Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp (hiện nay là Nghị định 22/2013/NĐ-CP) và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm (sửa đổi, bổ sung năm 2012), Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, Quyết định số 31/2009/QĐ-TTg về việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp từ 2009 – 2012, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, Thông tư số 03/2010/TT-BTP của Bộ Tư pháp về hướng dẫn thực hiện công tác theo dõi thi hành pháp luật (và hiện nay là Nghị định số 59/2012/NĐ-CP về theo dõi thi hành pháp luật) và các văn bản hướng dẫn thi hành. Những yêu cầu của MEI 2011 và MEI các năm tiếp theo đều phù hợp với nội dung của các văn bản nêu trên.

Như vậy, có thể thấy, thực hiện các giải pháp nâng cao chỉ số hiệu quả xây dựng và thi hành pháp luật kinh doanh - MEI của Bộ Tư pháp không chỉ nhằm thực hiện các giải pháp để đáp ứng tốt hơn kỳ vọng của cộng đồng doanh nghiệp thể hiện qua bộ chỉ số MEI mà cũng chính là nhằm giúp các đơn vị trong Bộ Tư pháp thực hiện đúng, đầy đủ và hiệu quả hơn các quy định của pháp luật hiện hành liên quan tới chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.

II. Hiệu quả hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật kinh doanh của Bộ Tư pháp qua phản ánh của MEI

Các Báo cáo MEI thời gian qua cho thấy, Bộ Tư pháp thuộc nhóm các Bộ có điểm số về hiệu quả hoạt động pháp luật về kinh doanh khá cao. Điều này phần nào thể hiện sự ghi nhận của cộng đồng doanh nghiệp đối với những nỗ lực của Bộ Tư pháp trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật về kinh doanh thời gian qua. Tuy nhiên, bên cạnh những ghi nhận tích cực đó, MEI cũng cho thấy trong cách nhìn nhận của cộng đồng doanh nghiệp, hoạt động pháp luật của Bộ Tư pháp vẫn còn những hạn chế nhất định khi trị số tuyệt đối của MEI dành cho Bộ Tư pháp không bứt xa khỏi các Bộ khác và chưa đạt ở mức khá. 

Ví dụ, theo Báo cáo MEI 2011, trong 6 chỉ số thành phần đánh giá Bộ Tư pháp có 1 chỉ số đạt mức “khá” (chỉ số chất lượng xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật – 7,96/10 ), còn lại là 5 chỉ số đạt mức “trung bình”. Năm chỉ số thành phần còn lại đạt mức trung bình xếp theo thứ tự điểm từ cao xuống thấp là: chất lượng hoạt động tổ chức thi hành pháp luật đạt 19,25/30 điểm (tương đương 64,2%);  chất lượng VBQPPL đạt 11,99/20 điểm (tương đương 60%) ; chất lượng công khai thông tin – tuyên truyền, phổ biến pháp luật đạt 5,76/10 điểm (tương đương 57,6%) ; chất lượng rà soát quá trình thi hành pháp luật 5,58/10 điểm (tương đương 55,8%) ; chất lượng hoạt động lấy ý kiến đối tượng chịu tác động khi soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật đạt 8,46/20 điểm (tương đương 42,3%).  Cụ thể:

2.1. Các chỉ số về hoạt động xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp

- Về hoạt động xây dựng dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến kinh doanh của Bộ Tư pháp: Đây là hoạt động của Bộ Tư pháp được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá là khá hiệu quả (với điểm chỉ số thành phần tuyệt đối là 7,96/10 điểm, cũng là chỉ số thành phần cao nhất mà Bộ Tư pháp đạt được). Trong đó, điểm chỉ tiêu về “tính cần thiết” của dự thảo VBQPPL và điểm chỉ tiêu về hoạt động “đánh giá tác động” dự thảo VBQPPL lần lượt là 80,94% và 78,20%. Điều đó thể hiện rằng các đơn vị trong Bộ Tư pháp đã đầu tư khá thỏa đáng cho việc luận giải sự cần thiết của việc ban hành văn bản cũng như đầu tư cho hoạt động đánh giá tác động (RIA) và cộng đồng doanh nghiệp đã cảm nhận được rõ điều này. Tuy nhiên cũng cần nhìn nhận rằng việc luận giải tính cần thiết của việc ban hành văn bản và việc đánh giá tác động của dự thảo VBQPPL vẫn có thể làm tốt hơn nếu các đơn vị chủ trì soạn thảo đầu tư thỏa đáng trong việc xác định rõ vấn đề xã hội hoặc vấn đề trong quản lý mà văn bản quy phạm cần điều chỉnh, phân tích rõ hơn nguyên nhân của các vấn đề này từ khía cạnh hành vi, thói quen ứng xử của các nhóm chủ thể có liên quan, từ đó đề xuất ra những giải pháp tương ứng, phù hợp. 

- Về hoạt động lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động: Chỉ số về hoạt động này khi soạn thảo VBQPPL của Bộ Tư pháp là chỉ số thành phần thấp nhất trong 6 chỉ số thành phần và cũng là chỉ số thành phần duy nhất của Bộ có trị số tuyệt đối nằm dưới mức trung bình với trị số tuyệt đối đạt 8,46/20 điểm. Chỉ tiêu về việc gửi văn bản lấy ý kiến VCCI cũng chỉ đạt 0,75/5 điểm. Điều này cho thấy, có đơn vị chủ trì soạn thảo văn bản liên quan tới doanh nghiệp của Bộ còn chưa tuân thủ đầy đủ quy định về việc gửi dự thảo văn bản để lấy ý kiến của VCCI. Điểm số của chỉ tiêu về thông tin phục vụ cho việc góp ý cũng chỉ đạt 2,14/5 điểm. Điều này cũng cho thấy có đơn vị chủ trì soạn thảo trong Bộ còn chưa làm tốt công tác cung cấp các thông tin cần thiết phục vụ cho việc góp ý. Chỉ tiêu về hình thức lấy ý kiến nhận được kết quả trên trung bình đạt 5,57/10 điểm (tương đương 55,7%). Như vậy, có thể thấy, có đơn vị chủ trì soạn thảo còn chưa dành sự quan tâm thỏa đáng đối với việc lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động.

- Về chất lượng VBQPPL đã được ban hành: Chỉ số này của Bộ Tư pháp được đánh giá ở mức trung bình. Trị số tuyệt đối theo Báo cáo MEI 2011 của Bộ Tư pháp của chỉ số này là 11,99/20 điểm (tương ứng với tỷ lệ 59,95%). Ba tiêu chí của Chỉ số này đánh giá về tính minh bạch, tính thống nhất - khả thi và tính hợp lý đều trong khoảng xấp xỉ 60%. Điều này cho thấy chất lượng VBQPPL của Bộ Tư pháp vẫn chưa được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao.

2.2. Các chỉ số về hoạt động thi hành pháp luật

- Về hiệu quả hoạt động cung cấp thông tin, tuyên truyền, phổ biến pháp luật: Chỉ số hiệu quả của loại hoạt động này của Bộ Tư pháp theo MEI 2011 chỉ đạt điểm số ở mức trung bình với trị số tuyệt đối 5,76/10 điểm (tương đương 57,6%). Mặc dù Bộ Tư pháp đã có nhiều nỗ lực trong việc cung cấp thông tin pháp luật trên website của Bộ (trong đó có việc xây dựng và duy trì cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia và một số công cụ tra cứu khác), nhưng hiệu quả cung cấp thông tin vẫn chưa được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá tốt. Thực tế cho thấy, tính cập nhật của các thông tin pháp luật trên website của Bộ (trong đó có cả cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia) còn có thể cải thiện tốt hơn. Các thông tin liên quan tới chương trình, kế hoạch triển khai công tác quản lý nhà nước, thông tin về giải đáp thắc mắc của người dân, cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình quản lý, điều hành được cung cấp trên website còn có điểm chưa đầy đủ, chưa dễ truy cập đối với người sử dụng. Bên cạnh đó, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đôi khi còn chưa sát hợp với nhu cầu, nguyện vọng của cộng đồng doanh nghiệp. Điều đó cho thấy, Bộ Tư pháp cần nỗ lực hơn trong hoạt động này, nhất là cần đổi mới phương thức và chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật, đáp ứng đúng và trúng hơn nhu cầu của cộng đồng doanh nghiệp.

