Khoảng trống trong quy định về hiệu lực của luật và văn bản quy định chi tiết thi hành, doanh nghiệp phải chịu thiệt?

15/05/2014

Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì “Văn bản quy định chi tiết phải quy định cụ thể, không lặp lại quy định của văn bản được quy định chi tiết và phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm được quy định chi tiết”. Như vậy, văn bản quy định chi tiết phải có hiệu lực thi hành cùng thời điểm với văn bản được quy định chi tiết. Tuy nhiên, trên thực tế sau gần sáu năm thi hành, có nhiều điểm bất cập từ quy định này, thực tế nhiều văn bản quy định chi tiết ban hành chậm hơn thời điểm có hiệu lực của văn bản được quy định chi tiết. Điều này dẫn đến nhiều khó khăn trong vấn đề thi hành pháp luật. Đơn cử từ một ví dụ về luật Khoáng sản năm 2010 để có cái nhìn đầy đủ hơn về khoảng trống này của pháp luật.

 

Luật khoáng sản năm 2010 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2011, trong đó, khoản 3 Điều 84 của Luật quy định: “kể từ ngày Luật này có hiệu lực, tổ chức, cá nhân đang thực hiện theo giấy phép khai thác được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực phải nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với phần trữ lượng khoáng sản chưa khai thác. Để có thể thực hiện việc thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản thì khoản 3 Điều 77 của Luật quy định “Chính phủ quy định cụ thể phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản”. Như vậy, để thực hiện quy định tại khoản 3 Điều 84 Luật khoáng sản năm 2010 thì Chính phủ phải ban hành nghị định để hướng dẫn về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Theo quy định của khoản 2 Điều 8 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì Nghị định của Chính phủ quy định cụ thể phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản phải được ban hành để có hiệu lực thi hành cùng thời điểm với Luật Khoáng sản vào ngày 01/7/2011.

Tuy nhiên, đến ngày 28/11/2013, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 203/2013/NĐ-CP quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/01/2014. Việc chậm ban hành Nghị định số 203/2013/NĐ-CP của Chính phủ đã làm cho quy định tại khoản 3 Điều 84 Luật khoáng sản năm 2010 thành “quy định treo” trong khoáng thời gian từ ngày 01/7/2011 đến ngày 20/01/2014. Mặt khác, theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp khai thác khoáng sản thì doanh nghiệp đã quyết toán năm, công bố lỗ - lãi, nộp các khoản thuế và đã phân chia lợi nhuận của các năm 2011, 2012 và 2013. Do đó, việc truy thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với phần trữ lượng khoáng sản chưa khai thác trước ngày 20/01/2014 là khó khả thi, gây khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang trong giai đoạn suy thoái. 

Thiết nghĩ, về nguyên tắc các doanh nghiệp khai thác khoáng sản phải biết và dự liệu việc thực hiện quy định tại khoản 3 Điều 84 Luật khoáng sản năm 2010. Nghĩa vụ thực hiệc việc nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản của doanh nghiệp khai thác khoáng sản đã phát sinh kể từ thời điểm Luật khoáng sản năm 2010 có hiệu lực thi hành là ngày 01/7/2011. Trong khoảng thời gian kể từ ngày 01/7/2011 đến ngày 20/01/2014, vì chưa có văn bản hướng dẫn thi hành nên việc thực hiện thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với phần trữ lượng khoáng sản chưa khai thác chưa được thực hiện. Việc chưa thực hiện việc thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với phần trữ lượng khoáng sản chưa khai thác do chưa có văn bản quy định chi tiết chỉ là tạm thời chưa thực hiện chứ không phải là không thực hiện. Song việc tự tính toán để lại khoản tiền nộp thuế dự phòng khi chưa có hướng dẫn của Chính phủ sẽ là khó khăn cho doanh nghiệp vì không có cơ sở cho việc dự liệu này. Việc chậm ban hành Nghị định số 203/2013/NĐ-CP của Chính phủ đã tạo khoảng trống pháp luật và điều kiện cho tổ chức, cá nhân không có cơ sở đầy đủ để thi hành pháp luật, khó đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, trách nhiệm này thuộc về Chính phủ mà không riêng gì tổ chức, cá nhân thi hành pháp luật.

Từ chậm trễ trong việc ban hành Nghị định số 203/2013/NĐ-CP quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (văn bản quy định chi tiết Luật Khoáng sản năm 2010), dẫn đến lúng túng của cơ quan có thẩm quyền trong việc áp dụng cũng như sự thiếu tự giác của tổ chức, cá nhân trong chấp hành pháp luật, tác giả thiết nghĩ đến vấn đề hiệu lực từng phần của văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo tính khả thi của quy định trong dự án Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hợp nhất đang được Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo. Ví dụ, đối với một luật khi được Quốc hội thông qua sẽ có một thời gian để chuẩn bị các điều kiện bảo đảm đến ngày luật có hiệu lực thi hành (thường là 06 tháng hoặc một năm). Tuy nhiên, đối với một số quy định nếu phức tạp và cần nhiều thời gian chuẩn bị hơn thì có thể quy định hiệu lực chậm hơn so với thời điểm có hiệu lực của luật đó. Điều này sẽ giúp cho cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết không quá bị áp lực về tiến độ mà xây dựng những văn bản kém chất lượng hay chậm trễ ban hành văn bản, dẫn đến quy định của luật thành “quy định treo” khi phải chờ văn bản quy định chi tiết để thực hiện.

                                     Ngọc Phượng, Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật