1. Khiếu nại, tố cáo và vai trò của thanh tra trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân. Điều này đã được ghi nhận tại Điều 74 Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào". Khiếu nại, tố cáo là hình thức dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền khiếu nại, tố cáo của mình và tham gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tinh thần đó đã được thể chế hoá tại Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và đã được sửa đổi bổ sung tại các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo năm 2004 và năm 2005 (sau đây gọi tắt là Luật khiếu nại, tố cáo hiện hành).
a. Khiếu nại
Điều 2 của Luật khiếu nại, tố cáo hiện hành quy định về khiếu nại và các chủ thể có liên quan như sau:
a.1. Khiếu nại:
“Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do pháp luật quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.” (khoản1)
a.2. Người khiếu nại:
“Người khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức thực hiện quyền khiếu nại”. (khoản 3)
a.3. Người bị khiếu nại
“Người bị khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật bị khiếu nại.” (khoản 6)
a.4. Người giải quyết khiếu nại:
“Người giải quyết khiếu nại” là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.”. (khoản 8)
Luật Khiếu nại, tố cáo quy định “người giải quyết khiếu nại” bao gồm:
+ Chủ tịch UBND các cấp (cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh);
+ Thủ trưởng các cơ quan trực thuộc UBND cấp huyện, cấp tỉnh;
+ Thủ trưởng cơ quan thuộc cấp Sở, cấp Bộ;
+ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ;
+ Tổng Thanh tra.
(Thủ tướng Chính phủ không phải là một cấp giải quyết khiếu nại mà chỉ có thẩm quyền xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức).
Luật khiếu nại, tố cáo hiện hành đã có quy định cụ thể về thẩm quyền của từng chủ thể nêu trên. Riêng đối với khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu là người đã ra quyết định kỷ luật. Nếu có khiếu nại tiếp theo thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo (giống như ở khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính ở trên) sẽ giải quyết, hoặc trong trường hợp nhất định, Bộ trưởng Bộ Nội vụ sẽ là người có thẩm quyền giải quyết.
b. Tố cáo
Cũng tại Điều 2 của Luật Khiếu nại, tố cáo hiện hành đã quy định:
b.1. Tố cáo:
“Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do pháp luật quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.” (khoản 2)
b.2. Người tố cáo:
“Người tố cáo là công dân thực hiện quyền tố cáo.” (khoản 5). Khác với “người khiếu nại”, “người tố cáo” chỉ là công dân- người vì lợi ích của nhà nước, của tập thể và của công dân mà báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết để có biện pháp ngăn chặn hoặc xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật.
b.3. Người bị tố cáo:
“Người bị tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi bị tố cáo” (khoản 7).
b.4. Người giải quyết tố cáo:
“Người giải quyết tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo”. Thẩm quyền giải quyết tố cáo đã được pháp luật về khiếu nại, tố cáo hiện hành quy định thành nguyên tắc rất cụ thể, rõ ràng. Theo đó, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà người bị tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết. Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người thuộc cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết.
Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết.
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của cơ quan nào thì cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết. Tố cáo hành vi phạm tội sẽ do các cơ quan tiến hành điều tra giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trách nhiệm giải quyết tố cáo được giao cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Trường hợp cần thiết thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức này có thể giao cho cơ quan thanh tra hoặc cơ quan khác có thẩm quyền tiến hành thẩm tra, xác minh, kết luận và kiến nghị biện pháp xử lý.
c. Vai trò của thanh tra trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
Luật khiếu nại, tố cáo hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Theo đó, các tổ chức thanh tra thuộc hệ thống cơ quan Thanh tra nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong công tác "thanh tra việc chấp hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước; xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định" (Điều 11 Luật khiếu nại, tố cáo hiện hành). Có thể nói, thanh tra việc chấp hành pháp luật khiếu nại, tố cáo cũng như xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo là hoạt động không thể thiếu của các cơ quan quản lý nhà nước. Qua công tác này, một mặt các khiếu nại, tố cáo của công dân được xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích chính đáng của cơ quan, tổ chức, cá nhân; mặt khác, các cơ quan thanh tra sẽ kiểm tra, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, góp phần nâng cao trách nhiệm quản lý của các cấp, các ngành, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm minh. Thanh tra, kiểm tra sẽ nắm bắt được tình hình khiếu nại, tố cáo và kết quả giải quyết ở các cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền, qua đó thấy được những thiếu sót cũng như những vướng mắc trong việc thực hiện các chính sách pháp luật để kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn hoặc đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách pháp luật.
Thanh tra trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo bao gồm: thanh tra giải quyết khiếu nại, thanh tra giải quyết tố cáo và thanh tra trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo (tức là hoạt động thanh tra không giải quyết trực tiếp nội dung vụ việc khiếu nại, tố cáo mà chỉ xem xét việc tuân theo pháp luật khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, cá nhân có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo).
2. Nghiệp vụ thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo
Thanh tra trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo, cũng như hoạt động thanh tra trong các lĩnh vực khác, cán bộ thanh tra phải áp dụng các nghiệp vụ thanh tra chung và các nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với lĩnh vực chuyên môn có phát sinh khiếu nại, tố cáo. Bên cạnh đó, cán bộ thanh tra, thanh tra viên còn phải tuân theo những quy định của Pháp luật về khiếu nại, cụ thể là:
a. Thanh tra giải quyết khiếu nại
Để giải quyết khiếu nại, cơ quan thanh tra phải thực hiện rất nhiều công việc, từ thụ lý đơn, nghiên cứu đơn, lập kế hoạch giải quyết cho đến xác minh, thu thập chứng cứ, làm rõ các nội dung khiếu nại, kiến nghị cấp có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại, hoàn chỉnh hồ sơ, tài liệu... Tuy nhiên, có thể tóm lược việc giải quyết khiếu nại được chia làm 3 bước chính là : chuẩn bị giải quyết khiếu nại; xác minh, thu thập chứng cứ và ra kết luận thanh tra việc giải quyết khiếu nại, hoàn chỉnh hồ sơ.
* Chuẩn bị giải quyết khiếu nại:
Khi nhận được khiếu nại, cơ quan thanh tra căn cứ vào các quy định của pháp luật về khiếu nại để xác định xem vụ việc có đủ điều kiện thụ lý hay không. Cơ quan thanh tra sẽ không thụ lý đối với các khiếu nại sau:
+ Quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại không liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại;
+ Người khiếu nại không có năng lực hành vi đầy đủ mà không có người đại diện hợp pháp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
+ Người đại diện không hợp pháp;
+ Thời hiệu khiếu nại, thời hiệu khiếu nại tiếp đã hết;
+ Việc khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
+ Việc khiếu nại đã được Toà án thụ lý để giải quyết hoặc đã có bản án, quyết định của toà án.
Đối với những trường hợp khác không nằm trong các trường hợp nêu trên, cơ quan thanh tra phải có trách nhiệm thụ lý đơn khiếu nại.
Trên cơ sở đơn và các tài liệu mà người khiếu nại cung cấp, cơ quan thanh tra phải tiến hành nghiên cứu kỹ để xác định nội dung khiếu nại của người khiếu nại bao gồm những vấn đề gì, yêu cầu của người khiếu nại là như thế nào, những căn cứ mà người khiếu nại đưa ra để chứng minh cho yêu cầu của họ có đúng pháp luật không, đã đầy đủ chưa...Đồng thời, có thể tiến hành việc tiếp xúc sơ bộ đối với người khiếu nại. Thông thường, đối với những vụ việc khiếu nại bức xúc, kéo dài thì người khiếu nại thường cho mình là người bị oan ức, quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm do vậy trong đơn của họ thường không phản ánh trung thực bản chất của vấn đề hoặc “thổi phồng” sự việc, thêm bớt tình tiết để có lợi cho mình, giấu giếm các chứng cứ để làm sai lệch thông tin, làm lạc hướng sự nhận định của người giải quyết khiếu nại. Do vậy, người giải quyết khiếu nại trong những trường hợp nhất định, để làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của vụ việc mà mình chưa rõ, cần thiết phải tiếp xúc, đối thoại với đương sự nhằm khẳng định những nội dung khiếu nại và yêu cầu của họ, qua đó cũng có thể khai thác thêm phần nào những thông tin liên quan đến vụ việc bị khiếu nại.
Cơ quan thanh tra cần phải thu thập các văn bản pháp lý liên quan đến giải quyết vụ việc để làm căn cứ giải quyết khiếu nại. Đó có thể là các văn bản, tài liệu liên quan đến quyết định, hành vi bị khiếu nại hay những văn bản, tài liệu mà nội dung đơn thư khiếu nại đã đề cập đến như là những căn cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại hoặc những văn bản pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực có liên quan đến vụ việc phát sinh...
Bước tiếp theo là lập kế hoạch giải quyết vụ việc. Kế hoạch giải quyết phải bao gồm một số nội dung công việc sau:
+ Mục đích, yêu cầu của việc giải quyết; những nội dung cần nghiên cứu, bổ sung;
+ Những nội dung khiếu nại cần phải thẩm tra, xác minh;
+ Những yêu cầu mà đối tượng bị khiếu nại phải giải trình;
+ Địa điểm, các đối tượng cần xác minh;
+ Dự kiến các tình huống phát sinh trong quá trình giải quyết;
+ Dự kiến lịch làm việc, tiến độ thời gian;
+ Các điều kiện bảo đảm cho việc giải quyết khiếu nại (nhân lực, phương tiện, kinh phí….).
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp đều cần phải lập kế hoạch giải quyết mà tuỳ tính chất, mức độ phức tạp của từng vụ việc khiếu nại cụ thể, cơ quan thanh tra sẽ có hai hướng giải quyết khác nhau: nếu vụ việc đơn giản, chứng cứ, tài liệu đã rõ ràng (nội dung vụ việc đã được thể hiện đầy đủ qua các tài liệu mà người giải quyết khiếu nại có), có thể đưa ra ngay kết luận thì không cần phải lập kế hoạch giải quyết, không cần tiến hành xác minh, thu thập thêm chứng cứ. Những vụ việc có tính chất phức tạp, tài liệu, chứng cứ hiện có không đủ để kết luận chính xác và có căn cứ pháp lý về nội dung khiếu nại thì mới cần phải lập kế hoạch giải quyết và tiến hành bước xác minh tiếp. Việc xác minh tuỳ trường hợp sẽ có thể phải tổ chức thành lập Đoàn Thanh tra hoặc có thể chỉ cần giao cho Thanh tra viên hoặc một số cán bộ khác thực hiện (trên cơ sở việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thanh tra thành lập Đoàn hoặc giao nhiệm vụ cho Thanh tra viên). Trong trường hợp thành lập Đoàn Thanh tra thì việc xác minh, kết luận, kiến nghị biện pháp giải quyết phải thực hiện theo Quy chế Đoàn thanh tra.
* Tiến hành thẩm tra, xác minh:
Thẩm tra, xác minh là nhằm mục đích thu thập chứng cứ, tài liệu làm cơ sở cho cơ quan thanh tra nhận xét chính xác, khách quan, đúng pháp luật về vụ việc, từ đó mới đề xuất đến cấp có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại được chính xác, đủ căn cứ, bảo vệ được lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.
Đây là khâu rất quan trọng trong quá trình xem xét, giải quyết vụ việc khiếu nại. Khiếu nại có được giải quyết kịp thời, đúng chính sách pháp luật hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc xác minh, thu thập chứng cứ.
Khi tiến hành xác minh, cần phải khách quan, trung thực, chú ý tìm hiểu bản chất của sự việc dẫn đến khiếu nại. Điều quan trọng là xác minh rõ nguồn gốc của chứng cứ, mức độ trung thực và chính xác của chứng cứ. Tuy nhiên, trong quá trình xác minh, cũng cần phải xem xét đến cả tính hợp pháp, tính hợp lý của vấn đề mà các bên nêu ra. Chú ý phải lập biên bản từng vụ việc, từng nội dung xác minh..
Để tiến hành xác minh đạt kết quả tốt, cần phải vận dụng khéo léo, linh hoạt các biện pháp nghiệp vụ nhằm thu thập thông tin, chứng cứ. Cán bộ xác minh có thể thu thập thông tin từ các nguồn sau:
+ Người khiếu nại: việc gặp gỡ, tiếp xúc với người khiếu nại là công việc mang tính bắt buộc đối với người giải quyết khiếu nại lần đầu. Luật khiếu nại, tố cáo hiện hành quy định: “Người giải quyết khiếu nại lần đầu phải gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại”. Đối với người giải quyết khiếu nại tiếp theo thì luật quy định: “người giải quyết khiếu nại lần tiếp theo phải gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại trong trường hợp cần thiết”.
+ Người bị khiếu nại: cơ quan thanh tra có quyền triệu tập người bị khiếu nại đến để giải trình rõ sự việc, lời giải trình phải được thể hiện bằng văn bản chính thức do người có thẩm quyền ký.
+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan: đây là những người biết được những thông tin liên quan đến vụ việc hoặc có mối quan hệ nào đó với nội dung của vụ việc mà cơ quan thanh tra cần thiết phải gặp gỡ, tiếp xúc nhằm làm rõ những thông tin nhất định, từ đó mới có đủ cơ sở để kết luận một cách khách quan, toàn diện về vấn đề.
Trong quá trình giải quyết khiếu nại nếu xét thấy việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu nại sẽ gây hậu quả khó khắc phục thì cơ quan thanh tra phải ra quyết định hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết định đó. Quyết định tạm đình chỉ phải được gửi cho người khiếu nại hoặc người có quyền, lợi ích liên quan. Quyết định tạm đình chỉ sẽ bị huỷ khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn.
Sau khi đã xác minh, thẩm tra hết các nội dung, đối tượng liên quan, cơ quan thanh tra cần so sánh, đối chiếu với các văn bản pháp luật hiện hành, các quy định của cơ quan, đơn vị người bị khiếu nại; so sánh, đối chiếu giữa các chứng cứ thu thập được để phân tích, đi đến nhận định rõ việc khiếu nại đúng hay sai, từ đó kết luận từng vấn đề và đưa ra phương hướng giải quyết cụ thể.
Đặc biệt chú ý khi sử dụng những thông tin do người làm chứng, người có liên quan hoặc đối tượng thanh tra (sau đây gọi chung là người liên quan) cung cấp thông qua việc Thanh tra viên đối thoại, lấy lời khai thì Thanh tra viên phải lập biên bản ghi lời khai theo yêu cầu sau:
· Biên bản phải chính xác, cụ thể trung thực.
· Người lập biên bản không được trình bày vấn đề, nhận xét, đánh giá, kết luận theo chủ quan của mình trong quá trình thanh tra.
· Biên bản phải được phản ánh có trọng tâm, trọng điểm.
· Biên bản phải đảm bảo đầy đủ các thủ tục pháp lý.
· Khi lập biên bản lấy lời khai người làm chứng cần tránh lối ghi cẩu thả, ghi miên man, dài dòng, chữ viết phải rõ ràng, dễ đọc, không tẩy xoá, phải dùng từ phổ thông, dễ hiểu, trong sáng, rõ nghĩa. Nếu có từ ngữ nước ngoài phải ghi theo phiên âm tiếng Việt và giải thích rõ nghĩa.
Đặc biệt, để đảm bảo thu thập chứng cứ một cách khách quan, toàn diện thì khi đối thoại, lấy lời khai của người liên quan thì Thanh tra viên phải thận trọng kiểm tra, đánh giá xem những vấn đề mà họ cung cấp có đúng sự thật hay không để sử dụng vào việc đấu tranh với đối tượng thanh tra, xác định càng chính xác bao nhiêu thì giá trị chứng cứ càng vững chắc bấy nhiêu.
Người liên quan khai báo đến đâu, ta phải kiểm tra ngay những vấn đề cần thiết đó. Tránh tình trạng lấy khai của người liên quan liên miên đến cuối cùng mới kiểm tra, xác minh. Sau mỗi lần kiểm tra tài liệu họ cung cấp, ta lại có kế hoạch và biện pháp lấy lời khai thêm.
Ngoài việc kiểm tra nội dung, còn phải kiểm tra cả về phương pháp lấy lời khai nữa. Vì nếu phương pháp lấy lời khai không khoa học, không khách quan thì lời khai của người liên quan cũng sẽ không chính xác, không đầy đủ.
Ba biện pháp để kiểm tra lời khai của người liên quan:
- Đối chiếu lời khai trước với lời khai sau, lời khai của người liên quan này với lời khai của người liên quan khác;
- Đối chiếu lời khai của người liên quan với các tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ thanh tra và với tình hình thực tế của vụ việc đã sẩy ra mà ta đã biết qua các nguồn khác (vật chứng, giám định chuyên môn....);
- Dùng các biện pháp nhận dạng, giám định, thực nghiệm thanh tra, đối chất... để xác minh lời khai của người liên quan khi cần thiết và có đủ điều kiện. Ngoài ra ta có thể áp dụng phương pháp kiểm tra lời khai tại chỗ; phương pháp khẳng định sự có mặt của người liên quan trong thời gian sẩy ra sự kiện; xác minh về nhân thân người liên quan, dùng điện thoại, áp dụng công nghệ tin học (thông tin qua mạng)... để kiểm tra lời khai của người liên quan.
Các biện pháp trên đây bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà kiểm tra bằng biện pháp này hay biện pháp khác. Không phải lúc nào cũng sử dụng tất cả các biện pháp để kiểm tra. Thanh tra viên phải lấy sự kiện thực tế làm cơ sở để xác định đúng, sai, tránh vội tin ngay vào lời khai của người liên quan hay kiểm tra một cách qua loa, đại khái.
Kết thúc bước thẩm tra, xác minh, Đoàn thanh tra hoặc Thanh tra viên sẽ phải soạn thảo văn bản "báo cáo kết quả thanh tra". Báo cáo này phải tổng hợp toàn bộ phần công việc đã thực hiện để đưa ra kết luận, kiến nghị, làm cơ sở cho người có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại. Báo cáo kết quả thanh tra bao gồm những nội dung chủ yếu sau (Điều 41,51 Luật Thanh tra):
+ Kết luận cụ thể về từng nội dung đã tiến hành thanh tra;
+ Xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm (nếu có);
+ ý kiến khác nhau giữa thành viên Đoàn thanh tra với Trưởng đoàn thanh tra về nội dung báo cáo kết quả thanh tra (nếu có);
+ Các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã được áp dụng; kiến nghị các biện pháp xử lý.
Báo cáo kết quả thanh tra được gửi cho người ra quyết định thanh tra hoặc trong trường hợp người ra quyết định thanh tra là thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước thì còn được gửi cho Thủ trưởng cơ quan thanh tra cùng cấp.
* Ra kết luận thanh tra về việc giải quyết khiếu nại và hoàn chỉnh hồ sơ:
Căn cứ vào báo cáo kết quả thanh tra, người đã ra quyết định thanh tra phải ban hành văn bản "kết luận thanh tra". Kết luận thanh tra phải có các nội dung chính sau:
+ Đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của đối tượng thanh tra;
+ Kết luận về nội dung được thanh tra;
+ Xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm (nếu có);
+ Các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã được áp dụng; kiến nghị các biện pháp xử lý.
Trong quá trình ra văn bản kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra có quyền yêu cầu Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra, Thanh tra viên báo cáo, yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình để làm rõ thêm những vấn đề cần thiết phục vụ cho việc ra kết luận thanh tra.
Kết luận thanh tra việc giải quyết khiếu nại được gửi cho Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp (người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại) và đối tượng thanh tra.
Trên cơ sở Kết luận thanh tra, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại sẽ ra Quyết định giải quyết khiếu nại (quyết định này được gửi cho người khiếu nại; người có quyền và lợi ích liên quan, người giải quyết khiếu nại trước đó (nếu là giải quyết khiếu nại tiếp theo). Khi cần thiết, có thể công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại đối với người khiếu nại và người bị khiếu nại).
* Về vấn đề hoàn chỉnh hồ sơ thanh tra giải quyết khiếu nại: Trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo, hồ sơ thanh tra, hồ sơ giải quyết khiếu nại, tố cáo có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là những căn cứ, chứng cứ để đưa ra kết luận thanh tra, quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo đồng thời đó cũng là sự thể hiện kết quả của quá trình thanh tra, giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo. Chính vì vậy, ngày 24/10/2007, Tổng Thanh tra đã có Quyết định số 2278/2007/QĐ-TTCP ban hành Quy chế lập, quản lý hồ sơ thanh tra, hồ sơ giải quyết khiếu nại, hồ sơ giải quyết tố cáo. Cụ thể, hồ sơ giải quyết khiếu nại phải gồm những loại tài liệu sau:
+ Đơn khiếu nại hoặc bản ghi lời khiếu nại;
+ Văn bản trả lời của người bị khiếu nại;
+ Biên bản thẩm tra, xác minh, kết luận, kết quả giám định;
+ Nhật ký Đoàn Thanh tra;
+ Báo cáo kết quả thanh tra;
+ Kết luận thanh tra;
+ Quyết định giải quyết khiếu nại;
+ Các tài liệu khác có liên quan.
Nếu người khiếu nại tiếp tục khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại cơ quan toà án thì hồ sơ đó phải được chuyển cho cơ quan hoặc toà án có thẩm quyền khi có yêu cầu.
Đó là các bước mà cơ quan thanh tra cần tiến hành để giải quyết một vụ việc khiếu nại.
b. Thanh tra giải quyết tố cáo
Khác với khiếu nại, các bước giải quyết tố cáo chỉ được Luật khiếu nại, tố cáo quy định mang tính chất nguyên tắc. Tuy nhiên, theo chúng tôi, thanh tra giải quyết tố cáo cũng bao gồm 3 bước giống như các bước giải quyết khiếu nại (chuẩn bị giải quyết; thẩm tra, xác minh; ra kết luận thanh tra về việc giải quyết và hoàn chỉnh hồ sơ). Chỉ có một số điểm cần lưu ý như sau:
* Giai đoạn chuẩn bị giải quyết tố cáo, khi tiếp nhận đơn tố cáo, cơ quan thanh tra phải tiến hành phân loại và xử lý như sau:
- Nếu đơn tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì phải làm thủ tục chuyển đơn đến đúng người có thẩm quyền giải quyết và thông báo bằng văn bản cho người tố cáo biết khi họ có yêu cầu.
- Nếu đơn tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì phải thụ lý để giải quyết .
- Nếu đơn tố cáo là đơn nặc danh, mạo danh, đơn tố cáo đã được cấp có thẩm quyền xem xét, kết luận nay tố cáo lại nhưng không có thêm tài liệu mới thì sẽ không xem xét, giải quyết. Những đơn này và xếp vào diện những đơn tố cáo không đủ điều kiện để thụ lý.
Trong trường hợp cấp thiết, cơ quan thanh tra tiếp nhận tố cáo phải báo ngay cho cơ quan có trách nhiệm để áp dụng biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm pháp luật; áp dụng biện pháp cần thiết để bảo đảm an toàn cho người tố cáo khi họ yêu cầu.
* Với đơn tố cáo đủ điều kiện để thụ lý thì cơ quan thanh tra cần phải ra Quyết định thụ lý giải quyết, trong đó cần nêu rõ:
- Họ tên, chức vụ của cán bộ được giao nhiệm vụ xác minh;
- Những nội dung cần xác minh;
- Thời gian tiến hành;
- Quyền hạn và trách nhiệm của người được giao nhiệm vụ xác minh.
Nếu việc xác minh được giao cho Đoàn thanh tra thì mọi hoạt động của Đoàn Thanh tra phải tuân theo các quy định pháp luật về Quy chế Đoàn thanh tra và phải vận dụng triệt để các kỹ thuật chất vấn nhằm khai thác thông tin, tài liệu của người tố cáo, người bị tố cáo và người có liên quan (sau đây gọi chung là đối tượng thanh tra). Cụ thể: Trong thanh tra giải quyết tố cáo, phương pháp cảm hoá, giáo dục, sử dụng tài liệu, chứng cứ, sử dụng mâu thuẫn tác động tâm lý tới đối tượng thanh tra (viết tắt là ĐTTT) làm chuyển đổi thái độ khai báo của họ là những phương pháp cơ bản nhất của chất vấn ĐTTT.
b1. Cảm hoá, giáo dục
Cảm hoá, giáo dục trong chất vấn là chinh phục ĐTTT bằng đường lối, chính sách, pháp luật, bằng tình cảm, bằng thực tế cuộc sống, đạo đức xã hội và bằng tấm gương của chính người cán bộ chất vấn với mục đích làm cho ĐTTT chuyển đổi thái độ khai báo theo hướng tích cực, có lợi cho thanh tra.
