06 điều kiện bổ nhiệm Lãnh sự danh dự

10/02/2020
Ngày 06 tháng 02, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao ban hành Thông tư số 01/2020/TT-BNG về Lãnh sự danh dự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thông tư này có 4 chương 25 Điều hướng dẫn về việc bổ nhiệm, hoạt động, chấm dứt hoạt động, quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Lãnh sự danh dự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và áp dụng đối với Lãnh sự danh dự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Lãnh sự danh dự có nhiệm kỳ 03 năm
Lãnh sự danh dự do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao bổ nhiệm với nhiệm kỳ 03 (ba) năm theo đề nghị của người đứng đầu Cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam tại nước tiếp nhận hoặc tại nước kiêm nhiệm hoặc theo đề nghị của Cục trưởng Cục Lãnh sự. 
Khi kết thúc nhiệm kỳ, Lãnh sự danh dự có thể được Bộ trưởng Bộ Ngoại giao bổ nhiệm lại theo đề nghị của người đứng đầu Cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam tại nước tiếp nhận hoặc tại nước kiêm nhiệm hoặc theo đề nghị của Cục trưởng Cục Lãnh sự. 
Lãnh sự danh dự chịu sự quản lý và chỉ đạo trực tiếp của người đứng đầu Cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam tại nước tiếp nhận hoặc tại nước kiêm nhiệm. Trong trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao có thể ủy quyền cho Cục trưởng Cục Lãnh sự quản lý và chỉ đạo trực tiếp hoạt động của Lãnh sự danh dự. 
06 điều kiện bổ nhiệm Lãnh sự danh dự
Người được bổ nhiệm làm Lãnh sự danh dự phải đáp ứng những điều kiện sau: 
Là công dân Việt Nam, công dân nước tiếp nhận hoặc công dân nước thứ ba; 
Thường trú tại nước tiếp nhận; 
Có uy tín trong xã hội, có khả năng tài chính;
Có lý lịch tư pháp rõ ràng;
Có hiểu biết về Việt Nam và nước tiếp nhận; 
Không phải là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước Việt Nam hoặc của bất cứ nước nào, không nhận lương từ ngân sách của Chính phủ Việt Nam hoặc bất cứ nước nào. 
Thông tư cũng quy định cụ thể chức năng và nhiệm vụ của lãnh sự danh sự, trong đó có 06 chức năng sau: bảo hộ lãnh sự; cung cấp thông tin; hỗ trợ và giúp đỡ công dân; thừa kế; liên quan đến tàu biển, tàu bay và các phương tiện giao thông vận tải khác; chức năng đối với việc phòng dịch và bảo vệ thực vật, động vật. Theo đó, Lãnh sự danh dự áp dụng mọi biện pháp thích hợp để bảo hộ lãnh sự đối với lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, pháp nhân Việt Nam trong khu vực lãnh sự phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước tiếp nhận và điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước tiếp nhận là thành viên, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế. Lãnh sự danh dự có nghĩa vụ thông báo về mọi thông tin có được trong trường hợp công dân Việt Nam bị bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc chấp hành hình phạt tù trong khu vực lãnh sự cho Cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam tại nước tiếp nhận hoặc tại nước kiêm nhiệm hoặc cho Cục Lãnh sự và thực hiện những chỉ thị có liên quan của các cơ quan này. 
Ngoài ra, Lãnh sự danh dự hỗ trợ và giúp đỡ các hoạt động văn hóa, xã hội của công dân Việt Nam trong khu vực lãnh sự; Lãnh sự danh dự vận động hỗ trợ vật chất cho công dân Việt Nam trong khu vực lãnh sự khi họ gặp hoạn nạn, khó khăn; Lãnh sự danh dự tiếp nhận và chuyển các giấy tờ về hộ tịch, đề nghị liên quan đến quốc tịch Việt Nam của công dân Việt Nam cư trú trong khu vực lãnh sự cho Cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam tại nước tiếp nhận hoặc tại nước kiêm nhiệm hoặc cho Cục Lãnh sự. 
Về chức năng thừa kế, Thông tư quy định: Trường hợp trong khu vực lãnh sự có thừa kế được mở có lợi cho công dân Việt Nam mà những người này không có mặt ở nước tiếp nhận hoặc không ủy quyền cho người khác đại diện quyền lợi của mình thì Lãnh sự danh dự áp dụng ngay những biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi của những người này, đồng thời thông báo cho Cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam tại nước tiếp nhận hoặc tại nước kiêm nhiệm hoặc cho Cục Lãnh sự. Trường hợp trong khu vực lãnh sự có thừa kế được mở có lợi cho Nhà nước hoặc pháp nhân Việt Nam, Lãnh sự danh dự có nghĩa vụ thông báo tương tự. 
 Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 23 tháng 03 năm 2020, thay thế Quy chế Lãnh sự danh dự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 06 NG/QĐ ngày 08 tháng 01 năm 1994 của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.