- Về hiệu quả hoạt động tổ chức thi hành pháp luật: Chỉ số này của Bộ Tư pháp phản ánh trong MEI 2011 là 19,25/30 điểm (tương đương với 64,2%). Ba tiêu chí trong chỉ số này là chất lượng hoạt động hướng dẫn thi hành văn bản của cấp trên; các hoạt động xây dựng chương trình, kế hoạch công tác nhằm trực tiếp triển khai các nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ được giao; các hoạt động xử lý những vấn đề phát sinh trong thi hành pháp luật (giải quyết vướng mắc cho các trường hợp đơn lẻ và trách nhiệm giải trình) lần lượt có kết quả tương ứng 3,26/5 điểm (tương đương 65,2 %), 6,16/10 điểm (tương đương 61,6%), 9,84/15 điểm (tương đương 62,3%). Đây là các điểm số cũng tương đối đáng ghi nhận. Điều này cho thấy cộng đồng doanh nghiệp đã ghi nhận những nỗ lực của Bộ trong việc tổ chức triển khai thi hành pháp luật từ việc kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn, nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự,  hiệu quả hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm,  quản lý nhà nước đối với hoạt động của luật sư,  và các hoạt động cải cách hành chính khác theo hướng thân thiện hơn với cộng đồng doanh nghiệp. Tuy nhiên, với điểm số chung là 64,2%, có thể nói cộng đồng doanh nghiệp còn kỳ vọng Bộ Tư pháp nỗ lực hơn nữa trong việc nâng cao hiệu quả các hoạt động tổ chức thi hành pháp luật, nhất là các hoạt động liên quan tới thi hành án dân sự, đăng ký giao dịch bảo đảm, quản lý luật sư.

- Về hoạt động rà soát, kiểm tra, tổng kết thi hành pháp luật: Chỉ số này của Bộ Tư pháp cũng nhận được kết quả ở mức trung bình là 5,58/10 điểm (tương đương 55,8%).

III. Không chỉ là những con số

            Được theo dõi các công việc liên quan tới MEI của Bộ Tư pháp, chúng tôi thấy rằng, trước hết, các điểm số của MEI là những con số phản ánh thực trạng hiệu quả hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật kinh doanh của Bộ.

            Những con số ấy có nhiều con số rất biết nói và tự bản thân nó đã nói lên nhiều điều. Chỉ số 59/100 trong năm 2011 của Bộ Tư pháp cho thấy, dù đã cố gắng, chất lượng hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật liên quan tới kinh doanh của Bộ Tư pháp trong con mắt của người đánh giá (các đại diện của cộng đồng doanh nghiệp) vẫn chỉ ở mức trung bình. Điều này cho thấy, Bộ vẫn cần phải làm tốt hơn nữa các công việc của mình để cải thiện hình ảnh của Bộ trong cộng đồng doanh nghiệp.

            Chẳng hạn, qua nghiên cứu bước đầu, chúng tôi đã xác định được một số nguyên nhân trong thực tiễn công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật của Bộ có thể làm cho điểm số MEI của Bộ chưa cao đó là:

+ Không ít cán bộ, công chức tham gia công tác xây dựng pháp luật trong các đơn vị thuộc Bộ còn chưa nhận thức đầy đủ vai trò, ý nghĩa của việc ưu tiên đầu tư nguồn lực cho công đoạn phân tích, hoạch định chính sách, tham vấn ý kiến công chúng và cộng đồng doanh nghiệp một cách thực chất trước khi soạn thảo, quy phạm hóa các chính sách dự kiến. Thực tế này đưa đến việc xây dựng các tờ trình, báo cáo đánh giá tác động cũng như việc thực hiện các hoạt động tham vấn ý kiến chưa đáp ứng được kỳ vọng của cộng đồng doanh nghiệp.

