Thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp (hợp tác pháp luật[1]) là một trong những chức năng, nhiệm vụ chính của Bộ Tư pháp tất cả các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, nội dung hợp tác về pháp luật của các quốc gia lại không hoàn toàn đồng nhất, do phụ thuộc vào chức năng, thẩm quyền của Bộ Tư pháp từng nước. Đa phần nội dung hợp tác về pháp luật của các nước thường rất toàn diện, cả về tư pháp dân sự và hình sự, trong đó đặc biệt có khuynh hướng thiên về các vấn đề hình sự. Bộ Tư pháp Italia là một điển hình của mô hình hợp tác pháp luật toàn diện đó, và đây cũng chính là điểm khác biệt so với chức năng của Bộ Tư pháp Việt Nam.
Bài viết dưới đây sẽ giới thiệu tóm tắt chức năng hợp tác quốc tế về pháp luật của Bộ Tư pháp Italia, so sánh và đặt trong tổng thể bối cảnh chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Bộ Tư pháp nước này. Bài viết gồm 3 phần: Phần 1 khái quát bức tranh tổng thể về hệ thống tư pháp Italia, trong đó nhấn mạnh chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Bộ Tư pháp nước này; Phần 2 trình bày nội dung hợp tác pháp luật của Bộ Tư pháp Italia và Phần 3 gợi mở một số suy nghĩ từ việc tham khảo mô hình hợp tác pháp luật toàn diện của Italia và các nước. Mục đích của bài viết là cung cấp phần nào thông tin mang tính cơ sở thực tiễn cho việc thực hiện chủ trương hoàn thiện các cơ quan tư pháp trong quá trình hội nhập và sự cần thiết hài hoà hoá các quy định pháp luật và mô hình tổ chức các cơ quan tư pháp Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, đã được đề cập đến trong các Nghị quyết số 48 và 49 của Bộ Chính trị về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và Cải cách tư pháp với định hướng xử lý từng bước, có lộ trình thích hợp.
I. Hệ thống tư pháp ở Italia
1. Chức năng tư pháp
Chức năng tư pháp (Thực thi công lý) được chia thành các lĩnh vực dân sự và hình sự thông thường, hành chính, kế toán và thuế.
Thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính thuộc về các Toà án hành chính khu vực (Tribunali Amministrativi Regionali) - T.A.R. và Hội đồng nhà nước (Consiglio di Stato). Thẩm quyền xét xử các vụ án về kế toán thuộc về các Toà án kế toán (Corte dei conti) cùng với Văn phòng công tố nằm ngay trong các toà án đó.
Thẩm quyền xét xử đối với các vụ án về thuế thuộc về các Uỷ ban thuế của tỉnh và các Uỷ ban về thuế của quận. Xét xử trong quân đội là thẩm quyền của các Toà án quân sự, Toà án phúc thẩm quân sự, các Toà giám sát quân sự, Công tố viên quân sự nằm trong các toà án quân sự, các Tổng Công tố viên quân sự nằm trong các Toà án phúc thẩm quân sự, và Tổng Công tố viên quân sự nằm trong Toá án giám đốc thẩm. Thẩm quyền xét xử đối với các vụ án dân sự và hình sự thông thường thuộc về các thẩm phán điều tra (magistrates) theo phân cấp tư pháp, theo đó thẩm phán được chia thành hai loại: thẩm phán (judges) và thẩm phán điều tra (magistrates) của văn phòng công tố, vừa đảm nhận vai trò của quan toà lại vừa đảm nhận vai trò của điều tra viên.
Các loại "Thẩm phán" khác nhau có thể được phân loại tại các Toà án như sau:
· Toà hoà giải (Giudice di pace)
· Toà án thường (Tribunale)
· Toà đại hình (Corte di assise)
· Thẩm phán giám sát (Giudice di sorveglianza)
· Toà án vị thành niên (Tribunale dei minorenni)
· Toà án phúc thẩm (Corte di appello)
· Toà phúc thẩm đại hình (Corte d'assise d'appello)
· Toà án giám đốc thẩm (Corte di cassazione)
· Toà án khu vực về các vùng nước công cộng (Tribunale regionale delle acque pubbliche)
· Toà án cấp cao về các vùng nước công cộng (Tribunale superiore delle acque pubbliche)
· Uỷ viên phân xử các quyền tập quán
· Thẩm phán điều tra tại Phòng công tố có thể được phân loại như sau:
· Công tố viên nằm trong Toà án
· Công tố viên nằm trong Toà án vị thành niên
· Tổng Công tố nằm trong Toà án phúc thẩm
· Tổng Công tố viên nằm trong Toà án giám đốc thẩm.
