Quan niệm chung về cơ quan nhân quyền quốc gia

02/03/2021
Quan niệm chung về cơ quan nhân quyền quốc gia
Để bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, các quốc gia xây dựng nhiều cơ chế khác nhau, ở cấp độ đa phương toàn cầu, khu vực và cấp độ quốc gia . Đối với cơ chế đa phương, cơ chế bảo đảm quyền con người trong khuôn khổ Liên hợp quốc đóng vai trò đặc biệt quan trọng, bao gồm cơ chế theo quy định Hiến chương Liên hợp quốc (cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát - Universal Periodic Review và cơ chế theo thủ tục đặc biệt) và cơ chế giám sát của các Ủy ban thành lập trên cơ sở các điều ước quốc tế về quyền con người . Thực tiễn cho thấy, việc bảo đảm, thúc đẩy quyền con người phụ thuộc trước hết và chủ yếu vào trách nhiệm của các quốc gia. Vì vậy, bên cạnh cơ chế quốc tế, mỗi quốc gia cần xây dựng cơ chế quốc gia để bảo vệ quyền con người. Bài viết tổng thuật một số vấn đề chung về cơ quan nhân quyền quốc gia - một mô hình cơ quan bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong xã hội hiện đại.
1. Khái niệm cơ quan nhân quyền quốc gia
Khoảng thời gian hơn 20 năm trở lại đây, trong bộ máy nhà nước hiện đại xuất hiện một loại hình cơ quan mới với nhiệm vụ cụ thể là thúc đẩy sự bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong phạm vi quốc gia[1]. Loại cơ quan này được gọi chung là cơ quan nhân quyền quốc gia (CQNQQG). Từ góc độ lịch sử, CQNQQG ra đời là do nhu cầu và phong trào quốc tế về bảo đảm, bảo vệ quyền con người lên cao. Một số nghiên cứu cho rằng những cơ quan độc lập có chức năng thúc đẩy quyền con người đã từng xuất hiện ở một số ít quốc gia ngay từ sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ 2.[2] Tuy nhiên, sự nở rộ của cơ quan này chỉ bắt đầu xuất hiện một cách rõ rệt kể từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX.
CQNQQG được hiểu là cơ quan hành chính do nhà nước thành lập nhằm mục đích thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong phạm vi quốc gia.[3] CQNQQG được hình thành trên cơ sở nguyên tắc Paris[4] - bộ nguyên tắc quy định về quy chế của các cơ quan quốc gia trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Bộ nguyên tắc này được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua tháng 12/1993. Trên thực tế, nguyên tắc Paris chỉ có tính khuyến nghị, không mang tính bắt buộc đối với các quốc gia thành viên. Tuy nhiên, nguyên tắc này lại mang tính định hướng chung trong việc xây dựng CQNQQG ở các quốc gia.
Hiện nay, vẫn chưa có một khái niệm chung, thống nhất về CQNQQG. Theo Văn phòng Cao uỷ Liên hợp quốc về nhân quyền: “Cơ quan nhân quyền quốc gia (National Human Rights Institutions) là những cơ quan nhà nước (State bodies) có thẩm quyền hiến định và/hoặc luật định (a constitutional and/or legislative mandate) trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Các cơ quan này là một phần của bộ máy nhà nước và được nhà nước cung cấp kinh phí hoạt động”[5]. Theo tác giả Linda Reif, cơ quan nhân quyền quốc gia là “một cơ quan được nhà nước thiết lập bởi hiến pháp hoặc bởi luật hay nghị định, với chức năng được thiết kế để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người.” hay có thể hiểu một cách đơn giản là “một cơ quan bán chính phủ hay một thiết chế luật định được ủy trị về quyền con người”[6].
Cho dù có được quy định trong Hiến pháp hay không thì một CQNQQG đúng nghĩa thường mang một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, CQNQQG là một cơ quan nhà nước, thuộc bộ máy nhà nước và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình dưới danh nghĩa quyền lực nhà nước. Mặc dù có thể mang một số tên gọi giống như các tổ chức phi chính phủ song CQNQQG không phải là tổ chức phi chính phủ. Đó là cơ quan thực hiện quyền lực chính thức của nhà nước với sứ mệnh bảo vệ quyền con người. Theo nghĩa  đó CQNQQG có ngân sách hoạt động riêng được tài trợ từ ngân sách nhà nước chứ không nhận tài trợ từ phía xã hội hoặc từ các nhà tài trợ quốc tế như các tổ chức xã hội.
Thứ hai, CQNQQG là một cơ quan nhà nước độc lập trong bộ máy nhà nước. CQNQQG không thuộc cơ cấu tổ chức của bất kỳ cơ quan nhà nước truyền thống nào. Mặc dù có thể do cơ quan lập pháp thành lập ra song CQNQQG không phải là một ủy ban của cơ quan lập pháp, thành viên của CQNQQG không phải là thành viên của cơ quan lập pháp, tức là không được hình thành bằng con đường bầu cử. Sự độc lập này giúp cho CQNQQG tránh khỏi những ảnh hưởng về chính trị có tác động tới sự khách quan khi tiến hành các hoạt động thúc đẩy, bảo vệ quyền con người. CQNQQG cũng không nằm trong cơ cấu tổ chức và không chịu tác động về mặt tài chính từ cơ quan hành pháp. Trên thực tế, cơ quan hành pháp có thể là cơ quan cấp ngân sách cho hoạt động của CQNQQG song các quy trình ngân sách không được tạo điều kiện cho những tác động không chính đáng của cơ quan hành pháp tới hoạt động của CQNQQG. CQNQQG cũng không nằm trong nhánh tư pháp bởi vì nó không có chức năng xét xử, mặc dù hoạt động của cả hai loại cơ quan này cũng đều nhằm tới việc bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân và đều mang tính khách quan. Tính độc lập của CQNQQG là hết sức quan trọng, bởi vì chỉ có độc lập với các cơ quan nhà nước truyền thống thì CQNQQG mới có thể đưa ra những nhận định, góp ý hoặc khuyến nghị về mức độ bảo vệ quyền con người trong hoạt động của các cơ quan nhà nước truyền thống một cách thực sự khách quan.
Thứ ba, CQNQQG có nhiệm vụ và chức năng chuyên trách trong lĩnh vực thúc đẩy bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Với tính độc lập nói trên, cho dù có được quy định trong hiến pháp hay không thì CQNQQG cũng có thể được xếp vào một nhóm các cơ quan nhà nước mới trong bộ máy nhà nước hiện đại - cơ quan hiến định độc lập. Các cơ quan hiến định độc lập, trong đó có CQNQQG, thực hiện chức năng kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước trong những lĩnh vực chuyên môn riêng mà mình được giao.[7] Với CQNQQG, lĩnh vực đó là thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm quyền con người trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
2. Tiêu chuẩn, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nhân quyền quốc gia
Nguyên tắc Paris là nền tảng để hình thành nên các CQNQQG. Theo nguyên tắc này, CQNQQG phải đáp ứng được các tiêu chuẩn sau:
Thứ nhất, việc thành lập CQNQQG phải được quy định trong Hiến pháp hoặc các văn bản pháp luật quy định chi tiết về thành phần, cơ cấu và phạm vi, thẩm quyền của CQNQQG.[8] Được thành lập trên cơ sở Hiến pháp hoặc các văn bản pháp luật là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất, thông qua đó sẽ khẳng định được tính chính danh của CQNQQG.
Thứ hai, cơ cấu tổ chức của CQNQQG cần đảm bảo tính đa dạng về thành phần. Theo đó, cơ quan này được thiết lập bao gồm đại diện của nhiều cơ quan trong bộ máy tư pháp, tổ chức trong xã hội, Quốc hội… Trong đó, có sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực quyền con người và chống phân biệt đối xử, các tổ chức công đoàn, các tổ chức xã hội và nghề nghiệp liên quan như đoàn luật sư, hiệp hội của các bác sĩ, nhà báo các nhà khoa học…; các xu hướng tôn giáo và triết học; các trường đại học; các nghị viện; các cơ quan chính phủ…. Các thành viên của CQNQQG phải được lựa chọn, bổ nhiệm độc lập, được trao thẩm quyền độc lập nhất định. Tiêu chuẩn này không những góp phần khẳng định tính chính danh của CQNQQG mà còn tạo nền tảng vững chắc cho cơ quan nhân quyền được công nhận đầy đủ. Bên cạnh đó, tính đa dạng về thành phần sẽ tạo ra những thuận lợi nhất định trong việc ủng hộ và sẵn sàng thi hành các quyết định của CQNQQG.
Thứ ba, về thẩm quyền của CQNQQG, nguyên tắc Paris khuyến khích việc trao thẩm quyền cho cơ quan quyền con người quốc gia “càng rộng càng tốt” và thẩm quyền đó còn được quy định rõ ràng trong hiến pháp hoặc văn bản luật.
Trên thực tế, không có một mô hình chung về CQNQQG cho các nước. Mỗi nước có những mô hình CQNQQG khác nhau (về tên gọi, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ,… Tuy nhiên, các cơ quan nhân quyền quốc gia thông thường được thiết lập theo ba hình thức chủ yếu đó là: Cơ quan thanh tra Quốc Hội (Ombudsman), Ủy ban nhân quyền quốc gia (National Commission on Human rights), Các cơ quan nhân quyền quốc gia khác. Theo kết quả khảo sát vào năm 2009 của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người[9], mô hình cơ quan nhân quyền quốc gia phổ biến nhất là Ủy ban nhân quyền quốc gia (chiếm 58% trên tổng số các cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới). Mô hình Thanh tra Quốc hội đứng ở vị trí thứ hai, chiếm 30% và đặc biệt phổ biến ở Châu Mỹ. Chỉ có một số nhỏ các CQNQQG trên thế giới được thành lập dưới dạng thức khác.[10] Nhìn chung, các CQNQQG có một số chức năng, nhiệm vụ sau:
- Hỗ trợ việc xây dựng các chương trình giảng dạy và nghiên cứu về quyền con người và tham gia triển khai các chương trình đó trên thực tế;
- Phổ biến các quyền con người và nỗ lực chống mọi hình thức phân biệt đối xử, đặc biệt là phân biệt đối xử về sắc tộc bằng việc tăng cường nhận thức cho công chúng, đặc biệt là qua việc giáo dục, thông tin, hợp tác với các cơ quan báo chí;
- Trình lên chính phủ, nghị viện và bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào khác những quan điểm, khuyến nghị, đề xuất và báo cáo về bất kỳ vấn đề nào liên quan đến thúc đẩy và bảo vệ quyền con người;
- Thúc đẩy và bảo đảm sự tương thích của pháp luật quốc gia với các văn kiện pháp lý quốc tế mà quốc gia là thành viên, và việc áp dụng chúng một cách hiệu quả;
- Khuyến khích việc phê chuẩn, gia nhập và áp dụng các văn kiện quốc tế về quyền con người;
- Đóng góp ý kiến xây dựng các báo cáo quốc gia trình lên các ủy ban và cơ quan Liên hợp quốc cũng như cho các cơ quan khu vực; khi cần thiết bày tỏ quan điểm về nội dung của các báo cáo quốc gia;
- Hợp tác với Liên hợp quốc, các cơ quan của Liên hợp quốc, các cơ quan khu vực và các cơ quan quốc gia về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người của các nước khác.
Có thể tóm xem xét thông tin về chức năng của 61 CQNQQG được khảo sát theo bảng dưới đây[11]:
Chức năng Theo yêu cầu của nhà chức trách liên quan Theo sáng kiến của CQNQQG Theo cả hai    hình thức
Đưa ra những khuyến nghị với Nghị viện, Chính phủ và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác về các vấn đề nhân quyền liên quan đến:
Bất kỳ quy định pháp luật hay quyết định hành chính nào   10 (16.3%) 22 (36%) 37 (60.6%)
Các quy định, quyết định của các cơ quan tư pháp  5 (8.1%) 22 (36%) 25 (40.9%)
Các đạo luật và dự thảo luật  4 (6.6%) 21 (34.4%) 34 (55.7%)
Việc thông qua một văn bản pháp luật mới 4 (6.6%) 21 (34.4%) 34 (55.7%)
Việc sửa đổi một văn bản pháp luật đang có hiệu lực 3 (5%) 26 (42.6%) 31 (50.8%)
Việc đưa ra hoặc thay đổi các biện pháp hành chính đang có hiệu lực 3 (5%) 25 (40.9%) 28 (45.9%)
Báo cáo về tình hình nhân quyền của quốc gia hoặc về các vấn đề cụ thể khác  0 (0%) 27 (44.2%) 31 (50.8%)
Báo cáo về những vi phạm nhân quyền mà cơ quan sẽ thụ lý giải quyết 2 (3.3%) 31 (50.8%) 25 (40.9%)
Công bố những quan điểm, khuyến nghị và báo cáo  0 35 (57.3%) 25 (40.9%)
Thúc đẩy và vận động để: 
Làm hài hòa pháp luật và thực tiễn quốc gia với các văn kiện quốc tế về nhân quyền mà quốc gia là thành viên 1 (1.6%) 31 (50.8%) 23 (37.7%)
Thực hiện các khuyến nghị của các cơ chế quốc tế về nhân quyền mà quốc gia tham gia 2 (3.3%) 34 (55.7%) 23 (37.7%)
Tham gia các văn kiện quốc tế mới về nhân quyền  1 (1.6%) 32 (52.4%) 24 (39.3%)
Đóng góp vào việc xây dựng báo cáo định kỳ tổng thể về nhân quyền của quốc gia 10 (16.3%) 24 (39.3%) 23 (37.7%)
Nêu quan điểm về các báo cáo nhân quyền của quốc gia trước các cơ quan liên quan của Liên hợp quốc 2 (3.3%) 30 (48.3%) 22 (36.1%)
Hợp tác với các cơ quan Liên hợp quốc và các cơ chế khu vực, các CQNQQG ở những quốc gia khác 1 (1.6%) 37 (60.6%) 20 (32.7%)
Hỗ trợ thiết lập và thực hiện các chương trình giảng dạy, nghiên cứu về nhân quyền  1 (1.6%) 29 (47.5%) 29 (47.5%)
Thực hiện các hoạt động nâng cao nhận thức của công chúng về nhân quyền, đặc biệt là việc phổ biến thông tin và các sáng kiến giáo dục, phối hợp với các cơ quan báo chí 0 (0%) 37 (60.6%) 23 (37.7%)
3. Mối quan hệ phối hợp của CQNQQG với các cơ quan nhà nước khác trong việc bảo đảm, thúc đẩy quyền con người
Với chức năng, đặc điểm, vai trò và nhiệm vụ, quyền hạn như trình bày trên đây, có thể thấy CQNQQG có mối quan hệ phối hợp khá chặt chẽ và tích cực với các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong lĩnh vực thúc đẩy, bảo đảm, bảo vệ quyền con người trên lãnh thổ quốc gia[12].
3.1. Mối quan hệ phối hợp với cơ quan lập pháp quốc gia
Mối quan hệ giữa CQNQQG và cơ quan lập pháp quốc gia có lẽ là mối quan hệ khăng khít nhất trong số các cơ quan trên đây trong lĩnh vực bảo đảm, thúc đẩy quyền con người. Mối quan hệ này thể hiện ở những khía cạnh sau.
Thứ nhất, mặc dù có tư cách độc lập song CQNQQG thường do cơ quan lập pháp quốc gia thành lập và báo cáo lên cơ quan lập pháp quốc gia. Ở nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia có chính thể Cộng hòa đại nghị, cơ quan lập pháp quốc gia cũng đồng thời là cơ quan có địa vị chính trị cao nhất trong bộ máy nhà nước. Cơ quan lập pháp quốc gia cũng là cơ quan đại diện cao nhất của người dân sinh sống trên lãnh thổ một quốc gia. Vì vậy, ở góc độ này, cơ quan lập pháp quốc gia có thể được coi là chỗ dựa chính trị để CQNQQG thực hiện sứ mệnh thúc đẩy việc bảo vệ quyền con người của mình. Các báo cáo của CQNQQG về tình hình thực hiện quyền con người của quốc gia hay về một trường hợp vi phạm quyền con người cụ thể của một cơ quan nhà nước nào đó khi được gửi lên cơ quan lập pháp có thể được coi như một hình thức minh bạch hóa về mặt chính trị, đồng thời là cơ sở thúc giục cơ quan lập pháp quốc gia có hành động tích cực để thúc đẩy, bảo vệ quyền con người.
Thứ hai, CQNQQG đóng vai trò như cơ quan cố vấn cho cơ quan lập pháp quốc gia trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền con người của quốc gia. Một mặt, CQNQQG có thể đưa ra khuyến nghị đối với cơ quan lập pháp quốc gia về sự cần thiết ban hành các công cụ chính sách hoặc pháp lý thích hợp, ví dụ ban hành 1 đạo luật hay gia nhập một điều ước quốc tế nào đó về quyền con người, đồng thời CQNQQG có thể tham gia vào quy trình lập pháp của cơ quan lập pháp quốc gia ở góc độ xem xét các dự án luật đang trình ra cơ quan lập pháp quốc gia từ góc độ thúc đẩy, bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Mặt khác, CQNQQG có thể tiến hành rà soát các văn bản luật hiện tại do cơ quan lập pháp quốc gia đã ban hành để tìm những quy định còn chưa phù hợp với tinh thần bảo đảm, bảo vệ quyền con người hoặc vi phạm các quy định về quyền con người trong hiến pháp của quốc gia, qua đó kiến nghị cơ quan lập pháp quốc gia bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản còn chưa phù hợp đó.
3.2. Mối quan hệ với cơ quan hành pháp quốc gia
Cơ quan hành pháp của quốc gia là cơ quan trực tiếp thực thi quyền lực nhà nước đối với xã hội, là sự hiện diện của nhà nước đối với xã hội. Mọi đạo luật hoặc chính sách của cơ quan lập pháp quốc gia đều chỉ có thể trở thành hiện thực thông qua hoạt động hành pháp của cơ quan hành pháp quốc gia. Chính trị vậy, quan hệ phối hợp giữa CQNQQG và cơ quan hành pháp quốc gia là hết sức quan trọng trong lĩnh vực thúc đẩy, bảo đảm quyền con người trên phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Trong mối quan hệ này, CQNQQG thường đóng vai trò là cơ quan độc lập kiểm soát hoạt động của cơ quan hành pháp quốc gia cũng như các cơ quan trong hệ thống chấp hành thuộc cơ quan hành pháp quốc gia trong việc bảo đảm, thực thi quyền con người. Cụ thể, CQNQQG có thể tiến hành các hoạt động điều tra, tìm hiểu và công bố tình hình bảo đảm, thực hiện quyền con người trong hệ thống các cơ quan chấp hành, đặc biệt là hệ thống cơ quan hành chính và công bố các báo cáo điều tra đó. CQNQQG cũng có thể rà soát, phát hiện các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan hành pháp quốc gia ban hành có nội dung trái với tinh thần bảo đảm, bảo vệ quyền con người để kiến nghị sửa đổi, hoàn thiện. CQNQQG cũng có thể trực tiếp tiếp nhận các khiếu nại cụ thể về việc vi phạm quyền con người của các cơ quan hành chính nhà nước để chuyển tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Thậm chí, CQNQQG cũng có thể đóng vai trò quan trọng trong việc kiến nghị cơ quan hành pháp quốc gia những chính sách cần thiết để góp phần bảo đảm, thực thi quyền con người trên lãnh thổ quốc gia.
Ở chiều ngược lại, cơ quan hành pháp có vai trò tạo điều kiện cho hoạt động của CQNQQG, không chỉ từ góc độ ngân sách và phương tiện hoạt động mà còn ở cả góc độ phối hợp tích cực để giúp CQNQQG thực hiện tốt vai trò thúc đẩy, bảo đảm, bảo vệ quyền con người của mình.
3.3. Mối quan hệ với cơ quan tư pháp
CQNQQG và cơ quan tư pháp quốc gia đều hoạt động dựa trên cùng một nguyên tắc quan trọng nhất - nguyên tắc độc lập. Chính vì vậy, mối quan giữa hai cơ quan này trong lĩnh vực thúc đẩy, bảo vệ quyền con người, ở một góc độ nào đó, thể hiển rõ rệt nhất tính chất của mối quan hệ phối hợp. Xét từ góc độ chức năng, nhiệm vụ thì cơ quan tư pháp quốc gia có sứ mệnh bảo vệ quyền con người dưới danh nghĩa thi hành công lý. Đó là nơi các vi phạm quyền con người được xét xử và trừng trị, thiệt hai gây ra đối với vi phạm quyền con người được bồi thường một cách xứng đáng.
CQNQQG không có nhiệm vụ trực tiếp bảo vệ quyền con người bằng các công cụ pháp lý. Song với lợi thế của mình là tri thức chuyên sâu về quyền con người, CQNQQG có thể phối hợp một cách chủ động và hiệu quả với cơ quan tư pháp quốc gia trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người. Một mặt, CQNQQG, trong quá trình hoạt động của mình, có thể phát hiện những văn bản hoặc những hành vi của cơ quan nhà nước vi phạm quyền con người và khởi kiện những hành vi đó ra trước cơ quan tư pháp quốc gia để xét xử, buộc các vi phạm đó phải chịu chế tài pháp lý. Mặt khác, CQNQQG có thể đóng vai trò cố vấn cho các cơ quan tòa án, nhất là cơ quan tài phán hiến pháp của quốc gia, trong quá trình xét xử các vụ việc xâm phạm tới quyền con người. Đặc biệt, khi tòa án xem xét tính hợp hiến của một đạo luật hay văn bản QPPL dưới góc độ bảo vệ quyền con người thì việc tham vấn CQNQQG là hết sức hữu ích. Đồng thời, CQNQQG cũng có có thể phối hợp với cơ quan tư pháp quốc gia để đào tạo, nâng cao hiểu biết và nhận thức của các thẩm phán về các vấn đề liên quan tới quyền con người và bảo vệ quyền con người.
Thực tế ở các quốc gia trên thế giới đã có khá nhiều mô hình cơ quan nhân quyền được thành lập và hoạt động theo nguyên tắc Paris.[13] Dù tên gọi có khác nhau, phản ánh sự đa dạng về trình độ phát triển của nền kinh tế, hệ thống chính trị, văn hoá, xã hội cũng như ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý của dân chúng ở mỗi nước, nhưng nhìn chung, các tổ chức nhân quyền được thành lập là nằm trong cơ chế quốc gia nhằm bảo vệ, thúc đẩy các giá trị của tự do, dân chủ và quyền con người. Cơ chế bộ máy nhân quyền quốc gia được thành lập, không thể thay thế vai trò của Toà án, cơ quan tư pháp nói chung, các cơ quan của Quốc hội và cơ quan của Chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội hay tổ chức phi chính phủ mà trái lại, nó giúp cho sự hoàn thiện của các cơ quan này bằng việc phối hợp, đảm bảo cho các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn, nâng cao hơn ý thức trách nhiệm trong hoạt động công vụ, giảm thiểu các nguy cơ xâm phạm quyền và các lợi ích hợp pháp của người dân từ phía cơ quan công quyền. Từ tiêu chuẩn, mô hình cơ quan quốc gia về nhân quyền ở một số nước trên thế giới, có thể rút ra những đặc điểm của cơ quan quốc gia về nhân quyền. Đó là cơ quan quốc gia về nhân quyền phần lớn đều do Nghị viện thành lập, đảm bảo sự độc lập trong hoạt động với cơ quan hành pháp và tư pháp, có chức năng giám sát liên tục hoạt động của Chính phủ, có quy chế hoạt động riêng được quy định trong hiến pháp hay một đạo luật do Quốc hội ban hành./.
TS. Trương Hồng Quang
Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
 
[1] Xem: Tô Văn Hòa, Cơ quan nhân quyền quốc gia và quan hệ phối hợp với cơ quan này với các cơ quan nhà nước khác trong việc bảo đảm, thúc đẩy quyền con người, Hội thảo khoa học “Cơ quan nhân quyền quốc gia - Thực tiễn quốc tế và bài học kinh nghiệm với Việt Nam”, Bộ Ngoại giao và Đại học Luật Hà Nội tổ chức, TP. Hà Nội, ngày 25/9/2015.
[2] Cơ quan quyền con người của Liên minh Châu Âu, Sổ tay thành lập và công nhận các cơ quan nhân quyền quốc gia ở Liên minh Châu Âu, 2012, tr. 12.
[3] Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người, Cơ quan nhân quyền quốc gia - lịch sử, nguyên tắc, vai trò và trách nhiệm, Liên hợp quốc, 2010, tr. 13; Cơ quan quyền con người của Liên minh Châu Âu, Sổ tay thành lập và công nhận các cơ quan nhân quyền quốc gia ở Liên minh Châu Âu, 2012, tr. 13.
[4] Nghị quyết này thường được gọi tắt là nguyên tắc Paris được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua theo Nghị quyết số 48/134 ngày 20/12/1993. Xem toàn văn nguyên tắc này tại: http://www2.ohchr.org/english/law/ parisprinciples.htm
[5] Theo Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights, National Human Rights Institutions History, Principles, Roles and Responsibilities, New York and Geneva, 2010, tr. 13.
[6] Theo Linda C. Reif, The Ombudsman, Good Governance, and the International Human Rights System, Martinus Nijhoff Publishers, 01/01/2004, tr. 82, 83. Nguyên văn: “a body which is established by a Government under the constitution, or by law or decree, the functions of which are specifically designed in terms of the promotion and protection of human rights”, “a quasi-governmental or statutory institution with human rights in its mandate”.
[7] Chỉ những cơ quan được ghi nhận trong hiến pháp và/hoặc luật của một quốc gia với chức năng giám sát việc thực thi quyền lực công của các cơ quan nhà nước, ví dụ như Ombudsman; Cơ quan Kiểm toán quốc gia; Hội đồng/Ủy ban bầu cử quốc gia; Ủy ban phòng, chống tham nhũng quốc gia; Ủy ban nhân quyền quốc gia; Ủy ban công vụ; Hội đồng/Toà án hiến pháp... Trong một số nghiên cứu và văn bản hiến pháp trên thế giới, các cơ quan này được gọi chung bằng những tên như independent accountability agencies/bodies/institutions, indendent oversight agencies/bodies/institutions, hoặc independent bodies.
Theo tác giả Đào Trí Úc thì một cơ quan hiến định độc lập phải đáp ứng các điều kiện sau đây: a) Thiết chế đó phải bao gồm những cơ quan không chịu sự phụ thuộc theo quan hệ  trên - dưới  đối với một cơ quan thuộc nhánh quyền lực khác hay của các cơ quan khác; b) Thiết chế đó có những chức năng pháp lý và đặc điểm tổ chức được Hiến pháp quy định; c) Các cơ quan trong thiết chế là một hệ thống tổ chức, có thể  tập trung hoặc phi tập trung nhưng thống nhất về chức năng và nhiệm vụ; d) Các chức năng, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong thiết chế đó phải mang tính chất là những chức năng, thẩm quyền phổ quát mà không mang tính quản lý ngành. Chẳng hạn, chức năng của Kiểm toán nhà nước là kiểm tra, giám sát về nguồn tài chính công, bất kể nguồn tài chính công đang nằm ở lĩnh vực nào: giáo dục, y tế, khoa học công nghệ hay công nghiệp, nông nghiệp,… Xem: Đào Trí Úc, Các thiết chế hiến định độc lập, in trong Viện Chính sách công và Pháp luật, Các thiết chế hiến định độc lập - Kinh nghiệm quốc tế và triển vọng ở Việt Nam, Nxb. ĐHQG Hà Nội, 2013, tr. 17.
[8] Hiện nay, theo khảo sát của OHCHR, có 33% số CQNQQG hiện hành trên thế giới được thành lập bởi quy định trong Hiến pháp, 31% bởi quy định trong luật. Số được thành lập bởi nghị định hoặc văn bản quy phạm pháp luật khác chiếm 21%, còn lại (15%) được thành lập bởi nhiều dạng văn bản (hình thức hỗn hợp).
[9] Dẫn theo: TS. Nguyễn Toàn Thắng, Cơ quan nhân quyền quốc gia - Thực tiễn một số nước châu Á và kinh nghiệm cho Việt Nam, Hội thảo khoa học “Cơ quan nhân quyền quốc gia - Thực tiễn quốc tế và bài học kinh nghiệm với Việt Nam”, Bộ Ngoại giao và Đại học Luật Hà Nội tổ chức, TP. Hà Nội, ngày 25/9/2015.
[10] Office of the High Commissioner for Human Rights, Survey on CQNQQG: Report on the Findings and Recommendation of a Questionnaire Addressed to CQNQQG Worldwide, Geneve, 7/2009.
[11] Dẫn theo: Vũ Công Giao, Cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam, Hội thảo khoa học “Cơ quan nhân quyền quốc gia: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, tháng 9/2014, tr. 12.
[12] Tham khảo từ: Tô Văn Hòa, Cơ quan nhân quyền quốc gia và quan hệ phối hợp với cơ quan này với các cơ quan nhà nước khác trong việc bảo đảm, thúc đẩy quyền con người, Hội thảo khoa học “Cơ quan nhân quyền quốc gia - Thực tiễn quốc tế và bài học kinh nghiệm với Việt Nam”, Bộ Ngoại giao và Đại học Luật Hà Nội tổ chức, TP. Hà Nội, ngày 25/9/2015.
[13] Xem thêm: Phạm Hữu Nghị, Về việc xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2012, tr. 22-27.