+ Năng lực, trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng chuyên môn về phân tích, hoạch định chính sách, tham vấn công chúng, quy phạm hóa trong hoạt động xây dựng pháp luật của không ít cán bộ, công chức tại các đơn vị trong Bộ còn chưa đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ được giao.

+ Nguồn lực ngân sách dành cho hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật, nhất là các hoạt động nghiên cứu phân tích, hoạch định chính sách còn chưa đáp ứng nhu cầu thực tế. Để tiến hành xây dựng một dự án luật, pháp lệnh hay bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào thì rất cần có các hoạt động điều tra, khảo sát xã hội, sự phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức có liên quan để cung cấp và chia sẻ thông tin, dữ liệu, hoạt động lấy ý kiến tư vấn của các chuyên gia và tham khảo ý kiến rộng rãi của các đối tượng chịu sự tác động của văn bản, qua đó nâng cao chất lượng và tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, tình trạng chung là kinh phí do Nhà nước cấp còn chậm, không đủ để triển khai một cách thực chất các hoạt động này, nên ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ và chất lượng văn bản.

+ Sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong việc xây dựng văn bản có lúc chưa chặt chẽ, một số cơ quan, đơn vị chưa tham gia tích cực cùng với cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo bàn bạc, thống nhất phương án giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong quá trình xây dựng văn bản. Việc phân công, phối hợp giữa các thành viên trong Ban soạn thảo, Tổ biên tập hoặc Tổ soạn thảo xây dựng văn bản chưa cụ thể, chưa cao. Tinh thần phối hợp của nhiều thành viên Tổ biên tập không thuộc cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo đôi khi còn thấp.

+ Cán bộ, công chức ở một số đơn vị được phân công chủ trì soạn thảo nhiều khi còn chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, giá trị và ý nghĩa của việc lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động,  trong đó có VCCI và cộng đồng doanh nghiệp về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Không ít cán bộ, công chức tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật còn có tư tưởng coi việc lấy ý kiến các đối tượng chịu sự tác động chỉ đơn thuần nhằm đáp ứng một thủ tục pháp luật quy định, nên chưa thực sự đầu tư thời gian, nguồn lực cho việc lấy ý kiến, giải trình việc tiếp thu, phản hồi ý kiến góp ý và cải thiện hiệu quả của việc lấy ý kiến các đối tượng chịu sự tác động của văn bản. 

+ Việc tiếp nhận, tập hợp, tổng hợp, nghiên cứu tiếp thu chỉnh lý dự thảo văn bản quy phạm theo ý kiến đóng góp của không ít đơn vị chủ trì xây dựng dự thảo văn bản đôi khi chưa thật sự đảm bảo được tính khách quan, minh bạch.

+ Còn thiếu cơ chế phối hợp nhịp nhàng, phù hợp giữa các đơn vị chủ trì xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và Cục Công nghệ thông tin trong việc đăng tải các nội dung cần thiết cho việc góp ý dự thảo trên cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp. Một số đơn vị chủ trì xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu chủ động trong việc cung cấp thông tin, tư liệu cho Cục Công nghệ thông tin để đăng tải. Có đơn vị sau khi cung cấp thông tin phục vụ việc đăng tải trên website của Bộ lại chưa quan tâm tới việc trao đổi, phản hồi đối với ý kiến góp ý của công dân, doanh nghiệp về các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đã được đăng tải trên website của Bộ Tư pháp.

+ Quy định của pháp luật hiện hành về xây dựng và thi hành pháp luật còn không ít bất cập, chưa tạo động lực phù hợp để các cán bộ, công chức, các đơn vị tham gia xây dựng và thi hành pháp luật nỗ lực cải thiện hiệu quả hoạt động của mình một cách bền vững.