Các văn phòng cụ thể nằm trong cơ quan công tố là Công tố viên chống Mafia quốc gia và Công tố viên chống Mafia quận.
2. Thực hiện hoạt động tư pháp hình sự và dân sự thông thường
Thực hiện hoạt động tư pháp dân sự và tư pháp hình sự thông thường là một trong các hình thức phục vụ quan trọng của Nhà nước đối với công dân. Nó bao gồm cả chức năng tư pháp và hành pháp. Chức năng tư pháp do các thẩm phán điều tra thực hiện, còn chức năng hành pháp được giao cho Bộ Tư pháp.
Thẩm phán điều tra đóng tại và làm việc từ các trụ sở Toà án phân bố theo khu vực thẩm quyền lãnh thổ. Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện chức năng hành pháp thông qua một cơ cấu tổ chức được phân chia giữa cán bộ của Bộ Tư pháp (trụ sở chính tại Rome) và cán bộ của Toà án, đại diện cho các trung tâm ở xa của ngành hành pháp.
Ngoài chức năng tư pháp, toà án còn thực hiện các nhiệm vụ thuần tuý hành chính (dưới sự quản lý của Bộ Tư pháp) và dịch vụ bổ trợ tư pháp. Chức năng hành pháp của các văn phòng xa trung tâm do các cán bộ hành pháp và thẩm phán điều tra được bổ nhiệm làm người đứng đầu toà án thực hiện.
3. Nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
Hiến pháp Italia có 2 điều đề cập đến các nhiệm vụ quan trọng của Bộ trưởng Bộ Tư pháp: công tác tổ chức và cung cấp dịch vụ cần thiết cho việc thực hiện chức năng tư pháp (Điều 110) và việc thi hành kỷ luật đối với thẩm phán điều tra (Điều 107).
Nói một cách khái quát hơn, một trong những chức năng quan trọng của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong lĩnh vực hành pháp là giữ cương vị của người bảo lãnh chính và người chịu trách nhiệm về các luật do Nghị viện thông qua việc đóng dấu vào các luật đó. Bộ trưởng còn chịu trách nhiệm về việc đăng Công báo quốc gia và lưu giữ chính thức các luật và nghị định. Bộ trưởng còn được giao các nhiệm vụ quan trọng khác theo các luật khác nhau trong các Bộ luật và quy định tư pháp.
Như vậy, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp liên quan đến cả hoạt động hành pháp trong các lĩnh vực quản lý và cung cấp dịch vụ và hoạt động đặc biệt quan trọng gắn với toàn bộ hệ thống pháp luật. Các dịch vụ đó bao gồm: tuyển dụng và quản lý cán bộ, cung cấp trụ sở, cơ cấu hoạt động và kinh phí.
Nhiệm vụ quản lý của Bộ Tư pháp bao gồm 4 lĩnh vực: tư pháp, nhà tù, tư pháp vị thành niên và hồ sơ công chứng.
Nhiệm vụ của Bộ Tư pháp trong hệ thống pháp luật nói chung bao gồm các nhiệm vụ cụ thể trong lĩnh vực pháp luật, quản lý nghề luật, thi hành hình phạt và đối xử với tù nhân. Ngoài ra, còn có nhiệm vụ thẩm tra đơn xin ân giảm trình Tổng thống quyết định, cũng như các yêu cầu cho phép tiến hành tố tụng, dẫn độ, hỏi cung quốc tế v.v…
Trong quan hệ với Hội đồng thẩm phán điều tra cấp cao (the Superior Council of the Magistracy), Bộ trưởng Bộ Tư pháp tham gia thủ tục bổ nhiệm những người đứng đầu của toà án và có thể tham gia các cuộc họp của Hội đồng này để nêu ý kiến hoặc làm rõ vấn đề có liên quan. Bộ trưởng còn có quyền yêu cầu người đứng đầu toà án cung cấp thông tin về tình hình hoạt động của hệ thống tư pháp liên quan đến các thẩm phán hoặc thẩm phán điều tra cụ thể. Bộ trưởng cũng có thể thực hiện chức năng thanh tra và điều tra hành chính để thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ hiến định của mình và nhằm mục đích thi hành kỷ luật.
4. Cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp
Bộ Tư pháp là trung tâm hoạch định chính sách tư pháp của Chính phủ. Bên cạnh trách nhiệm trong việc tổ chức quản lý các vấn đề tư pháp, cán bộ và dịch vụ, Bộ Tư pháp còn thực hiện chức năng hành pháp liên quan đến chặt chẽ với chức năng tư pháp trong các vấn đề dân sự và hình sự, như quản lý hồ sơ lưu trữ về công chứng, giám sát các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp, quản lý hồ sơ toà án, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dân sự và hình sự, thẩm tra đơn xin ân giảm trình Tổng thống quyết định.
Văn phòng Lập pháp báo cáo trực tiếp cho Bộ trưởng. Văn phòng này thực hiện việc nghiên cứu các đề xuất ban hành pháp luật trong phạm vi thẩm quyền của mình. Theo chỉ đạo của Bộ trưởng, Bộ Tư pháp sẽ lập ra các ban nghiên cứu khi cần thiết. Nhiệm vụ của các ban này là phân tích các vấn đề cụ thể phục vụ cho việc soạn thảo văn bản pháp luật mới.
Đối với nhà tù, Vụ quản lý nhà tù chịu trách nhiệm thực hiện chính sách về trật tự và an ninh trong các nhà tù, dịch vụ trong nhà tù và đối xử với tù nhân. Vụ này còn có trách nhiệm về quản lý cán bộ nhà tù và quản lý trợ giúp kỹ thuật thiết yếu.
Bộ Tư pháp cũng là cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực vị thành niên và trong quản lý cán bộ và tài sản của hệ thống tư pháp vị thành niên.
Cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp gồm Cục Hợp tác trực tiếp và 4 Vụ sau đây:
· Vụ Tư pháp
· Vụ Tổ chức, cán bộ và dịch vụ tư pháp
· Vụ Quản lý nhà tù
· Vụ Tư pháp vị thành niên
II. Chức năng hợp tác pháp luật của Bộ Tư pháp Italia
1. Giới thiệu chung về hoạt động hợp tác quốc tế của Bộ Tư pháp Italia
Hiện nay, hoạt động quốc tế của Bộ Tư pháp Italia có tầm quan trọng đặc biệt trong bối cảnh quan hệ quốc tế của nước này. Số lượng ngày càng tăng các hoạt động giao lưu giữa các quốc gia, tốc độ tăng nhanh chưa từng thấy của sự lưu thông người, hàng hoá và các nguồn lực kinh tế, cũng như tính chất xuyên quốc gia của nhiều tổ chức tội phạm và hoạt động phạm tội thực sự là lý do để nhiều quốc gia, trong đó có Italia nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của việc tăng cường hợp tác về pháp luật và tư pháp.
Nếu thiếu sự hợp tác thực sự giữa các nước và một khung pháp luật quốc gia phù hợp (nhằm hỗ trợ và làm cho sự hợp tác đó khả thi), thì nhiều mối quan hệ cả dân sự và thương mại sẽ phải phụ thuộc vào các hệ thống thường là khác biệt và đôi khi trái ngược nhau. Vấn đề này càng trở nên nan giải hơn đối với các chiến dịch chống mọi loại tội phạm (nhất là tội phạm có tổ chức) và chủ nghĩa khủng bố. Sự manh mún về pháp luật ở các nước khác nhau sẽ là mảnh đất màu mỡ cho những kẻ sống ngoài vòng pháp luật, cho phép chúng mở rộng và phổ biến hoạt động của mình. Đó là lý do tại sao Bộ Tư pháp Italia luôn tăng cường tham gia vào các cuộc đàm phán để tìm cách đạt được hai mục đích sau: 1) Ký các thoả thuận hợp tác với các nước khác cho phép việc bảo vệ trên cơ sở bình đẳng và cân đối các quyền cơ bản của công dân, điều chỉnh quan hệ giữa các cá nhân với nhau và sự chắc chắn trong phát triển quan hệ kinh tế, thương mại có đi có lại; và 2) phát triển các hình thức hợp tác tiên tiến và hiệu quả trong các hoạt động chống tội phạm dưới hình thức thoả thuận hợp tác và thoả thuận về tương trợ tư pháp và dẫn độ liên quan đến bị cáo và người bị kết án.