ĐTTT không khai hoặc khai dối do nhiều nguyên nhân tác động. Thiếu hiểu biết đường lối, chính sách của Đảng của Nhà nước; thành kiến với xã hội, với cán bộ thanh tra, nguỵ biện nhằm trốn tránh trách nhiệm của mình, bị mắc mưu kẻ xấu... là những nguyên nhân quan trọng cản trở ĐTTT khai báo thành khẩn. Cảm hoá, giáo dục làm cho ĐTTT hiểu rằng hành vi sai phạm của mình chẳng những trái với pháp luật, trái với đạo lý làm người mà còn gây tổn hại cho bản thân, gia đình và xã hội, khơi dậy ở ĐTTT tình cảm trong sáng và cuộc sống đời thường từ đó làm chuyển đổi lập trường tiêu cực trong khai báo của họ. Chinh phục niềm tin của ĐTTT làm cho ĐTTT tin rằng khai báo đầy đủ, đúng sự thật sai phạm của mình sẽ được hoan nghênh và xem xét giảm nhẹ xử lý của Nhà nước là một yêu cầu quan trọng của quá trình cảm hoá, giáo dục.
Để cảm hoá, giáo dục đúng, có hiệu quả, Thanh tra viên phải nghiên cứu kỹ nhân thân, hoàn cảnh, đặc điểm tâm lý của ĐTTT.
Việc cảm hoá, giáo dục ĐTTT bao gồm cả bằng lời nói và hành động của Thanh tra viên cũng như những người xung quanh. Giải thích pháp luật cho ĐTTT phải chính xác, có sức thuyết phục, đồng thời phải nhất quán với thực tiễn trong đó có thái độ xử sự của Thanh tra viên.
Cảm hoá, giáo dục có thể được tiến hành một cách mềm dẻo, sinh động nhưng không được hứa hẹn hão huyền, lừa dối ĐTTT. Đôi khi cảm hoá, giáo dục được tiến hành bằng những cuộc đấu lý, đấu lẽ quyết liệt giữa Thanh tra viên và ĐTTT về một vấn đề nhất định. Trong những trường hợp đó, Thanh tra viên cần chứng tỏ cho ĐTTT thấy sự hiểu biết rộng rãi, sâu sắc của mình nhưng không được dùng đấu lý, đấu lẽ đưa cuộc chất vấn đi vào ngõ cụt. Muốn vậy Thanh tra viên phải biết chọn vấn đề cần tranh luận, chuẩn bị chu đáo tài liệu về vấn đề đó.
Những điển hình trong thực tiễn có sức hấp dẫn, thuyết phục ĐTTT mãnh liệt. Bởi vậy Thanh tra viên cần nghiên cứu lựa chọn đúng những điển hình trên lĩnh vực mà ĐTTT đang có nhu cầu muốn biết. Đặc biệt là những điển hình về thanh tra, xử lý các vụ việc, các ĐTTT hoạt động sai phạm cùng loại.
Tình cảm là nhu cầu mạnh mẽ thường xuyên điều chỉnh hành vi của ĐTTT. Tuy nhiên, ở mỗi ĐTTT, trong từng thời điểm sẽ có một hoặc một số nhu cầu tình cảm nổi lên, thậm chí hết sức mãnh liệt, chi phối thái độ khai báo của ĐTTT. Bởi vậy Thanh tra viên cần nghiên cứu kỹ nhân thân, nắm bắt đúng như cầu tình cảm của ĐTTT mà tác động thì cảm hoá, giáo dục sẽ đạt được hiệu quả cao hơn, nhanh hơn.
Người mà ĐTTT quan tâm nhiều nhất trong quá trình chất vấn là cán bộ thanh tra. Vì vậy, mỗi cử chỉ, lời nói, hành động và những đặc điểm khác của bản thân Thanh tra viên đều có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến ĐTTT. Trong điều kiện đó, Thanh tra viên phải luôn luôn chứng tỏ mình là người đứng đắn, khách quan, hiểu nhiều, biết rộng để cảm hoá, thuyết phục ĐTTT.
Như vậy để cảm hoá, giáo dục đạt kết quả, Thanh tra viên cần có kiến thức rộng trên nhiều lĩnh vực, nắm vững đặc điểm ĐTTT, chọn những kỹ thuật cảm hoá thích hợp và kết hợp chặt chẽ với sử dụng chứng cứ, sử dụng mâu thuẫn trong quá trình chất vấn ĐTTT.
b2. Sử dụng tài liệu chứng cứ
Sử dụng tài liệu, chứng cứ là việc Thanh tra viên chủ động cho ĐTTT biết tài liệu, chứng cứ (cho xem hoặc nói cho biết) với mục đích tác động mạnh mẽ vào tư tưởng, tâm lý ĐTTT, buộc ĐTTT phải khai thác đầy đủ, đúng sự thật về hoạt động sai phạm của mình.
ĐTTT không chịu khai báo đúng sự thật có nguyên nhân quan trọng là cho rằng cơ quan thanh tra chưa có hoặc có ít tài liệu, chứng cứ về vụ việc, cho nên họ có thể tìm cách che giấu được sự thật.
