Hội Luật gia Việt Nam đã trình dự thảo Luật Trưng cầu ý dân

29/05/2015
Sáng ngày 28/5, Hội Luật gia Việt Nam đã trình dự thảo Luật Trưng cầu ý dân (TCYD) tại Quốc hội, điều chỉnh việc TCYD; nguyên tắc TCYD; những vấn đề đề nghị TCYD; quyền đề nghị TCYD; thẩm quyền quyết định và tổ chức TCYD; trình tự, thủ tục tổ chức TCYD; kết quả và hiệu lực của kết quả TCYD.

Những vấn đề đề nghị Quốc hội quyết định TCYD

Ủy ban pháp luật thấy rằng, nội dung đưa ra TCYD có ý nghĩa quan trọng, liên quan và ảnh hưởng đến quyền dân chủ trực tiếp của người dân trong tham gia vào các công việc của Nhà nước. Tuy nhiên, việc xác định cụ thể những vấn đề nào phải đưa ra TCYD phụ thuộc vào yêu cầu và điều kiện hoàn cảnh tại từng thời điểm nhất định. Vì vậy, khó có thể quy định cụ thể trong Luật.

Do đó, trong Luật nên quy định một cách khái quát, mang tính nguyên tắc những vấn đề có thể được đề nghị đưa ra TCYD như đã thể hiện tại Điều 6 của dự thảo Luật. Theo đó, những vấn đề đề nghị Quốc hội quyết định TCYD là những vấn đề về Hiến pháp và những vấn đề quan trọng khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội nhưng Quốc hội tôn trọng dân quyết định. Đồng thời, để có cơ sở cho các chủ thể đề nghị và Quốc hội quyết định TCYD, đề nghị dự thảo Luật cần bổ sung các điều kiện và tiêu chí đối với vấn đề được đề nghị TCYD.

Bên cạnh đó, cũng có một số ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể, rõ ràng hơn nữa những việc mà Quốc hội có thể quyết định TCYD, tránh quy định chung chung, khó cho việc thực hiện sau này. Có ý kiến đề nghị cần chỉnh lý lại quy định của dự thảo theo hướng Quốc hội có thể quyết định TCYD về Hiến pháp (thay cho “những vấn đề về Hiến pháp”) để bảo đảm phù hợp với quy định tại Điều 120 của Hiến pháp năm 2013.

Phạm vi trưng cầu ý dân

Dự thảo Luật quy định các cuộc TCYD được thực hiện trên phạm vi cả nước. Ủy ban pháp luật tán thành với nội dung quy định của dự thảo Luật vì điều này thống nhất với thẩm quyền quyết định TCYD là thuộc về Quốc hội đã được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội; đồng thời phù hợp với nguyên tắc các vấn đề được đưa ra TCYD phải là các vấn đề có tầm quan trọng lớn, ảnh hưởng đến lợi ích chung của quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của đông đảo nhân dân trong xã hội.

Đối với các vấn đề liên quan đến đời sống của nhân dân ở một số địa phương hoặc vùng lãnh thổ nhất định thì hiện nay pháp luật đã quy định cơ chế bảo đảm có sự tham gia ý kiến của người dân trực tiếp chịu tác động (ví dụ như việc cần lấy ý kiến của nhân dân địa phương trong trường hợp nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính, lấy ý kiến nhân dân về xây dựng nhà máy điện hạt nhân…). Tính chất và giá trị pháp lý của các hình thức lấy ý kiến nhân dân theo nhóm đối tượng hay địa bàn này khác so với TCYD thực hiện trên quy mô toàn quốc. Do đó, đề nghị trong Luật không qui định tiến hành TCYD ở phạm vi địa phương. 

Chủ thể có quyền đề nghị trưng cầu ý dân

Dự thảo Luật trình 2 phương án về chủ thể có quyền đề nghị TCYD. Theo Phương án 1 thì Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị TCYD; Phương án 2 mở rộng thêm một số chủ thể khác có quyền sáng kiến pháp luật cũng có quyền đề nghị TCYD.  

Về vấn đề này, Ủy ban pháp luật xin cho rằng, TCYD là hình thức thực hiện quyền dân chủ trực tiếp cao nhất của người dân. Chủ thể đề nghị TCYD đã được Quốc hội thảo luận và cân nhắc kỹ tại kỳ họp thứ 8 khi xem xét, thông qua Luật tổ chức Quốc hội. Theo đó, “Quốc hội quyết định TCYD về Hiến pháp hoặc về những vấn đề quan trọng khác theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội” (khoản 1 Điều 19). Do vậy, để bảo đảm tầm quan trọng của việc đề nghị TCYD và để thống nhất với Luật tổ chức Quốc hội, đề nghị quy định chủ thể có quyền đề nghị TCYD như Phương án 1 của dự thảo Luật.

Cơ quan, tổ chức phụ trách trưng cầu ý dân (từ Điều 20 đến Điều 25)

Dự thảo Luật giao trách nhiệm cụ thể cho Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp và chỉ thành lập Tổ TCYD ở các khu vực bỏ phiếu biểu quyết mà không cần thiết phải thành lập thêm một cơ quan phụ trách việc tổ chức TCYD ở trung ương.

Có ý kiến đề nghị thành lập các tổ chức phụ trách TCYD để bảo đảm các công việc TCYD được tiến hành kịp thời, khách quan, không phụ thuộc vào các cơ quan, tổ chức khác. Ý kiến khác lại cho rằng, cách thức tổ chức bầu cử và TCYD có nhiều điểm tương đồng nên đề nghị giao thêm thẩm quyền cho Hội đồng bầu cử quốc gia thực hiện một số công việc liên quan đến tổ chức TCYD như xác định danh sách cử tri và khu vực bỏ phiếu, tổ chức việc bỏ phiếu và tổng kết kết quả kiểm phiếu TCYD để báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội. 

Ủy ban pháp luật tán thành với những quy định về cơ quan, tổ chức phụ trách TCYD như dự thảo Luật và thấy rằng, theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội thì Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan chịu trách nhiệm trong việc tổ chức TCYD theo quyết định của Quốc hội. Do vậy, Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể tự mình quyết định các công việc liên quan đến việc tổ chức TCYD (như hướng dẫn việc xác định danh sách cử tri và khu vực bỏ phiếu, quyết định thời gian cụ thể TCYD, nội dung ghi trên phiếu TCYD, tổ chức việc bỏ phiếu và xác nhận kết quả kiểm phiếu để báo cáo Quốc hội…) mà không cần thiết phải thành lập thêm một Ủy ban phụ trách việc tổ chức TCYD ở trung ương. Tại các địa phương, do đơn vị bỏ phiếu trùng với đơn vị hành chính nên giao trách nhiệm này cho Ủy ban nhân dân các cấp và chỉ thành lập Tổ TCYD ở các khu vực bỏ phiếu là phù hợp. 

Kết quả trưng cầu ý dân

Dự thảo Luật trình hai phương án về kết quả TCYD:

Phương án 1: Cuộc TCYD hợp lệ phải được quá nửa tổng số cử tri có tên trong danh sách cử tri đi bỏ phiếu. Phương án TCYD được quá nửa số phiếu hợp lệ tán thành được công bố để thi hành.

Phương án 2: Ngoài các điều kiện như phương án 1, phương án này bổ sung quy định đối với TCYD về Hiến pháp thì cuộc TCYD hợp lệ phải được quá hai phần ba tổng số cử tri có tên trong danh sách cử tri đi bỏ phiếu và phương án được quá hai phần ba số phiếu hợp lệ tán thành được công bố để thi hành. 

Ủy ban pháp luật nhận thấy, TCYD tuy đã được ghi nhận trong Hiến pháp từ năm 1946 nhưng ở nước ta hình thức này chưa được thực hiện trên thực tế. Hoạt động này một mặt là quá trình thu hút và tập dượt để nhân dân thực hành dân chủ nhưng mặt khác nó cũng đòi hỏi sự nhận thức và ý thức cao từ phía người dân và xã hội, tính tích cực chính trị của cử tri trong việc tham gia biểu quyết khi Nhà nước tổ chức TCYD.

Vì vậy, quy định tỷ lệ tham gia và tán thành của cử tri quá cao (quá hai phần ba) đối với một vấn đề đưa ra TCYD thì không khả thi; thậm chí nếu tổ chức không tốt có thể dẫn đến tình trạng thúc ép cử tri đi bỏ phiếu hoặc cử tri đi bầu hộ, bầu thay và như vậy, sẽ làm giảm sút ý nghĩa của việc TCYD với tư cách là một hình thức để người dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của mình.

Mặt khác, đối với Hiến pháp thì quy trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp được quy định rất chặt chẽ, theo đó, phải hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Hiến pháp mới được thông qua; sau khi Hiến pháp được thông qua thì Quốc hội mới tổ chức TCYD. Do đó, Ủy ban pháp luật tán thành với việc quy định như đã thể hiện tại Phương án 1.

Có ý kiến cho rằng, để bảo đảm tính pháp lý của kết quả TCYD, đề nghị Quốc hội phải ra nghị quyết xác nhận kết quả TCYD do Ủy ban thường vụ Quốc hội công bố. Ủy ban pháp luật cho rằng, Hiến pháp đã giao thẩm quyền tổ chức TCYD cho Ủy ban thường vụ Quốc hội nên khi Ủy ban thường vụ Quốc hội công bố kết quả TCYD tức là đã bảo đảm tính khách quan, hợp pháp của hoạt động này. Mặt khác, vấn đề đưa ra TCYD đã được người dân lựa chọn, quyết định theo ý chí của họ nên cơ quan nhà nước phải tôn trọng và thực hiện. Do vậy, Quốc hội không cần thiết phải ra nghị quyết xác nhận kết quả TCYD hay thông qua lại các nội dung đã được người dân biểu quyết tán thành…

H.Giang