Mới chỉ hình thành và phát triển vài chục năm, nhưng cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã khiến cho nhiều ngành kinh tế, xã hội và văn hoá phụ thuộc vào các công nghệ mới của nó, trong đó đặc biệt phải kể đến vai trò của máy tính điện tử và internet. Công nghệ thông tin cũng hình thành một thế hệ mới, khác so với thế hệ cách họ chỉ vài chục năm ở chỗ phụ thuộc vào công nghệ, coi máy tính, internet, email, điện thoại di động, máy ảnh số, máy nghe nhạc số... là những công cụ không thể thiếu trong cuộc sống. Cuộc cách mạng cũng phát triển những khái niệm, những từ ngữ mới và mới cách đây vài chục năm chưa được nhắc đến như nhưng nay đã trở lên quen thuộc trong đời sống xã hội như: thư điện tử (email), mạng thông tin toàn cầu (internet), thông tin di động (mobile phone), thương mại điện tử (e-commercial), công nghệ số (digital technology) công nghệ không dây (wifi, Bluetooth), trò chuyện trên mạng (chatting), trò chơi trên mạng (game online) .v.v và v.v.
Cũng như bất kỳ một thành tựu khoa học nào của nhân loại, khi mà các thành tựu càng được ứng dụng rộng rãi trong đời sống xã hội thì càng dễ bị lợi dụng, sử dụng hoặc là mục tiêu của giới tội phạm. Các thành tựu do công nghệ thông tin đem lại cũng không nằm ngoài quy luật đó, nên trong thế giới mà công nghệ thông tin đã tạo nên cho con người đã hình thành một khái niệm mới về loại tội phạm - tội phạm về công nghệ thông tin hay còn được biết đến với các tên khác nhau như: tội phạm mạng (cyber crimes), tội phạm tin học hay tội phạm liên quan đến máy tính (computer crimes). Đây là những khái niệm mới không chỉ đối với Việt Nam chúng ta mà còn đối với nhiều nước trên thế giới. Do vậy, ngay từ việc sử dụng thuật ngữ đến việc đưa ra khái niệm, đặc điểm đến việc xếp những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào bị liệt kê vào danh sách của loại tội phạm này cũng còn có nhiều ý kiến không đồng nhất. Đây hiện được xem là một trong những mối quan ngại của cả cộng đồng thế giới và là một thử thách mới đối với các nhà làm luật cũng như các cơ quan thực thi pháp luật trong việc định ra những quy định phù hợp để có thể phòng ngừa và trấn áp một cách có hiệu quả loại tội phạm này.
1. Khái niệm và các đặc điểm của tội phạm công nghệ thông tin[1].
1.1. Khái niệm tội phạm công nghệ thông tin.
Trước hết, xét về bản chất thì tội phạm công nghệ thông tin cũng có đầy đủ các tính chất, đặc điểm như mọi tội phạm truyền thống khác, nghĩa là cũng được coi là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, gồm 4 cấu thành cơ bản của một tội phạm (mặt khách thể, mặt khách quan, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm). Điểm khác biệt giữa chúng với tội phạm khác là công nghệ thông tin, máy tính và mạng máy tính có vai trò, mức độ nhất định trong việc thực hiện, che giấu và gây ra những hậu quả tác hại đối với xã hội của hành vi phạm tội[2]. Nhìn một cách tổng thể, đối với loại tội phạm công nghệ thông tin, chúng ta thấy công nghệ thông tin, máy tính và mạng máy tính đóng một số vai trò quan trọng trong quá trình phạm tội, chúng vừa có thể là khách thể của tội phạm, vừa có thể là công cụ phạm tội lại vừa có thể đóng vai trò như là chủ thể của tội phạm.
Dưới góc độ là khách thể của tội phạm, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất máy tính và các thiết bị có liên quan là một loại tài sản có giá trị, do vậy nó có thể trở thành đối tượng các các tội về xâm phạm quyền sở hữu như ăn cắp hay phá hoại tài sản. Hiểu theo một giác độ phức tạp hơn, máy tính với vai trò như là khách thể của tội phạm còn được thể hiện trong việc tội phạm cố tình phá hoại hay ăn cắp chúng nhằm xoá bỏ hoặc lấy cắp các thông tin mà nó chứa đựng.
Dưới góc độ là công cụ phạm tội, máy tính và mạng internet ngày càng được các loại tội phạm khác nhau sử dụng vì những khả năng ưu việt của chúng. Việc sử dụng máy tính và các thiết bị liên quan làm công cụ phạm tội cũng được chia ra làm hai loại: loại thứ nhất sử dụng máy tính như là công cụ để thực hiện các tội phạm truyền thống như tội đánh bạc, tội lừa đảo; loại thứ hai sử dụng máy tính, các phần mềm máy tính và các bí mật được lưu giữ trong máy tính như là miếng mối để dụ những người nhẹ dạ cả tin. Trong một vụ việc diễn ra ở bang Florida, Mỹ, một tên tội phạm đã lừa đảo trên 50 triệu đô la của các nhà đầu tư với việc đưa ra thông tin rằng anh ta đang nghiên cứu một phần mềm mà có khả năng sẽ thu lợi rất lớn.
Còn dưới góc độ chủ thể của tội phạm, mặc dù chúng ta đều biết rằng theo lý luận chung chỉ các cá nhân mới được coi là chủ thể của tội phạm, tuy nhiên nếu xét về bản chất của vấn đề tức là xét dưới góc độ đối tượng đã thực hiện hành vi phạm tội thì máy tính và mạng máy tính trong một số trường hợp cũng có thể được coi đóng vai trò như là một chủ thể của tội phạm. Trong trường hợp này, chính môi trường của máy tính, các tính năng của máy tính đã thực hiện các hành vi cấu thành tội phạm. Ví dụ như trường hợp phát tán virus tin học là một ví dụ. Người làm ra và phát tán virus tin học đôi khi chỉ chủ định phát tán trên một hoặc một số máy tính nhất định. Tuy nhiên, với tính năng phát tán qua mạng thông qua thư điện tử, các máy tính này đã tự động phát tán các virus này sang các máy tính khác và gây ra hậu quả hàng triệu máy tính có thể bị nhiễm virus trong thời gian rất ngắn.
Mặc dù chúng ta tạm chia vài trò của công nghệ thông tin và máy tính đối với từng quá trình diễn biến của tội phạm như trên, nhưng trên thực tiễn việc nhận thức về vấn đề này rất khác nhau ở từng quốc gia, từng khu vực và phụ thuộc vào trình độ phát triển khoa học công nghệ của quốc gia, khu vực đó. Tuỳ thuộc vào nhận thức, khái niệm về tội phạm công nghệ thông tin có thể rất rộng cũng có thể là rất hẹp.
Tiếp cận trên phạm vi rộng, thì việc phân loại thế nào là tội phạm công nghệ thông tin cần dựa trên vai trò của máy tính trong tội phạm. Theo quan điểm này thì tội phạm tin học bao gồm những tội phạm có sự liên can, dính líu của máy tính tới tội phạm với ba vai trò sau:
- Máy tính là mục đích của tội phạm;
- Máy tính là công cụ phạm tội;
- Máy tính là vật trung gian để cất giấu, lưu trữ những thứ đã chiếm đoạt được.
Theo quan điểm này thì rất nhiều các loại tội phạm truyền thống cũng đề bị coi là tội phạm công nghệ thông tin hay tội phạm tin học, đặc biệt là những tội sử dụng máy tính, mạng máy tính làm công cụ, phương tiện phạm tội, ví dụ như tội đánh bạc trên mạng, tội cung cấp các dịch vụ mại dâm trực tuyến, tội truyền bá văn hoá phẩm đồi truỵ trên mạng...[3] Một trong những định nghĩa rộng nhất về tội phạm máy tính thể hiện quan điểm theo nghĩa rộng này được Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đưa ra như sau: "tội phạm tin học là bất cứ các hành vi vi phạm pháp luật hình sự nào có liên quan đến việc sử dụng các hiểu biết về công nghệ máy tính trong việc phạm tội, điều tra hoặc xét xử"[4]. Theo định nghĩa này thì bất cứ tội phạm nào cũng có thể được xếp vào loại tội phạm máy tính vì chỉ cần trong quá trình điều tra các điều tra viên sử dụng máy tính để tìm kiếm thông tin cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của định nghĩa.
Quan điểm hiểu tội phạm tin học theo theo phạm vi rộng cũng vấp phải một vấn đề khó khăn đó là cụ thể hoá các hành vi phạm tội cụ thể từ đó xác định tội danh cụ thể cho các hành vi này. Đây là công việc không dễ dàng vì khi định tội danh xét về bản chất nhiều tội danh lại trùng với các tội danh truyền thống như tội lừa đảo, đánh bạc..., có khác chăng ở đây là việc sử dụng công cụ là mạng máy tính mà thôi.
Tiếp cận trên phạm vi hẹp, có nhà nghiên cứu cho rằng tội phạm công nghệ thông tin chỉ là tội phạm được thực hiện và gây hậu quả trên môi trường, trên thế giới ảo do thành tựu của khoa học công nghệ tin học đem lại và nó hoàn toàn khác với các loại tội phạm truyền thống trước kia. Bộ luật hình sự nước ta năm 1999 đã tiếp cận theo quan điểm này. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự 1999 mới chỉ đề cập đến 3 tội danh có liên quan đến máy tính, đó là các tội: tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình vi-rút tin học (Điều 224); tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử (Điều 225); tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính (Điều 226). Trên thế giới hiện nay đã xuất hiện thêm nhiều hành vi được coi là tội phạm công nghệ thông tin khác hiểu theo phạm vi hẹp này như: tội vào cửa bằng mật khẩu ăn cắp; tội sao chụp bất hợp pháp các chương trình phần mềm; tội đe doạ tấn công hệ thống máy tính... Phương pháp tiếp cận theo phạm vi hẹp này tuy có ưu điểm là định rõ được tội danh cần xử lý nhưng lại có nhược điểm là rất dễ bỏ sót tội phạm, nhất là trong bối cảnh công nghệ thông tin đang phát triển như vũ bão như hiện nay. Một ví dụ điển hình trên thế giới hiện nay đang tranh cãi về việc có coi hành vi trộm cắp, lừa đảo các tài sản mà người chơi có được khi chơi trò chơi trực tuyến hay không. Nếu nhìn dưới góc độ thế nào là tài sản theo quy định của pháp luật hiện hành, thì các "tài sản" ảo này là hoàn toàn không giá trị vì nó thực chất không phải là tài sản vì chỉ là những thứ được tạo ra trong thế giới ảo do một phần mềm máy tính (những người xây dựng lên trò chơi trực tuyến) nghĩ ra. Tuy nhiên, nếu xét dưới góc độ các tài sản này là do người chơi đã bỏ nhiều công sức để tạo lập được, cùng với tính chất có thể "chiếm hữu, sử dụng và định đoạt" (thực chất chiếm hữu, sử dụng và định đoạt ở đây cũng chỉ là tương đối) và đặc biệt là những tài sản này có thể quy đổi sang giá trị thực (có thể bán cho những người chơi khác) thì chúng lại thực sự cần được coi là một tài sản thực và cần được pháp luật bảo vệ trước các hành vi như lừa đảo, trộm cắp nhưng đối với các tài sản hữu hình khác.
Mặt khác, nếu chỉ coi tội phạm tin học giới hạn trong phạm vi thế giới ảo, môi trường điện tử do công nghệ thông tin đem lại thì đối với những tội phạm truyền thống sử dụng thành tựu công nghệ thông tin đem lại thực hiện hành vi phạm tội, việc truy tìm dấu vết, chính sách ngăn ngừa, đấu tranh đối với hành vi này sẽ không có gì khác so với các phương pháp xử lý truyền thống, trong khi về bản chất thì các hành vi phạm tội này khác hẳn, như kẻ phạm tội tống tiền trên mạng trong và sau khi thực hiện hoàn toàn có thể xoá sạch toàn bộ dấu vết tội phạm bằng kỹ thuật công nghệ tin học gây không ít khó khăn cho hoạt động thu thập dấu vết nếu các phương pháp thu thập, bảo quản chứng cứ không thay đổi phù hợp[5].
Chính vì mỗi một quan điểm lại có những khiếm khuyết nhất định, nên hiện nay trên thế giới vẫn chưa đi tới được một khái niệm hoàn chỉnh được mọi người cùng nhất trí. Tại cuộc họp lần thứ 10 của Đại hội đồng Liên hợp quốc về ngăn chặn và xử lý tội phạm được tổ chức tại thành phố Viên (áo) từ ngày 10 đến ngày 17 tháng 10 năm 2000, một cuộc hội thảo đã được tổ chức để bàn về vấn đề tội phạm công nghệ thông tin, việc định nghĩa tội phạm này đã được chia ra thành hai dạng tội phạm:
- Thứ nhất, tội phạm công nghệ thông tin theo nghĩa hẹp: được định nghĩa là các hành vi phạm tội sử dụng máy tính và mạng máy tính với mục đích xâm phạm đến an toàn của hệ thống máy tính và quy trình lưu trữ dữ liệu của hệ thống đó. Loại tội phạm theo định nghĩa này có thể được hiểu là loại tội phạm mới có quan hệ trực tiếp đến máy tính, mạng máy tính, làm ảnh hưởng và gây thiệt hại cho người sử dụng.
- Thứ hai, tội phạm công nghệ thông tin được hiểu theo nghĩa rộng: được định nghĩa là các hành vi phạm tội sử dụng máy tính hoặc các phương pháp khác có liên quan đến máy tính, mạng máy tính, bao gồm các loại tội phạm như chiếm giữ bất hợp pháp và đe doạ hoặc làm sai lệnh thông tin bằng phương pháp sử dụng mạng máy tính. Loại tội phạm theo định nghĩa này là rất rộng, bao gồm nhiều loại hành vi của tội phạm truyền thống được thực hiện với sự trợ giúp của công cụ máy tính mà phổ biến hiện nay như các hành vi lừa đảo, trốn lậu cước viễn thông, mạo danh...
Định nghĩa này tuy chưa phải là một định nghĩa hoàn chỉnh, còn hết sức chung chung và sơ sài tuy nhiên nó có ý nghĩa quan trọng ở chỗ lần đầu tiên khái niệm thế nào là tội phạm công nghệ thông tin (hay tội phạm mạng) đã được các nước trên thế giới thảo luận và đi tới nhất trí. Tội phạm công nghệ thông tin, theo định nghĩa nêu trên, là những tội phạm liên quan đến máy tính và cách mạng thông tin. Định nghĩa thừa nhận tội phạm công nghệ thông tin bao gồm cả các tội phạm mới hình thành trong môi trường của công nghệ thông tin và cả những tội phạm truyền thống nhưng được thực hiện với sự giúp đỡ của các công nghệ thông tin mới. Để làm rõ hơn khái niệm về loại tội phạm công nghệ thông tin từ đó đưa ra những điểm khác biệt với tội phạm truyền thống khác, trước tiên chúng ta phân tích các đặc điểm của tội phạm công nghệ thông tin trên 4 dấu hiệu đặc trưng của tội phạm: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm.
1.2. Các đặc điểm của tội phạm công nghệ thông tin.
a/ Khách thể của tội phạm.
Trên cơ sở khái niệm về tội phạm công nghệ thông tin được nêu ở phần trên, chúng ta có thể chia khách thể của tội phạm này thành 2 loại:
Thứ nhất, tội phạm công nghệ thông tin xâm phạm, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của hệ thống máy tính, mạng máy tính và thiết bị liên quan. Sự xâm phạm ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là các từ việc làm hỏng hóc, chiếm đoạt, làm sai lệnh thông tin của máy tính, mạng máy tính, các thiết bị liên quan cũng như các thông tin trong hệ thống máy tính và mạng máy tính. Các khách thể này rất đa dạng, từ chiếc máy tính đơn nhất, các thiết bị của mạng máy tính... đến các chương trình máy tính, các thông tin chứa đựng trong hệ thống máy tính và hệ thống mạng. Đây là nhóm khách thể của 03 tội danh về tin học trong Bộ luật hình sự 1999 của nước ta.
Thứ hai, tội phạm công nghệ thông tin sử dụng máy tính và mạng máy tính như là công cụ để xâm phạm đến lợi ích chính đáng của cá nhân, pháp nhân, tổ chức, ảnh hưởng đến trật tự công cộng. Đây là khách thể rất rộng và liên quan đến các tội phạm truyền thống những đã sử dụng các thành tựu của công nghệ thông tin để thực hiện hành vi phạm tội. Với sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật mới, các tội phạm này có thể gây ra những thiệt hại vô cùng nghiêm trọng về nhiều mặt cho hoạt động bình thường của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và đời sống xã hội không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia.
b/ Mặt khách quan của tội phạm
Các hành vi của tội phạm công nghệ thông tin hay rất đa dạng và phức tạp. Các hành vi này cũng phát triển, thay đổi không ngừng cùng với sự phát triển của các công nghệ mới.
Hiện nay, theo Bộ luật hình sự 1999 của nước ta thì có 3 nhóm hành vi chính, đó là:
- Nhóm hành vi tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình vi rút qua mạng máy tính hoặc bằng các phương thức khác. Tạo ra các chương trình vi-rút là hành vi sản xuất ra các chương trình vi-rút tin học. lan truyền các chương trình vi-rút là hành vi truyền đi các chương trình vi-rút tin học thông qua hệ thống (mạng) máy tính trong nước hoặc quốc tế (internet). Phát tán các chương trình vi-rút là hành vi truyền các chương trình vi-rút tin học không thông qua hệ thống mạng máy tính mà bằng các sản phẩm phần mềm máy tính (Điều 224).
- Nhóm hành vi vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử trái với các quy định của Nhà nước. Vận hành mạng máy tính điện tử là hành vi khởi động, truy cập vào hệ thống mạng máy tính điện tử. Khai thác mạng máy tính điện tử là hành vi tìm kiếm nhằm rút ra hoặc ghi lại các thông tin cần thiết cho nhu cầu của mình từ các dữ liệu trong mạng máy tính điện tử. Sử dụng mạng máy tính điện tử là hành vi phát huy tính năng, công dụng của mạng máy tính điện tử nhằm khai thác các thông tin có trong các dữ liệu của máy tính (Điều 225).
- Nhóm hành vi sử dụng thông tin trên mạng và trong máy tính hoặc đưa vào mạng máy tính các thông tin trái với các quy định của Nhà nước. Sử dụng trái phép thông tin trong các dữ liệu của máy tính không được phép của cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền. Đưa trái phép vào mạng máy tính các thông tin là hành vi đưa các thông tin vào trong các dữ liệu của máy tính không được phép của các cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền (Điều 226)[6].
Các khối nước thuộc Liên xô cũ cũng có những quy định liên quan đến hành vi của tội phạm công nghệ thông tin tương tự, tuy đối chỗ có rộng hơn. Bộ luật hình sự Liên bang Nga dành 1 chương (Chương 28) quy định về các tội phạm thông tin máy tính (computer information crimes) gồm 3 nhóm hành vi: thâm nhập vào hệ thống thông tin máy tính trái phép; sản xuất, sử dụng và phát tán các phần mềm máy tính có hại; vi phạm các quy định về vận hành mạng và hệ thống máy tính. Bộ luật hình sự Belarus quy định các tội phạm này trong Chương 31 "Các tội phạm về an toàn thông tin", trong đó quy định 6 nhóm hành vi: thâm nhập vào hệ thống thông tin máy tính trái phép; sửa đổi các thông tin của hệ thống máy tính; phá hoại thông tin máy tính; phát triển, sử dụng và phát tán các chương trình máy tính gây hại; vi phạm các quy định về vận hành mạng và hệ thống máy tính.
Theo tác giả Mohamed Chawki, Trường Đại học Tổng hợp Lyon III, Pháp[7] thì các nhóm hành vi sau đây có thể coi là mặt khách quan của loại tội phạm công nghệ thông tin:
- Xâm nhập trái phép vào các hệ thống máy tính và thông tin (hacking).
- Tạo ra, lan truyền và phát tán các vi-rút tin học có hại.
- Lừa đảo trên mạng (Online Fraud), bao gồm các hành vi: lấy cắp thông tin về tài khoản; giả mạo thông qua các thông tin lấy cắp được từ hệ thống máy tính; thay đổi dữ liệu hoặc các chương trình; lừa đảo đấu giá trực tuyến; giả mạo thư điện tử.
- Quấy rối tình dục và lăng mạ người khác trên mạng.
- Khủng bố mạng thông tin.
- Đe doạ trên mạng.
Như vậy, theo quan điểm của Mohamed Chawki thì rất nhiều các hành vi phạm tội truyền thống (như hành vi lừa đảo, khủng bố, tống tiền, quấy rối tình dục...) cũng có thể được coi là hành vi phạm tội về công nghệ thông tin nếu các hành vi này được thực hiện thông qua hệ thống máy tính.
Thông thường, các hành vi phạm tội của nhóm tội phạm về công nghệ thông tin cần phải gây ra hậu quả thiệt hại nhất định thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 224 Bộ luật hình sự 1999 quy định nếu chỉ tạo ra các chương trình vi-rút nhưng không lan truyền hoặc phát tán chúng, không gây ra hậu quả thiệt hại thì không cấu thành tội phạm.
c/ Chủ thể của tội phạm.
Cũng giống như các tội phạm truyền thống khác, chủ thể của tội phạm công nghệ thông tin là những cá nhân ở độ tuổi có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bộ luật hình sự 1999 nước ta quy định là công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không có quốc tịch từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. Đối với các tội phạm công nghệ thông tin, các chủ thể này thường là những người có hiểu biết về công nghệ máy tính, công nghệ mạng và đã lợi dụng những hiểu biết này để thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, cũng có trường hợp chủ thể là những người không hiểu biết đầy đủ về các quy định liên quan đến vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử dẫn đến những thiệt hại (ví dụ Điều 225 Bộ luật hình sự 1999 về tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử). Một vấn đề nữa đáng lưu ý hiện nay đối với chủ thể của nhóm tội phạm này là tình trạng ngày càng "trẻ hoá" của các hacker[8]. Với sự phát triển của công nghệ thông tin và các chương trình phần mềm, giới trẻ luôn là thế hệ nhận biết nhanh nhạy những công nghệ mới, công với tính cách còn bồng bột, thích thể hiện mình nên rất dễ dẫn đến việc rơi vào con đường phạm tội với những động cơ và mục đích hết sức đơn giản, ngây thơ, chẳng hạn tạo ra và phát tán virus tin học gây hại chỉ để đùa vui, hoặc thâm nhập các trang thông tin chỉ để thể hiện khả năng của bản thân.
d/ Mặt chủ quan của tội phạm.
Đối với các tội phạm về công nghệ thông tin, thông thường được thực hiện do lỗi cố ý. Trong 3 tội danh có liên quan đến tội phạm tin học trong Bộ luật hình sự 199 có một tội danh được thực hiện do lỗi vô ý do cẩu thả hoặc quá tự tin là tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử (Điều 225). Tuy nhiên, trong trường hợp lỗi vô ý, thì thường là những hành vi gây ra hậu quả thiệt hại nghiêm trọng. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm xảy ra các thiệt hại. Trong trường hợp tuy hành vi phạm tuy hành vi chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng nhưng trước đó đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì hành vi vẫn cấu thành tội phạm.
Các yếu tố về động cơ, mục đích phạm tội của nhóm các tội phạm công nghệ thông tin thường không phải là dấu hiệu bắt buộc của loại tội phạm này mà quan trọng nhất để xác định tội phạm là hành vi phạm tội và hậu quả thiệt hại. Sở dĩ như vậy vì chúng ta có thể thấy động cơ, mục đích của nhóm tội về công nghệ thông tin rất đa dạng và đôi khi động cơ, mục đích rất đơn giản nhưng lại gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng. Do đó, đối với nhóm tội phạm này, chúng ta không thể coi động cơ, mục đích là dấu hiệu bắt buộc mà chỉ nên coi chúng nhưng là những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ có liên quan mà thôi.
2. Sự khác biệt giữa tội phạm công nghệ thông tin với tội phạm thông thường.
Qua phân tích những đặc điểm của tội phạm công nghệ thông tin ở phần trên chúng ta cũng đã thấy được phần nào sự khác biệt giữa nhóm các tội phạm công nghệ thông tin với các nhóm tội phạm thông thường khác. Tựu chung lại có thể thấy 4 đặc điểm khác biệt cơ bản của tội phạm công nghệ thông tin so với tội phạm truyền thống như sau:
a/Về vai trò của máy tính, mạng máy tính và các thiết bị công nghệ thông tin có liên quan: như ngay phần đầu bài viết đã phân tích, một điểm khác biệt cơ bản giữa các tội công nghệ thông tin và tội phạm thông thường chính là ở vai trò của máy tính, mạng máy tính cũng như các thiết bị công nghệ thông tin khác có liên quan đến quá trình thực hiện tội phạm. Tất cả các tội phạm công nghệ thông tin đều có liên quan không ít thì nhiều đến máy tính, mạng máy tính và các thiết bị công nghệ thông tin có liên quan. Máy tính, mạng máy tính vừa có thể là đối tượng của tội phạm lại vừa có thể là môi trường và công cụ đắc lực để thực hiện hành vi tội phạm.
b/ Về đặc điểm chủ thể: kẻ phạm các tội về công nghệ thông tin hầu hết là những người thông minh, những người có tri thức và am hiểu về công nghệ mới. Phần lớn những người phạm tội là những người có hiểu biết vững vàng về công nghệ kỹ thuật số, máy tính và có kỹ năng khai thác sử dụng chúng thành thạo. Vì vậy, họ luôn thành công trong việc phạm tội và gây rất nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng, thường thị họ là những người trẻ tuổi, chưa từng bị pháp luật trừng trị và không hề có tiền án.
c/ Về hậu quả thiệt hại: hậu quả của tội phạm công nghệ thông tin thường hết sức nặng nề. Một khi các hoạt động quản lý xã hội được máy tính hoá, hệ thống mạng, hệ thống thông tin được phổ biến rộng khắp trên tất cả các lĩnh vưục của đời sống xã hội, thì hậu quả do tội phạm này gây ra sẽ nhanh chóng ảnh hưởng tới hầu hết các lĩnh vực của đời sống với tốc độ chóng mặt gây ra các hậu quả khôn lường về kinh tế - xã hội. Theo thống kê không đầy đủ của các chuyên gia an ninh mạng của Hoa Kỳ thì nước này mỗi năm thiệt hại khoảng từ 550 triệu đến 13 tỷ đô la do các tội phạm công nghệ thông tin gây ra. Các chuyên gia của EU cũng chỉ ra trong vài năm gần đây, những nhóm hacker có tổ chức chuyên phá hoại và thay đổi các trang thông tin ngày càng lộng hành. Chúng không chỉ gây tổn thất về tài chính tới hàng tỉ đô la mỗi năm mà trong một số trường hợp, còn gây hại đến tính mạng con người, chẳng hạn như việc tấn công vào các hệ thống điều khiển bệnh viện và không lưu. ở Việt Nam tuy loại tội phạm này chưa phát triển nhưng cũng đã gây ra thiệt hại rất lớn, nhất là trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Rất nhiều các phần mềm do các công ty trong nước sản xuất vừa đưa ra thị trường đã bị giới hacker bẻ khoá, đăng các ký hiệu đăng ký công khai trên mạng hoặc sang in đĩa chương trình lậu khiến các công ty phần mềm rất khó khăn trong việc thu hồi vốn và bảo vệ bản quyền.
d/ Về tính chất hành vi phạm tội: các hành vi phạm tội có liên quan đến công nghệ thông tin thường rất tinh xảo. Tính chất này được quy định do các đặc điểm sau:
- Thứ nhất, tội phạm công nghệ thông tin phá huỷ hoạt động của các đối tượng tồn tại dưới dạng vật thể, như chương trình máy tính hoặc dữ liệu, mà không phá huỷ máy tính hoặc mạng máy tính, mạng thông tin hay các linh kiện của chúng, nên sự phá huỷ này không để lại các dấu vết của sự phá huỷ tồn tại dưới dạng vật thể.
- Thứ hai, kẻ phạm tội chỉ thực hiện hành vi phạm tội trong nháy mắt, chúng có thể thực hiện hành vi phạm tội chỉ trong vòng một phần nghìn, thậm chí một phần triệu giây bằng các máy tính có tốc độ xử lý siêu tốc.
- Thứ ba, kẻ phạm tội không bị hạn chế về thời gian, không gian, chúng có thể thực hiện hành vi phạm tội ở bất cứ khi nào, bất cứ đâu thậm chí rất từ một nơi rất xa hiện trường hoặc từ nước ngoài.
- Cuối cùng có thể thấy đối với loại tội phạm này là việc điều tra thu thập dấu vết cực kỳ khó khăn. Bởi kẻ phạm tội có thể xoá bỏ hoàn toàn các dấu vết của hành vi phạm tội với một chương trình xoá dấu vết đã được đặt sẵn khi các lệnh phạm tội được thực hiện[9].
Ngoài bốn đặc điểm khác biệt cơ bản kể trên, chúng ta cũng có thể thấy một số dấu hiệu khác biệt khác so với các nhóm tội phạm thông thường như tính không biên giới của loại tội phạm này, tính chất ngày càng tăng về số lượng và hậu quả, tinh vi về cách thức tiến hành cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng công nghệ thông tin... Nhận biết các dấu hiệu này giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc xác định đúng các loại tội danh thuộc nhóm tội phạm về công nghệ thông tin để có những biện pháp ngăn ngừa và xử lý có hiệu quả.
Tóm lại, tội phạm công nghệ thông tin, hay còn có các tên gọi khác nhau như tội phạm mạng, tội phạm máy tính, tội phạm vi tính... là một nhóm tội phạm mới hình thành trong quá trình phát triển của cuộc cách mạng công nghệ thông tin vào cuối thế kỷ 20 và được dự báo là sẽ phát triển rất nhanh vào thể kỷ này. Hầu hết các nước trên thế giới đều đã và đang ban hành những quy phạm pháp luật hình sự để ngăn ngừa và trừng trị loại tội phạm này. Bộ luật hình sự 1999 của nước ta cho thấy tội phạm công nghệ thông tin đã được tội phạm hoá ở nước ta, cho dù nội dung còn hết sức khái quát cần phải được cụ thể hoá, chi tiết hoá từng hành vi cụ thể cũng như bổ sung thêm những hành vi tội phạm mới thì cuộc đấu tranh với loại tội phạm này mới thực sự hiệu quả. Để công tác lập pháp đạt hiệu quả, các nghiên cứu có tính chất lý luận nền tảng về khái niệm, đặc điểm của loại tội phạm mới về công nghệ thông tin là hết sức cần thiết, cần được tiếp tục đầu tư nhiều hơn nữa trong thời gian tới./.
Đặng Trung Hà - Vụ PLQT
[7] A Critical look at the regulation of Cybercrime - Mohamed Chawki. Trang 14-21.