Các nguyên tắc trong xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước trong giai đoạn hiện nay

13/09/2019
Để quản lý xã hội, bên cạnh pháp luật còn có hệ thống các quy phạm xã hội bao gồm: quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán, hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư, tổ chức xã hội và tổ chức tôn giáo… Tuy các quy phạm xã hội không mang tính cưỡng chế cao như quy phạm pháp luật, song nó vẫn có giá trị bởi có sự kết hợp giữa cưỡng chế với sự tự nguyện, xử phạt với giáo dục, răn đe với thuyết phục. Chính vì vậy, để việc quản lý xã hội đạt hiệu quả cao, đòi hỏi phải thực hiện tốt việc kết hợp giữa pháp luật với hệ thống các thiết chế xã hội khác, trong đó có hương ước, quy ước.
Ở Việt Nam, hương ước, quy ước xuất hiện từ thế kỷ XV, được quy định lần đầu tiên dưới triều vua Lê Thánh Tông; được các chế độ phong kiến Việt Nam sau đó và thực dân Pháp duy trì để quản lý làng xã, cộng đồng dân cư (hương ước được thừa nhận và tồn tại song song với pháp luật của Nhà nước). Sau cách mạng tháng Tám (1945), do quan niệm hương ước, quy ước không còn thích hợp với xã hội mới nên Nhà nước ta không đề cập đến việc xây dựng, thực hiện hương ước. Bước vào thời kỳ đổi mới (1986), trước yêu cầu bảo vệ, duy trì, phát triển các phong tục tập quán, giá trị văn hóa tốt đẹp đang được phục hồi, xóa bỏ các hủ tục, tệ nạn nảy sinh, nhất là trong việc cưới, việc tang nhằm xây dựng đời sống văn hóa mới, chủ trương xây dựng và thực hiện hương ước đã được khẳng định trong một số văn kiện của Đảng và thể chế hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật .[1]  Qua tổng kết Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg cho thấy đến nay việc xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước đã đi vào ổn định, được xây dựng, thực hiện rộng khắp trên cả nước. Theo Báo cáo số 108/BC-BTP ngày 23/5/2016 của Bộ Tư pháp, trong số 125.083 thôn, làng được rà soát, có 109.698 bản hương ước, quy ước đã được phê duyệt, chiếm 87,7%. Hương ước, quy ước đã khẳng định được vị trí, vai trò trong xây dựng, thực hiện nếp sống văn minh, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng kết cấu hạ tầng, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, vệ sinh môi trường, thực hiện chính sách dân số, gia đình và trẻ em; phát huy vai trò tự quản và xây dựng tình đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng dân cư. Đồng thời, hương ước, quy ước còn là một trong những hình thức để thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân thể hiện ý chí, tham gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước – một trong những yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Qua nhìn nhận, đánh giá vị trí, vai trò của hương ước, quy ước trong tình hình mới, ngày 08/5/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 22/2018/QĐ-TTg về xây dựng, thực hiện hương ước để thay thế Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg. Quyết định có 5 chương, 20 điều với nhiều quy định mới so Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg ; đặc biệt là các quy định về nguyên tắc xây dựng hương ước, quy ước.
1. Các nguyên tắc xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước
 Các nguyên tắc xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước được quy định tại Điều 4 Quyết định số 22/2018/QĐ-TTg. Theo đó, việc xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây:
1.1. Việc xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước phải phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của cộng đồng dân cư; không vi phạm quyền con người, quyền công dân, bảo đảm bình đẳng giới
Hương ước, quy ước được xây dựng, duy trì để đáp ứng yêu cầu tự quản của cộng đồng dân cư và thực hiện dựa trên nhu cầu tự nguyện, thỏa thuận của cộng đồng. Tuy nhiên, việc xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước vẫn phải đặt dưới sự quản lý, kiểm soát của Nhà nước nhằm đảm bảo nội dung của hương ước, quy ước không trái chủ trương, chính sách, pháp luật, không vi phạm quyền con người, quyền công dân. Sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình xây dựng hương ước, quy ước được thể hiện ở quy định về trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc cho ý kiến vào dự thảo hương ước; trách nhiệm của Phòng Tư pháp trong thẩm định, trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, công nhận hương ước, quy ước; mặt khác còn thể hiện ở hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước trong xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước.
Sự quản lý, can thiệp của các cơ quan nhà nước không chỉ trong quá trình xây dựng hương ước mà còn ở cả quy định về xử lý hương ước, quy ước vi phạm. Trên thực tế vẫn còn tình trạng hương ước, quy ước có nội dung vi phạm pháp luật, còn quy định việc xử phạt trái pháp luật, vi phạm hoặc hạn chế quyền con người, quyền công dân, đã tác động tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội và hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước bằng pháp luật.Theo đó, hương ước, quy ước tuy đã được công nhận nhưng nếu phát hiện có sai phạm (có nội dung trái pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc trái phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình được áp dụng tại địa phương đã được Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phê duyệt hoặc trái phong tục, tập quán tốt đẹp khác theo quy định của pháp luật) thì sẽ bị tạm ngừng thực hiện để tiến hành sửa đổi cho phù hợp hoặc bãi bỏ theo quy định.
Bên cạnh đó, để bảo đảm bình đẳng giới cũng như quyền lợi, nghĩa vụ bình đẳng giữa các thành viên trong cộng đồng, không có sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ trong hương ước, quy ước,pháp luật quy định thành phần Tổ soạn thảo hương ước phải có đại diện phụ nữ.Các thành viên trong cộng đồng dân cư thôn, tổ dân phố không phân biệt nam và nữ có quyền bàn, biểu quyết về chủ trương xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước cũng như nội dung cụ thể của hương ước, quy ước. Việc biểu quyết được thực hiện tại cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại gia đình hoặc phiếu lấy ý kiến. Cùng với việc bàn, biểu quyết, để tạo điều kiện cho mọi đối tượng trong cộng đồng dân cư đóng góp ý kiến, pháp luật còn quy định lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo hương ước, quy ước bằng nhiều hình thức khác nhau (niêm yết công khai tại nhà văn hóa thôn, tổ dân phố, bảng tin công cộng, điểm sinh hoạt cộng đồng; kết hợp, lồng ghép với các cuộc họp của tổ chức đoàn thể và các tổ chức tự quản của thôn, tổ dân phố; sao gửi dự thảo hương ước, quy ước đến từng hộ gia đình, cá nhân; mở hòm thư tiếp nhận ý kiến góp ý, lấy ý kiến bằng văn bản hoặc hình thức phù hợp khác). 
1. 2. Bảo đảm tự nguyện, trên cơ sở thỏa thuận, thống nhất của cộng đồng dân cư; phát huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân; dựa trên nhu cầu tự quản của cộng đồng dân cư trong xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 4 Quyết định số 22/2018/QĐ-TTg và được thể hiện trong các quy định về trình tự, thủ tục, điều kiện soạn thảo, thông qua, công nhận hương ước, quy ước; việc xây dựng, thực hiện, sửa đổi, bổ sung hương ước, quy ước. Trong đó nhấn mạnh sự tự nguyện, thỏa thuận, thống nhất của cộng đồng dân cư từ chủ trương đến tham gia góp ý kiến, thảo luận, biểu quyết nội dung hương ước, quy ước; tổ chức thực hiện hương ước, quy ước sau khi được công nhận.
Đây là nguyên tắc quan trọng, thể hiện bản chất của hương ước, quy ước, đồng thời là cơ sở để phân biệt giữa các quy phạm trong hương ước, quy ước và quy phạm pháp luật. Hương ước, quy ước là công cụ tự quản của cộng đồng dân cư, những quy tắc xử sự trong hương ước, quy ước do cộng đồng dân cư tự nguyện thỏa thuận, thống nhất ý kiến và chủ động tổ chức thực hiện. Vì thế, việc xây dựng hương ước, quy ước phải xuất phát từ nhu cầu của cộng đồng dân cư, pháp luật không áp đặt tất cả cộng đồng dân cư thôn, tổ dân phố phải có hương ước, quy ước mà chỉ định hướng, khuyến khích xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước. Tuy nhiên, trước đây, Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg và Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-BVHTT- BTTUBTUMTTQVN chưa quy định rõ yêu cầu này thành nguyên tắc cụ thể. Trong triển khai một số nhiệm vụ của một số Bộ, Ngành (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tư pháp), hương ước, quy ước còn được coi là tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá thôn, tổ dân phố văn hóa đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới. Yêu cầu này dẫn đến thực trạng nhiều địa phương đã chỉ đạo, triển khai xây dựng hương ước, quy ước hàng loạt, theo phong trào, theo thành tích mà không xuất phát từ nhu cầu thực sự của người dân. Nhiều nơi còn “hành chính hóa” việc xây dựng hương ước, quy ước, đó là giao cho một nhóm công chức soạn thảo và đưa xuống từng địa phương để bổ sung hoặc không bổ sung, sau đó đưa ra Hội nghị thông qua một cách hình thức, cho đủ thủ tục mà chưa chú trọng ý kiến của người dân, chưa phát huy quyền làm chủ của nhân dân theo pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Do đó, nội dung của hương ước, quy ước không sát với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, không được thực hiện trong thực tế, thậm chí có nơi người dân không biết địa phương mình có hương ước, quy ước. Điều này không những làm mất đi vai trò, ý nghĩa của các bản hương ước, quy ước trong tự quản cộng đồng mà còn gây tốn kém thời gian, công sức xây dựng, thẩm định, công nhận hương ước, quy ước.
Để cụ thể hóa nguyên tắc này, Quyết định số 22/2018/QĐ-TTg đã đề ra những quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục, điều kiện soạn thảo, thông qua, công nhận hương ước, quy ước theo đó việc xây dựng, thực hiện, sửa đổi, bổ sung hương ước, quy ước phải xuất phát từ sự tự nguyện, thỏa thuận theo đa số của người dân từ việc thống nhất chủ trương xây dựng, sửa đổi, bổ sung, góp ý dự thảo hương ước, quy ước đến thảo luận, thông qua và thực hiện hương ước, quy ước. Đồng thời, Quyết định cũng quy định rõ trách nhiệm của hộ gia đình, cá nhân trong thực hiện hương ước, quy ước.
Để khắc phục, vừa qua, các bộ, ngành đã sửa đổi các quy định về tiêu chuẩn đánh giá thôn, tổ dân phố văn hóa; xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, trong đó có nội dungvề hương ước, quy ước (Nghị định số 122/2018/NĐ-CP ngày 17/9/2018 quy định về xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “thôn văn hóa”, “làng văn hóa”, “ấp văn hóa”, “bản văn hóa”, “tổ dân phố văn hóa”; Quyết định số 619/QĐ-TTg ngày 08/5/2017 ban hành quy định về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật)
1.3. Bảo vệ, giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; xây dựng các giá trị văn hóa mới phù hợp với đặc điểm tình hình của cộng đồng dân cư
Xây dựng, duy trì hương ước, quy ước góp phần bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình và dân tộc (truyền thống hiếu nghĩa, đạo làm con, truyền thống hiếu học…), bảo vệ thuần phong mỹ tục, tinh thần tương trợ, tương thân tương ái Nhiều truyền thống, phong tục tập quán, luật tục tốt đẹp đã được các cộng đồng dân cư ghi nhận, văn bản hóa tại hương ước, quy ước. Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, đứng trước yêu cầu hội nhập quốc tế sự ảnh hưởng và giao lưu văn hóa ngày càng mạnh mẽ. Cùng với việc giao lưu văn hóa là quá trình gìn giữ những nét văn hóa riêng của dân tộc. Nếu không có những công cụ để bảo tồn giá trị văn hóa của mình, chúng ta có thể mất bản sắc. Một cách thức hiệu quả để bảo tồn sự đa dạng văn hóa đó chính là xây dựng hương ước, quy ước thành công cụ gìn giữ những nét văn hóa riêng. Việc quy định  “Bảo vệ, giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; xây dựng các giá trị văn hóa mới phù hợp với đặc điểm tình hình của cộng đồng dân cư” trong xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước thành một nguyên tắc riêng nhằm nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng này của hương ước, quy ước.
Quyết định số 22/2018/QĐ-TTg đã có nhiều quy định để cụ thể hóa, bảo đảm thực hiện nguyên tắc này: Điều 5 quy định về nội dung hương ước, quy ước phải ghi nhận các phong tục, tập quán tốt đẹp và biện pháp hạn chế, tiến tới xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan; tại Điều 6 Quyết định quy định thành viên Tổ soạn thảo thành viên Tổ soạn thảo hương ước, quy ước phải là người có uy tín trong cộng đồng dân cư; có phẩm chất đạo đức tốt; có kinh nghiệm sống và có hiểu biết về pháp luật, văn hóa, phong tục, tập quán của địa phương; có đại diện phụ nữ tham gia. Đối với thôn, tổ dân phố vùng dân tộc thiểu số thì thành viên Tổ soạn thảo phải có sự tham gia của người dân tộc thiểu số biết tiếng dân tộc thiểu số. Đồng thời, quy định trách nhiệm của Ủy ban Dân tộc và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong việc hướng dẫn việc ghi nhận các phong tục, tập quán tiến bộ; vận động xóa bỏ, không áp dụng phong tục, tập quán lạc hậu trong hương ước, quy ước tại khoản 3 Điều 17 Quyết định.
1.4. Không đặt ra các khoản phí, lệ phí, phạt tiền, phạt vật chất
Trước đây, tại Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-BVHTT- BTTUBTUMTTQVN quy định cho phép hương ước, quy ước được đề ra biện pháp phạt đối với người có hành vi vi phạm các quy định của hương ước, quy ước để bảo đảm thực hiện (vi phạm nghiêm trọng có thể áp dụng thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm trong phạm vi cộng đồng hoặc các biện pháp phạt…).Tuy nhiên, nội dung quy định chung chung, mang tính định tính nên thực tế còn nhiều bản hương ước, quy ước quy định hình thức phạt tiền, thậm chí với mức cao hơn mức phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, làm ảnh hưởng đến hiệu lực điều chỉnh của pháp luật. Hơn nữa, hiện nay pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hiện nay đã tương đối đầy đủ, hoàn thiện, bao gồm Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và hơn 50 nghị định về xử phạt vi phạm hành chính, không cần thiết phải quy định các biện pháp phạt tiền, phạt vật chất trong hương ước, quy ước. Để bảo đảm thực hiện các quy định trong hương ước, quy ước cần phát huy tính tự giác, tự nguyện. Các biện pháp bảo đảm thực hiện quy định trong hương ước, quy ước chỉ mang tính chất giáo dục, thuyết phục, vận động. Nếu cần thiết phải đưa ra những chế tài trong hương ước, quy ước có thể áp dụng các biện pháp như: Buộc lao động công ích; giáo dục, phê bình trước tập thể nhân dân hay không đưa vào diện bình xét gia đình văn hóa….
2. Một số đề xuất giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện các nguyên tắc trong xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước
Để hương ước, quy ước phát huy được vai trò, được “sống” đúng với giá trị của nó trong quản lý xã hội, việc xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước đòi hỏi phải tuân thủ các nguyên tắc như đã phân tích ở trên. Theo đó, để thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc đó, cần chú trọng triển khai đồng bộ, kịp thời một số nhiệm vụ và giải pháp như sau:
Thứ nhất, tiếp tục rà soát, đề xuất hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung thể chế, văn bản có liên quan đến hương ước, quy ước. Hiện nay Bộ Tư pháp đang rà soát, đề xuất bãi bỏ một số văn bản về hương ước, quy ước trái với Quyết định số 22/2018/QĐ-TTg (Thông tư liên tịch số 03, Thông tư liên tịch số 04). Đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các Bộ, ngành tiếp tục rà soát một số văn bản, quy định có liên quan đến hương ước, quy ước, đặc biệt là các văn bản quy định hương ước, quy ước là tiêu chí xét, công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới, nông thôn mới (Thông tư số 17/2011/TT-BVHTTDL ngày 02/12/2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định về tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục xét và công nhận “xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới”, tại điểm c khoản 5 Điều 4 quy định tiêu chuẩn: 100% thôn, làng, ấp, bản và tương đương xây dựng và thực hiện hiệu quả quy ước cộng đồng; Công văn số 1345/BNN-VPĐP ngày 08/2/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn xây dựng và triển khai Kế hoạch xét, công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2018 -2020 (điểm đ, mục 3). Qua đó đề xuất sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với Quyết định số 22/2018/QĐ-TTg, bảo đảm triển khai các quy định về hương ước, quy ước được thống nhất, đồng bộ, tránh chồng chéo, mâu thuẫn.
Thứ hai, tổ chức tập huấn, quán triệt, phổ biến các quy định pháp luật về xây dựng hương ước, quy ước, đặc biệt là các quy định tại Quyết định số 22/2018/QĐ-TTg ngày 8/5/2018 đến cán bộ, công chức tham mưu quản lý công tác xây dựng, thực hiện hương ước, các thôn, tổ dân phố, cộng đồng dân cư để nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của hương ước, quy ước trong giai đoạn hiện nay, các nguyên tắc trong xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước; nội dung, hình thức của hương ước, quy ước; trình tự, thủ tục xây dựng, thông qua, công nhận hương ước, quy ước cũng như các biện pháp xử lý hương ước, quy ước vi phạm. Sau khi nhận bàn giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về hương ước, quy ước từ Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã triển khai ngay Đề án Tăng cường thực thi pháp luật về xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước  đến năm 2021 (Quyết định số 3727/QĐ-BVHTTDL ngày 4/10/2018). Trong đó đề ra các mục tiêu về nâng cao hiểu biết pháp luật về xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước; về vị trí, vai trò của hương ước, quy ước trong quản lý xã hội; rà soát, đánh giá, từng bước hoàn thiện về nội dung theo quy định của pháp luật; tập huấn nghiệp vụ chuyên môn cho công chức, người lao động theo dõi, phụ trách công tác thực thi pháp luật về xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước tại các cơ quan chuyên môn về văn hóa, thể thao và du lịch, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố.
Thứ ba, các bộ, ngành có liên quan, nhất là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kịp thời chỉ đạo các cơ quan, tổ chức tại địa phương tổ chức rà soát tổng thể các bản hương ước, quy ước hiện hành, tiến hành sửa đổi, bổ sung, thay thế,  bãi bỏ đối với những bản hương ước, quy ước đã được công nhận hoặc phê duyệt theo Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg ngày 19 tháng 6 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư trước ngày 01/7/2018 không phù hợp với các nguyên tắc quy định tại Điều 4 của Quyết định số 22/2018/QĐ-TTg.
Thứ tư, tăng cường phối hợp, tổ chức kiểm tra, theo dõi, phát hiện hương ước, quy ước vi phạm và xử lý kịp thời, bảo đảm việc xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước theo đúng quy định, qua đó nâng cao hiệu quả của hương ước đáp ứng yêu cầu tự quản của cộng đồng dân cư. 
Nguyễn Tâm
 
[1] Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VII) đã "Khuyến khích xây dựng và thực hiện các hương ước, các quy chế về nếp sống văn minh ở các thôn, xã”; Báo cáo chính trị tại Văn kiện Đại hội VIII của Đảng yêu cầu xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở… ; Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn ngày 20/4/2007, Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 17/4/2008 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn thi hành các Điều 11, Điều 14, Điều 16, Điều 22 và Điều 26 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg ngày 19/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư, Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN ngày 31/3/2000 của Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch), Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư, Thông tư liên tịch số 04/2001/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN-UBQGDSKHHGĐ ngày 09/7/2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa-Thông tin, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Quốc gia dân số và kế hoạch hóa gia đình hướng dẫn bổ sung Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTƯMTTQVN, Thông tư số 70/2007/TT-BNN ngày 01/08/2007 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn xây dựng và tổ chức thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng tại cộng đồng dân cư thôn, Thông tư số 17/2011/TT-BVHTTDL ngày 02/12/2011 quy định chi tiết về tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục xét và công nhận “Xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới”.