+ Công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật trong xây dựng và thi hành pháp luật còn chưa đầy đủ, kịp thời.

+ Kỷ luật, kỷ cương hành chính đôi khi vẫn còn những nơi chưa thực hiện nghiêm, nhất là về mặt tiến độ triển khai các nhiệm vụ được giao.

+ Cách thức tổ chức, triển khai các nhiệm vụ cụ thể trong hoạt động thi hành pháp luật, quản lý nhà nước của không ít đơn vị đôi khi chưa phù hợp với chuẩn mực của nền hành chính hiệu quả như: chưa lượng hóa được các mục tiêu của nhiệm vụ; chưa phân công rõ trách nhiệm của từng cán bộ, công chức tham gia triển khai nhiệm vụ; chưa xác định rõ và chưa bố trí đủ các nguồn lực về tài chính, nhân lực, quan hệ công tác, thông tin và các nguồn lực khác phục vụ việc triển khai hoàn thành nhiệm vụ được giao; chưa tạo được cơ chế bền vững phát huy tính năng động, tích cực của cán bộ, công chức tham gia thực hiện nhiệm vụ; chưa thiết lập được cơ chế kiểm soát và cải thiện chất lượng công việc; chưa thiết lập được cơ chế đánh giá một cách thực chất thường xuyên hoặc cuối kỳ đối với hiệu quả triển khai các nhiệm vụ được giao.

+ Bản thân pháp luật về các lĩnh vực hoạt động của Bộ Tư pháp liên quan tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó có hoạt động thi hành án dân sự, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm và hoạt động quản lý nhà nước đối với lĩnh vực luật sư, tư vấn pháp luật vẫn còn không ít bất cập cần tiếp tục được hoàn thiện.

Nói những vấn đề đó để thấy rằng, nếu chúng ta xây dựng được những bộ chỉ số, những bộ số liệu phản ánh thực trạng, thì những bộ chỉ số, bộ số liệu như thế sẽ rất có ý nghĩa đối với những nhà quản lý, các cơ quan có thẩm quyền và với công chúng để nêu vấn đề, đề xuất hướng làm cho nền quản trị quốc gia của chúng ta ngày càng tốt hơn.

Bộ tiêu chí/chỉ số như thế sẽ là những chiếc cân hoặc những tấm gương soi giúp cho những người muốn biết rõ hơn hình ảnh của mình hoặc thực trạng của mình, có thể sử dụng.

            Tuy nhiên, để phản ánh cho đúng thực trạng, chiếc gương ấy phải là thứ gương tốt, gương sáng.

IV. Một số khuyến nghị

            Chỉ số MEI bị không ít người phản biện lại rằng đó chỉ là chỉ số phản ánh cảm nhận của cộng đồng doanh nghiệp về chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng và thi hành pháp luật của các Bộ chứ chưa phải là chỉ số thống kê khách quan có thể kiểm chứng lại một cách dễ dàng. Những phản biện như thế cho thấy những người đưa ra phản biện này mong muốn một cái gì đó có thể kiểm chứng được rõ nét hơn, đó chính là các chỉ số mang tính thống kê khách quan của hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật. Đấy chính là công việc mà hôm nay chúng ta bàn và chúng tôi hi vọng, bộ tiêu chí/chỉ số như thế sẽ sớm hoàn thiện trong thời gian tới đây.

            Tất nhiên, có được bộ chỉ số rồi, điều quan trọng tiếp theo là phải củng cố công tác tổ chức đo lường, đánh giá thế nào, để hệ thống thống kê không chỉ là con số, mà nó phải được vận hành trọn vẹn, phát huy tác dụng, hiệu lực của nó, không bị làm méo mó đi. Làm sao để công tác thống kê đích thực là thống kê, phản ánh đúng hiện thực khách quan, không bị làm thiên lệch đi vì lý do nào đó. Có như thế, ý nghĩa của công việc chúng ta đang làm hôm nay mới trọn vẹn ý nghĩa.