Hợp tác pháp luật của Iatlia được thực hiện trên cơ sở các điều ước về hợp tác quốc tế với các nước trong và ngoài Liên minh Châu Âu, trong đó chủ yếu và hiệu quả nhất là hợp tác với các nước Liên minh Châu Âu:
2. Hợp tác với các nước Liên minh Châu Âu
Hiện nay, chiếm số lượng lớn nhất trong các thoả thuận giữa các quốc gia là các thoả thuận giữa các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu. Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, những quốc gia này đang phát triển các công cụ và nguồn lực cần thiết cho việc ban hành những quy định chung trong lĩnh vực pháp luật dân sự, thuộc phạm vi của Trụ cột thứ nhất, cũng như các quy định chung trong lĩnh vực quyền tự do, an ninh và công lý, thuộc phạm vi của Trụ cột thứ ba.
Những quy định chung về các vấn đề của luật dân sự theo Trụ cột thứ nhất được xây dựng, hoàn thiện và có hiệu lực từ tháng 5 năm 2004 theo các quy định của Điều 67 của Dự thảo cuối cùng của Hiệp ước về thành lập Cộng đồng châu Âu, được sửa đổi bởi Hiệp ước Amsterdam (1997) và Nice (2001). Các văn bản pháp lý đó mang tính khả thi cao trong thực tế và thường được đưa ra trên cơ sở quyết định của Hội đồng Bộ trưởng Tư pháp và Nội vụ.
a) Những mục đích chính của hợp tác về pháp luật dân sự và hình sự gồm:
- Đơn giản hoá cuộc sống của các công dân châu Âu thông qua ban việc hành các quy định tư pháp hài hoà hoặc tương thích với nhau nhằm bảo đảm sử dụng đẩy đủ "Dịch vụ tư pháp" trên toàn lãnh thổ châu Âu;
- Tạo sức ép hữu hiệu (phòng chống) đối với các hoạt động bất hợp pháp.
- Sự tồn tại một môi trường pháp luật chung là điều tối thiểu để bảo đảm sự thúc đẩy tối đa tự do lưu thông như đã được quy định trong Hiệp ước EU. Nó cũng tạo thuận lợi cho giảm bớt các hoạt động bất hợp pháp xuất phát từ việc tự do lưu thông đó.
b) Bảo vệ nhân quyền thông qua Hội đồng châu Âu
Toà án Nhân quyền châu Âu được thành lập với tư cách là một bộ phận của Hội đồng châu Âu, có trụ sở tại thành phố Strasbourg. Toà có thẩm quyền xem xét các đơn của cả cá nhân và tổ chức, khiếu nại về các hành vi vi phạm Công ước Châu Âu về Bảo vệ Nhân quyền và các quyền tự do cơ bản do các quốc gia thành viên Công ước thực hiện.
Đối với Italia, Công ước này có hiệu lực từ ngày 26/10/1955 sau khi việc phê chuẩn của nước này có hiệu lực theo Luật số 848 ngày 04/8/1955. Công ước yêu cầu tất cả các quốc gia thành viên phải tôn trọng một số quyền cơ bản trong khuôn khổ hệ thống pháp luật của mình, vì lợi ích của bất kỳ công dân nào.
Nội dung Công ước đã được sửa đổi bằng các Nghị định thư bổ sung và được hợp nhất bởi một Nghị định thư không bắt buộc. Sau đây là ví dụ về một số quyền quan trọng được bảo đảm theo quy định của Công ước:
· Quyền sống,
· Quyền tự do và an toàn cá nhân,
· Quyền khiếu kiện trước Toà án,
· Quyền được hưởng công lý,
· Quyền tự do tư tưởng, bày tỏ ý kiến và lập hội,
· Tất cả các quyền khác nêu trong các tuyên bố có nguồn gốc từ “thời đại ánh sáng” (“age of enlightenment” - thời kỳ trong Thế kỷ 18 ở Châu Âu, khi người ta cho rằng chính lý trí và khoa học (chứ không phải tôn giáo) sẽ làm cho nhân loại tiến bộ) được khẳng định lại Tuyên ngôn phổ quát về Nhân quyền được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948.
Theo Điều 35 Công ước, đơn kiện gửi đến Toà án Nhân quyền chỉ mang tính bổ trợ. Chỉ có thể đưa đơn kiện đến Toà án sau khi đã áp dụng mọi biện pháp có thể khác trong khuôn khổ pháp luật của nước hữu quan. Nếu chấp nhận đơn kiện thì Toà có thể yêu cầu nước bị kiện nộp "tiền bồi thường thoả đáng" cho người kiện.
Đặc biệt, Điều 6 Công ước, định nghĩa về quyền được "xét xử công bằng", quy định rằng việc xét xử sẽ được coi là công bằng nếu kết thúc trong một "thời gian hợp lý". Trong nhiều năm qua, một số lượng lớn đơn kiện đã được gửi cho Toà án Nhân quyền chống lại Italia, cho rằng nước này vi phạm yêu cầu về thời hạn kết thúc việc xét xử.
Luật số 89 ngày 24/03/2001, thường gọi là “Luật Pinto” (đặt theo tên của Thượng nghị sỹ người đầu tiên ký luật này) quy định các nguyên tắc, theo đó công dân có quyền được "bồi thường thoả đáng" nếu bị thiệt hại do việc xét xử kéo dài một cách "bất hợp lý" gây ra. Các quy định nói trên được tuân thủ đầy đủ và thể hiện một cách rõ ràng các nguyên tắc ghi trong Điều 111 Hiến pháp Italia.
Sau đây là một số phán quyết quan trọng của Toà án Nhân quyền châu Âu về các đơn kiện Italia, cho rằng nước này vi phạm các quyền được Công ước bảo vệ:
· Bản án của Toà án Nhân quyền châu Âu ngày 29/8/2002. Đơn kiện số 34908/97; Việc xét xử đã kết thúc trong thời hạn hợp lý. Bác đơn kiện;
· Bản án của Toà án Nhân quyền châu Âu ngày 24/10/2002. Đơn kiện số 37703/97; Quyền sống. Bác đơn kiện;
· Bản án của Toà án Nhân quyền châu Âu ngày ngày 28/11/2002. Đơn kiện số 45313/99. Quyền được xét xử công bằng. Bác đơn kiện;
· Bản án của Toà án Nhân quyền châu Âu ngày 05/12/2002. Đơn kiện số 34896/97. Quyền được xét xử công bằng. Bác đơn kiện.
c) Hài hoà hoá pháp luật Cộng đồng Châu Âu
Khái niệm “hài hoà hoá Cộng đồng” sử dụng trong các Điều 94-97 của Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu, gồm pháp luật của các các quốc gia thành viên là tuân theo các chỉ thị của Hội đồng EU, với mục đích dỡ bỏ những rào cản pháp luật và/hoặc hành chính đối với tự do đi lại của người và tự do lưu thông hàng hoá, dịch vụ. Các nội dung liệt kê dưới đây liên quan đến pháp luật hiện hành của Italia về các vấn đề quan trọng gắn với hài hoà hoá pháp luật của Cộng đồng:
· Bảo vệ người tiêu dùng
· Các cơ chế giải quyết tranh chấp lựa chọn theo pháp luật Italia
· Pháp luật về bồi thường thiệt hại cho nạn nhân của tội phạm
· Khái quát pháp luật Italia về thủ tục, trình tự thi hành
· Khái quát về pháp luật Italia về biện pháp khẩn cấp tạm thời
3. Hợp tác với các nước khác
Italia đã ký kết nhiều thoả thuận với các nước không phải là thành viên Liên minh Châu Âu. Các thoả thuận trước đây chủ yếu về hợp tác và tương trợ trong lĩnh vực hình sự. Tuy nhiên, hiện nay, tiến trình hội nhập trong quan hệ quốc tế đòi hỏi phải ký kết các thoả thuận phù hợp, kể cả trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương mại. Thoả thuận và điều ước quốc tế ký với các quốc gia ngoài Liên minh châu Âu thường là các văn kiện song phương hoặc đa phương (mặc dù các văn kiện này thường là khuôn khổ chung cho các hiệp định song phương).
Italia là thành viên của nhiều Công ước của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế (điều ước về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại); Các Công ước của Tổ chức quốc tế về nhất thể hoá pháp luật tư; Uỷ ban Luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) v.v...
III. Gợi mở từ việc tham khảo mô hình hợp tác pháp luật của Italia và các nước
Ngoài các nhiệm vụ chung mà Bộ Tư pháp nước nào cũng thực hiện như tư vấn cho Chính phủ về các vấn đề pháp luật nói chung, tư vấn về mặt chính sách xây dựng pháp luật, thực hiện các chức năng hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp, đa phần Bộ Tư pháp của hầu hết các quốc gia tiên tiến trên thế giới, trong đó có Italia, đều được thiết kế và tổ chức theo mô hình truyền thống là cơ quan trọng tâm về tư pháp hình sự. Theo mô hình này, một trong những chức năng quan trọng hàng đầu của Bộ Tư pháp là tư pháp hình sự, trong đó có việc thực hiện quyền công tố và quản lý thi hành án các loại. Đây cũng là lý do tại sao nội dung hợp tác về pháp luật, tư pháp của các nước trong khu vực và trên thế giới, trong đó có Italia, thường rất toàn diện, cả về tư pháp dân sự và hình sự, trong đó đặc biệt có khuynh hướng thiên về các vấn đề hình sự, chuyển giao thực hiện bản án và dẫn độ tội phạm….
Bộ Tư pháp Việt Nam chưa có vai trò luật định về tư pháp hình sự. Sự “lệch pha” như vậy có ảnh hưởng ở mức độ này hay mức độ khác đến tiến trình hội nhập của Việt Nam, ít nhất là liên quan đến khía cạnh pháp luật của vấn đề hội nhập. Sẽ xảy ra tình trạng nội dung/ lĩnh vực hợp tác chúng ta quan tâm đề xuất thì không hẳn đã được phía bạn quan tâm và ngược lại, do có sự khác nhau nhất định về chức năng, thẩm quyền. Kinh nghiệm hợp tác quốc tế đa phương và song phương cho chúng ta có cơ hội để tự nhìn nhận lại mình, vừa tạo điều kiện để các nước trong khu vực và trên thế giới đa dạng hoá nội dung hợp tác, trong đó có vấn đề dân sự, thương mại đang ngày càng được cộng đồng quốc tế quan tâm nhiều hơn, vừa tự điều chỉnh để những gì Bộ Tư pháp Việt Nam làm phù hợp hơn nữa với Bộ Tư pháp các nước. Cụ thể hơn, việc tham khảo chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp Italia và các nước, trong đó có kinh nghiệm hợp tác pháp luật nhằm từng bước xây dựng Bộ Tư pháp Việt Nam thành cơ quan trọng tâm trong các hoạt động tư pháp theo đúng nghĩa của đó, trong đó tư pháp hình sự, là cần thiết, nhằm thực hiện tốt chủ trương của Bộ Chính trị về tiếp tục cải cách các cơ quan tư pháp, đẩy mạnh công cuộc đổi mới nói chung và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam nói riêng./.
Đặng Hoàng Oanh & Lê Thành Long , Vụ Hợp tác quốc tế - Bộ Tư pháp
[1] Trong bài này, “Hợp tác pháp luật” được dùng để goi chung, thay thế cho khái niệm “hợp tác pháp luật và tư pháp” thường được sử dụng tại Việt Nam. Ngoài ra, “Hợp tác pháp luật” (legal cooperation) cũng được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm trong đó cả tương trợ tư pháp (judicial assistance), phù hợp với bản chất/ nội hàm của khái niệm này trong pháp luật các nước và pháp luật quốc tế.
_________________________________________ Các bài viết có liên quan: