Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, ngày 3/11, Quốc hội (QH) nghe Tờ trình, Báo cáo thẩm tra và thảo luận tại tổ về một số dự án luật, trong đó có dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý nợ công.
Phát biểu tại tổ về dự án Luật, Chủ tịch QH Trần Thanh Mẫn quan tâm đến quy định về phân bổ, sử dụng vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài. Dự thảo Luật bổ sung quy định: Chính phủ quy định các trường hợp cấp phát đối với UBND tỉnh, đơn vị sự nghiệp công lập. Theo Chủ tịch QH, trong quá trình thực hiện, Chính phủ phải quy định chặt chẽ điều kiện cấp phát, tỷ lệ cấp phát, đánh giá tác động đến ngân sách trung ương.
Lưu ý các địa phương có thể sẽ đề xuất vay nước ngoài lớn hơn, trong khi gánh nặng nghĩa vụ nợ tập trung ngân sách trung ương, Chủ tịch QH đề nghị, cần tăng cường cơ chế giám sát, chế tài, bảo đảm quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay cấp phát cho địa phương. Các dự án từ nguồn ODA thì địa phương phải có vốn đối ứng, có bảo lãnh. Với các địa phương có điều kiện, khoản vốn đối ứng là dễ, nhưng còn các địa phương khó khăn, như Điện Biên chẳng hạn, để có nguồn vốn đối ứng cũng rất khó khăn, Trung ương hầu như phải hỗ trợ 100%.
“Do đó, Bộ Tài chính có hướng dẫn để tạo điều kiện thuận lợi khi nhận nguồn vốn ODA, bảo đảm để triển khai nhanh, phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong vấn đề cấp phát vốn. Đây là vấn đề hết sức quan trọng”, Chủ tịch QH nhấn mạnh.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu thảo luận tại tổ.
Chỉ rõ vấn đề nợ công còn liên quan đến niềm tin của các nhà đầu tư đến Việt Nam và niềm tin của Nhân dân, Chủ tịch QH đề nghị phải rà soát rất kỹ lưỡng dự thảo Luật, đồng thời cũng đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền để người dân, nhà đầu tư thấy được “chúng ta có nợ công, nhưng bảo đảm được hiệu quả quản lý nợ công”.
Về kế hoạch vay - trả nợ công, Đại biểu (ĐB) Hoàng Văn Cường (Đoàn Hà Nội) cho rằng, hiện nay quy định kế hoạch 5 năm là chưa đủ. “Nợ công thường có kỳ hạn 10 năm, thậm chí dài hơn. Nếu chỉ tính trong 5 năm thì giai đoạn đầu gần như chưa phải trả nợ, tạo cảm giác an toàn giả tạo. Đến 5 năm sau, nghĩa vụ trả nợ dồn lại rất lớn, gây áp lực ngân sách”, ông phân tích. Vì vậy, cần dự báo nghĩa vụ trả nợ ít nhất 10 năm để bảo đảm tính bền vững.
ĐB cũng đề nghị rà soát, làm rõ hơn việc xác định các chỉ tiêu an toàn nợ công, đặc biệt là nhóm chỉ tiêu liên quan nợ nước ngoài của quốc gia. Theo ĐB, nên tập trung vào các chỉ tiêu thực chất hơn, gồm: Tổng nợ công trên GDP, trong đó nợ công vay nước ngoài không vượt quá 50% tổng nợ công; nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của khu vực công không vượt quá 25% dự trữ ngoại hối quốc gia. Có như vậy sẽ giúp kiểm soát tốt hơn rủi ro tỷ giá và bảo đảm an toàn tài chính quốc gia.
Trao đổi, giải trình thêm về các vấn đề, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng nêu rõ, sửa đổi Luật Quản lý nợ công lần này đã mở ra cho các doanh nghiệp được trực tiếp đề xuất thay vì trước đây phải qua Bộ chủ quản; các công ty nhà nước giữ 100% vốn và công ty con của các công ty nhà nước giữ 100% vốn thì được đề xuất trực tiếp.
Chia sẻ quan điểm của Ủy ban Kinh tế và Tài chính về việc quy định như trên có thể xảy ra rủi ro công ty mẹ hoặc là doanh nghiệp mẹ “đứng ngoài cuộc”, song Bộ trưởng nêu thực tế, các doanh nghiệp nhà nước có thể vay được vốn ODA chủ yếu là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Các doanh nghiệp con của các tập đoàn, tổng công ty này cũng rất lớn và chủ động trong việc triển khai các kế hoạch kinh doanh của mình, do đó, nếu họ được đề đạt khoản vay ODA và chịu trách nhiệm thì thủ tục sẽ nhanh hơn.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cũng nêu rõ, khó khăn nhất trong quản lý, sử dụng vốn ODA là thời gian vay từ lúc chúng ta đặt vấn đề, đàm phán đến lúc chuẩn bị hồ sơ dự án và ký kết hiệp định mất quá nhiều thời gian. Điều này dẫn đến, nhiều dự án sau khi ký hiệp định phải mất nửa thời gian của hiệp định rồi mới bắt đầu giải ngân được, thậm chí, hết thời gian của hiệp định vẫn chưa giải ngân được hết. Do đó, lại phải đàm phán kéo dài, mất rất nhiều thời gian. Nếu nhà tài trợ không đồng ý kéo dài thì dự án bị dở dang, chúng ta lại phải chuyển đổi hình thức, phải đóng lại dự án, tìm kiếm các nguồn vốn khác để triển khai tiếp.
Để giải quyết tồn tại đối với các nguồn vốn ODA, Bộ Tài chính đã có nhiều giải pháp rất quyết liệt. Cụ thể, qua tham khảo ý kiến của Ngân hàng Thế giới, Bộ Tài chính đã báo cáo Chính phủ đề xuất sửa đổi Nghị định về ODA. Cùng với việc sửa đổi Nghị định, Bộ trưởng nêu rõ, sửa đổi Luật Quản lý nợ công lần này phải “tích hợp lại hết” những vấn đề vướng mắc để quản lý ở một đầu mối thì mới hiệu quả được. “Quản lý ODA từ nay về sau phải bảo đảm đánh giá rất kỹ lưỡng về hiệu quả tài chính”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
T.Quyên