Bảo đảm tính khả thi của nguồn lực thực hiện hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo

02/12/2025
Bảo đảm tính khả thi của nguồn lực thực hiện hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo
Chiều 2/12, thảo luận ở hội trường về Chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035; một số đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đề nghị bảo đảm tính khả thi của nguồn lực thực hiện Chương trình.
ĐBQH Bế Minh Đức (Đoàn Cao Bằng) nhấn mạnh, theo tinh thần của Luật Đầu tư công số 58/2024/QH15 và các Nghị quyết của QH về kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026 - 2030, nguyên tắc phân bổ vốn là “tập trung, không phân tán, không dàn trải và ưu tiên cho các Chương trình mục tiêu quốc gia”.

Tại khoản 6, Điều 1 dự thảo Nghị quyết đã nêu nguyên tắc ưu tiên hỗ trợ các địa phương nhận bổ sung cân đối từ ngân sách trung ương, đặc biệt là các địa phương miền núi phía Bắc, Tây Nguyên. ĐB đề nghị cần phải cụ thể hóa nguyên tắc này thành cơ chế phân bổ “đầu tư toàn diện” cho giáo dục vùng dân tộc thiểu số (DTTS). Trong đó, cần tách riêng Tiểu dự án ưu tiên DTTS thay vì lồng ghép chung trong các Dự án thành phần (Dự án 1, Dự án 4).
 
Đại biểu Bế Minh Đức. (Ảnh trong bài: quochoi.vn)

Điều này sẽ giúp kiểm soát, giám sát và đánh giá được hiệu quả đầu tư một cách minh bạch, tránh tình trạng bị san sẻ nguồn lực khi triển khai đại trà. Ngoài ra, ngân sách Trung ương hỗ trợ cho giáo dục DTTS không chỉ dừng lại ở vốn đầu tư xây dựng, mà phải tăng tỷ trọng chi cho con người, bằng các chính sách, chế độ đặc thù nhằm giữ chân và thu hút giáo viên chất lượng cao về vùng khó, cũng như bảo đảm các bữa ăn, học phẩm cho học sinh nghèo.

ĐB Chu Thị Hồng Thái (Đoàn Lạng Sơn) cũng nêu một số băn khoăn về kinh phí thực hiện Chương trình. Theo đó, cơ cấu phân kỳ vốn của Chương trình đang mất cân đối lớn. Giai đoạn 2026-2030 chỉ bố trí hơn 174.000 tỷ đồng (khoảng 30%), trong khi giai đoạn 2031-2033 lại dồn tới hơn 405.000 tỷ đồng (trên 70%).

Việc “dồn vốn - dồn việc” sang giai đoạn sau tiềm ẩn nguy cơ chậm tiến độ, đặc biệt khi khả năng cân đối ngân sách sau năm 2030 còn nhiều yếu tố khó lường. Do đó, ĐB đề nghị Chính phủ cơ cấu lại vốn theo hướng tăng tỷ trọng cho giai đoạn 2026-2030 và xác định rõ thứ tự ưu tiên vốn, trong đó ưu tiên các địa bàn DTTS, miền núi, biên giới và các xã nghèo để tạo chuyển biến ngay từ đầu.

Cũng theo ĐB Thái, cơ chế vốn đối ứng của các trường đại học, cao đẳng, hiện chưa có căn cứ cụ thể để các trường có thể tự huy động hàng nghìn tỷ đồng mà không phải tăng học phí hoặc các khoản thu ngoài ngân sách - điều này dẫn đến nguy cơ đẩy gánh nặng chi phí sang người học, nhất là sinh viên nghèo, cận nghèo, vùng khó khăn. ĐB đề nghị điều chỉnh mức đối ứng phù hợp năng lực từng nhóm trường; chỉ giao nhiệm vụ cho những cơ sở có đủ năng lực đào tạo; đồng thời minh bạch tiêu chí lựa chọn để tránh tình trạng “ai có tiền đối ứng thì được thụ hưởng”.
 
Đại biểu Chu Thị Hồng Thái.

Về nguồn vốn xã hội hóa, ĐB Thái cho rằng, tỷ lệ xã hội hóa 10% là không phù hợp với điều kiện nhiều vùng sâu, vùng xa - nơi gần như không có doanh nghiệp đủ tiềm lực và người dân thu nhập thấp, khó có khả năng đóng góp. ĐB đề nghị không áp dụng cứng tỷ lệ 10% và không huy động từ phụ huynh đối với các hạng mục thiết yếu; ngân sách Nhà nước phải bảo đảm để không phát sinh thêm chi phí cho người dân.

Giải trình về vấn đề được ĐBQH quan tâm, Phó Thủ tướng Lê Thành Long cho biết, Chính phủ dự kiến tổng nguồn vốn cho cả hai giai đoạn đến năm 2035 là khoảng 580.000 tỷ đồng. Nếu chia bình quân con số này cho quy mô hiện tại của ngành giáo dục (với khoảng 54.000 cơ sở, 1,6 triệu giáo viên và 25 triệu người học), thì nguồn lực đầu tư thực tế tính trên đầu mối vẫn còn rất khiêm tốn.

Tuy nhiên, Phó Thủ tướng báo cáo rõ, về phân bổ nguồn vốn giai đoạn 2026-2030, cơ cấu vốn của Chương trình này có điểm đặc thù so với các chương trình khác. Giai đoạn đầu, dù nhu cầu đầu tư cho giáo dục là rất lớn, nhưng do áp lực cân đối ngân sách chung, nguồn vốn sẽ bố trí ở mức độ hợp lý, tạo đà cho giai đoạn sau mở rộng hơn.

Cụ thể, dự kiến vốn ngân sách Trung ương khoảng 100.000 tỷ đồng, vốn đối ứng của địa phương khoảng 45.000 tỷ đồng, vốn đối ứng của các cơ sở giáo dục khoảng 20.000 tỷ đồng, vốn xã hội hóa và các nguồn hợp pháp khác khoảng 9.000 tỷ đồng.
 
Phó Thủ tướng Lê Thành Long làm rõ vấn đề đại biểu quan tâm.

Đối với vốn ngân sách Trung ương, Phó Thủ tướng nhấn mạnh, Bộ Tài chính đã tiến hành thẩm định kỹ lưỡng theo quy định của Luật Đầu tư công và khẳng định khả năng cân đối vốn. Con số 100.000 tỷ đồng đã được tính toán dựa trên việc tích hợp 3 chương trình mục tiêu đang thực hiện để tránh trùng lắp, lãng phí, đồng thời phù hợp với tổng mức vốn đầu tư công trung hạn dự kiến trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Đối với vốn đối ứng của địa phương, Chính phủ đề xuất nguyên tắc các địa phương chủ động bố trí vốn đầu tư cơ sở vật chất trên địa bàn. Tuy nhiên, đối với các địa phương khó khăn, chưa tự cân đối được ngân sách, Trung ương sẽ xem xét hỗ trợ vốn sự nghiệp (chi thường xuyên) để triển khai các chính sách, nâng cao năng lực đội ngũ và áp dụng các mô hình giáo dục mới (như giáo dục STEM, dạy ngoại ngữ...).

Đối với vốn đối ứng của các cơ sở giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã làm việc và nhận được sự đồng thuận, cam kết từ các trường (bước đầu có 9 trường đại học lớn đăng ký). Về nguồn xã hội hóa, chúng ta hướng tới việc huy động nguồn lực từ doanh nghiệp thông qua cơ chế hợp tác, đặt hàng đào tạo và chuyển giao tri thức, công nghệ.

Phó Thủ tướng khẳng định, Chính phủ đã tính toán kỹ lưỡng phương án tài chính để đảm bảo tính khả thi ngay trong giai đoạn tới. Trong quá trình điều hành ngân sách hằng năm, nếu có nguồn tăng thu, tiết kiệm chi, Chính phủ sẽ tiếp tục ưu tiên bổ sung đầu tư cho các nhiệm vụ cấp thiết của Chương trình, như đầu tư cho hệ thống trường chuyên, trường nội trú...
 
T.Uyên