Khi bị phát hiện và bị chất vấn, ĐTTT suy nghĩ phỏng đoán vì sao bị bại lộ, cơ quan thanh tra đã nắm được những tài liệu, chứng cứ gì, hiểu đến đâu những hoạt động sai phạm của bản thân và đồng sự. Từ đó, ĐTTT xác định cho mình cách xử sự trong quá trình chất vấn. ĐTTT thường tìm cách chối quanh nếu biết hoặc hiểu nhầm cơ quan thanh tra thiếu tài liệu, chứng cứ. Có ĐTTT tỏ ra lì lợm, nhưng có những ĐTTT sử dụng thủ đoạn tinh vi nhằm tìm hiểu xem cán bộ thanh tra biết đến đâu để tính toán khả năng khai báo của mình. Trong những trường hợp như vậy, cần sử dụng tài liệu, chứng cứ đánh mạnh vào thái độ ngoan cố, thiếu thành khẩn của ĐTTT, buộc ĐTTT khai báo đầy đủ, đúng sự thật về hoạt động sai phạm của mình và của đồng sự.
Muốn sử dụng đúng, có hiệu quả tài liệu, chứng cứ đã thu được, Thanh tra viên cần tuân thủ một số quy tắc sau đây:
- Chỉ sử dụng tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra xác minh kỹ lưỡng, có căn cứ xác định chứng cứ đó là chính xác và sử dụng trong phạm vi giá trị chứng minh của nó. Nếu chứng cứ được đưa ra sử dụng không chính xác sẽ càng củng cố thái độ ngoan cố, ù lì của ĐTTT hoặc sẽ dẫn đến bức hỏi, mớm hỏi.
- Tài liệu, chứng cứ phải được sử dụng đúng lúc. Không nên đưa tài liệu, chứng cứ khi ĐTTT ở trong trạng thái tuyệt vọng, hay bất mãn, bực bội không muốn tiếp nhận và phản ứng lại bất cứ thông tin nào từ phía Thanh tra viên.
- Cần phải nghiên cứu, tính toán, cân nhắc kỹ toàn bộ tài liệu, chứng cứ đã có thể sử dụng theo một logic hợp lý sao cho tài liệu, chứng cứ được sử dụng trước là tiền đề và điều kiện của tài liệu, chứng cứ sử dụng sau.
- Trước lúc sử dụng tài liệu, chứng cứ nào cần hỏi những chi tiết xung quanh tài liệu , chứng cứ đó để sao cho khi đưa ra ĐTTT không có khả năng vô hiệu hoá tài liệu, chứng cứ được sử dụng.
- Nếu phát hiện ĐTTT không có khả năng hiểu được bản chất của tài liệu, chứng cứ thì trước khi đưa tài liệu, chứng cứ, cần giải thích cơ sở khoa học của tài liệu, chứng cứ sử dụng cho ĐTTT rõ.
Trong thực tiễn ta thường đặt những câu hỏi không đi thẳng vào sự việc, dùng lối nói lấp lửng có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, sử dụng những chứng cứ gián tiếp gây cho ĐTTT cảm giác ta đã biết được hoạt động sai phạm của ĐTTT và đồng sự.
- Quá trình sử dụng tài liệu, chứng cứ cần quan sát phát hiện những biến đổi trạng thái tâm lý của ĐTTT.
- Không được đưa cho ĐTTT cầm xem lại tài liệu, vật chứng, tránh lộ bí mật và đề phòng họ phá huỷ.
- Cần có nghệ thuật sử dụng tài liệu chứng cứ như để lộ nội dung, để lộ nguồn, nêu cụ thể tài liệu, chứng cứ hoặc nêu chung chung.
b3. Sử dụng mâu thuẫn
Sử dụng mâu thuẫn là việc Thanh tra viên chủ động vạch những mâu thuẫn trong lời khai của ĐTTT, đánh vào thái độ khai báo quanh co, giấu giếm của họ, buộc ĐTTT phải khai báo đầy đủ, đúng sự thật.
Trong quá trình chất vấn, ĐTTT thường khai báo quanh co giấu giếm sự thật làm xuất hiện những mâu thuẫn trong lời khai của chúng. Những mâu thuẫn này có ý nghĩa trong việc làm rõ thái độ thiếu thành khẩn của ĐTTT.
Việc sử dụng mâu thuẫn để đấu tranh với ĐTTT phải trải qua hai giai đoạn sau đây:
* Phát hiện kịp thời, đầy đủ và tìm được nguyên nhân gây ra mâu thuẫn
Trong thực tiễn chất vấn, chúng ta thường gặp những loại mâu thuẫn sau đây:
- Lời khai của ĐTTT mâu thuẫn với tài liệu, chứng cứ chúng ta thu được trong quá trình thanh tra.
- Lời khai trước và sau của ĐTTT mâu thuẫn với nhau.
- Lời khai của ĐTTT mâu thuẫn với trình độ, khả năng cả ĐTTT.
- Lời khai của ĐTTT mâu thuẫn với các quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội.
Để phát hiện đầy đủ, kịp thời các mâu thuẫn, Thanh tra viên phải nắm vững tài liệu của vụ việc, tập trung theo dõi, nghiên cứu quá trình khai báo của ĐTTT, phân tích từng lời khai và thu thêm những tài liệu để có căn cứ xác định.
Những loại mâu thuẫn trên có thể là tình tiết, có thể là vấn đề cơ bản của vụ việc, song cách giải quyết chúng như thế nào trong quá trình chất vấn là tuỳ thuộc ở nguyên nhân gây ra mâu thuẫn đó.
Thông thường vì muốn giấu lỗi, làm nhẹ lỗi hoặc đánh lạc hướng thanh tra nên lời khai của ĐTTT mâu thuẫn với thực tế khách quan. Tuy nhiên, có trường hợp nguyên nhân gây ra mâu thuẫn là do trình độ, khả năng diễn đạt, do trạng thái tâm lý không ổn định, do hiểu không đúng bản chất sự việc, hiện tượng, do trí nhớ kém nên lời khai không đúng với thực tế khách quan. Mỗi loại mâu thuẫn do những nguyên nhân khác nhau gây ra cần có phương pháp thích ứng giải quyết chúng. Sử dụng mâu thuẫn đấu tranh làm rõ ĐTTT chỉ trong phạm vi chúng cố tình khai sự thật. Do vậy, việc nghiên cứu phát hiện là điều kiện đầu tiên cho việc sử dụng mâu thuẫn đúng đắn, có hiệu quả.
* Sử dụng mâu thuẫn để đấu tranh
Khi phát hiện ra mâu thuẫn và nguyên nhân gây mâu thuẫn thì Thanh tra viên mới chọn được cách giải quyết đúng đắn.
Thông thường mâu thuẫn do trí nhớ của ĐTTT kém mà khai sai thì Thanh tra viên dùng cách gợi nhớ, nếu do trình độ và khả năng diễn đạt kém thì dùng kỹ thuật hỏi tuần tự, nếu tâm lý không ổn thì phải tạo ra bầu không khí chất vấn bình thường làm yên lòng ĐTTT...
Đối với mâu thuẫn do ĐTTT cố ý khai sai sự thật tạo ra thì ta mới sử dụng mâu thuẫn để đấu tranh làm rõ. Trong quá trình sử dụng mâu thuẫn để đấu tranh cần tuân theo một số quy tắc sau:
- Mâu thuẫn phải được sử dụng đúng lúc. Không thể sử dụng mâu thuẫn vào giai đoạn cuối chất vấn ĐTTT, đồng thời cũng không nên sử dụng mâu thuẫn vào thời điểm ĐTTT đang chống đối quyết liệt hay tuyệt vọng.
- Quá trình làm rõ mâu thuẫn là quá trình đấu lý, đấu lẽ, do đó cần đề phòng nguỵ biện, bức, mớm hỏi. Thanh tra viên cần đưa ra được những căn cứ khoa học và có thái độ khách quan trong khi làm rõ mâu thuẫn.
- Nên tập hợp một loạt mâu thuẫn đủ sức làm rõ sự khai dối của ĐTTT. Tuy vậy không nên tập hợp toàn bộ mâu thuẫn rồi làm rõ cùng một lúc. Làm như vậy dễ đẩy ĐTTT đi đến lì lợm, im lặng. Cũng không nên phát hiện ra mâu thuẫn thì làm rõ ngay, bởi vì trong trường hợp đó, ĐTTT dễ dàng tìm cớ để biện bạch cho lời khai của mình.
Các phương pháp cảm hoá, giáo dục, sử dụng tài liệu, chứng cứ, sử dụng mâu thuẫn có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Muốn giải quyết những động cơ kìm hãm, kích thích ĐTTT khai báo thành khẩn, Thanh tra viên phải nghiên cứu nắm vững đặc điểm của ĐTTT, nắm vững những tài liệu, chứng cứ đã có về vụ việc, trên cơ sở đó mà tiến hành cảm hoá giáo dục kết hợp với sử dụng tài liệu, chứng cứ, sử dụng mâu thuẫn, tác động một cách có nghệ thuật, có hệ thống vào tâm lý ĐTTT. Không nắm vững mối liên hệ chặt chẽ giữa các phương pháp, sử dụng chúng một cách chia cắt sẽ không phát huy được hiệu quả của từng phương pháp.
Công tác thanh tra giải quyết khiếu nại đã khó nhưng thanh tra giải quyết tố cáo lại càng khó khăn, căng thẳng và phức tạp hơn nhiều. Chính vì vậy, chúng tôi đã mạnh dạn đưa ra một số thủ pháp nghề nghiệp để các Thanh tra viên cùng tham khảo, vận dụng trong việc xác minh, chất vấn, đối thoại, đối chất với đối tượng thanh tra nhằm tìm ra chứng cứ sai phạm cũng như chứng cứ ngoại phạm của người bị tố cáo.
Cuối cùng, rất mong tiếp nhận những ý kiến phản hồi, trao đổi của đồng chí, đồng nghiệp để cùng nhau xây dựng nghiệp vụ cho Ngành ngày càng hoàn thiện hơn. Mọi chia sẻ thông tin, kiến thức hoặc hỏi đáp, thắc mắc về nghiệp vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo xin liên hệ với chúng tôi theo địa chỉ của tác giả: Hoàng Quốc Hùng - Thanh tra Bộ Tư pháp, Tel: 8231127 & 0913001513 & Email: Hunghq@moj.gov.vn./.