1. Nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý từ yêu cầu hội nhập quốc tế
Trong bối cảnh hợp tác quốc tế sâu rộng như hiện nay, các yêu cầu liên quan đến bảo đảm quyền con người, quyền tiếp cận công lý, trong đó có tiếp cận dịch vụ pháp lý, ngày càng thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Liên Hợp Quốc đã có khuyến nghị các nước coi quyền được trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những quyền cơ bản của công dân trong tư pháp hình sự. TGPL là trách nhiệm của Nhà nước, cần được quy định trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Nhiều nước đã quy định quyền được TGPL trong Hiến pháp hoặc luật. Cùng với sự phát triển của xã hội, vấn đề chất lượng TGPL ngày càng được đề cao nhằm bảo đảm cho người dân, đặc biệt là “đối tượng yếu thế” được tiếp cận với dịch vụ pháp lý miễn hoặc giảm phí thực sự có chất lượng, tương đương với các dịch vụ pháp lý có thu phí của luật sư trên thị trường dịch vụ pháp lý.
Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc Ngày 20/12/2012 về các nguyên tắc và hướng dẫn của liên hợp quốc về tiếp cận TGPL trong hệ thống tư pháp hình sự đã thừa nhận TGPL là một thành tố cơ bản của hệ thống tư pháp hình sự dựa trên nguyên tắc pháp quyền. Trong Bản quy tắc và hướng dẫn tiếp cận TGPL trong tư pháp hình sự ngày 20/12/2014, Liên Hợp Quốc khuyến nghị các quốc gia “tạo điều kiện tiếp cận TGPL có chất lượng ở mọi vùng của đất nước”. Mặc dù đây là những nguyên tắc mang tính khuyến nghị của Liên hợp quốc nhưng những khuyến nghị này có tầm ảnh hưởng khá lớn tới thể chế, chính sách của các quốc gia. Trong bối cảnh Việt Nam tham gia hợp tác quốc tế sâu rộng như hiện nay, việc nội luật hóa các cam kết quốc tế cũng như đưa pháp luật quốc gia tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế sẽ nâng cao vị thế, vai trò và hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế của Đảng đề ra.
2. Nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý từ yêu cầu trong nước
a) Quan điểm, thái độ chính trị của Đảng
Giúp đỡ pháp luật cho nhân dân được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và ghi nhận trong các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, lần thứ X và các Nghị quyết của Bộ Chính trị; trong đó có:
- Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xác định “đẩy mạnh hoạt động TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách...”. Ngày 12/3/2014, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương có Báo cáo số 35-BC/CCTP về việc tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW; trong đó, bổ sung một số nhiệm vụ cải cách tư pháp phù hợp với yêu cầu của tình hình mới: “Đổi mới cơ chế, chính sách nhằm mở rộng đối tượng, nâng cao chất lượng TGPL cho người dân; hỗ trợ các đối tượng cần được trợ giúp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp; bảo đảm công lý, công bằng xã hội”.
- Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020 xác định: “Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp”.
- Tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ “Hoàn thiện hệ thống chính sách và cơ chế cung ứng dịch vụ công cộng thích ứng với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước không ngừng nâng cao mức bảo đảm các dịch vụ công cộng thiết yếu cho nhân dân”.
Bộ Chính trị kết luận về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công” nêu rõ “Nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các hoạt động sự nghiệp công cơ bản và đảm bảo hỗ trợ cho các đối tượng chính sách xã hội, các đối tượng nghèo để được tiếp cận các dịch vụ, đồng thời có chính sách khuyến khích xã hội hóa thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cung cấp dịch vụ sự nghiệp công”.
Tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa một số định hướng đổi mới cơ chế quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp công, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ngày 27/5/2013 một số vấn đề về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến 2020 cũng đề cập “… Có chính sách khuyến khích thúc đẩy phát triển số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ công”.
- Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, nêu: ''Tiến hành đồng bộ với các hoạt động cải cách hành chính, cải cách chế độ công vụ, công chức; nâng cao chất lượng khu vực dịch vụ công và đẩy mạnh XHH sự nghiệp công''.
- Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “Về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập” đã đề ra 0 5 giải pháp đóng vai trò làm điều kiện, gồm: Một là, ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng và không sử dụng ngân sách nhà nước; hai là. quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập; ba là, ban hành, sửa đổi, bổ sung định mức kinh tế - kỹ thuật áp dụng trong các lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công; bốn là, ban hành, sửa đổi, bổ sung quy định tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ sự nghiệp công; năm là,
ban hành và thực hiện kiểm định chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, giám sát, đánh giá chất lượng dịch vụ sự nghiệp công.
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII xác định mục tiêu “Đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường, thúc đẩy xã hội hóa dịch vụ sự nghiệp công”, nhằm nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, để người dân ngày càng hài lòng với dịch vụ công nhận được. Bên cạnh bảo đảm số lượng dịch vụ công, tính bao quát của dịch vụ công thì chất lượng dịch vụ công, thái độ cung ứng dịch vụ công là những mục tiêu cần phải đạt được.
Do đó, TGPL với tư cách là một loại hình dịch vụ công, cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL là nhóm yếu thế trong xã hội, giúp họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng pháp luật cũng cần phải có các giải pháp để nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng cho đối tượng thụ hưởng.
b) Quy định của pháp luật về chất lượng trợ giúp pháp lý
TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL theo quy định của pháp luật, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Trải qua hơn hai thập kỷ hình thành và phát triển, hệ thống TGPL của nước ta ngày càng phát triển và đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong việc thực hiện chính sách xã hội như xóa đói giảm nghèo, chính sách ưu đãi người có công, chính sách an sinh xã hội… Trong những năm gần đây, hệ thống pháp luật trong nước có nhiều quy định liên quan đến quyền công dân, trong đó có quyền bào chữa nói riêng, nhất là cho các đối tượng yếu thế trong xã hội. Trước sự thay đổi về thể chế và sự phát triển mạnh mẽ trên các lĩnh vực kinh tế xã hội, nhu cầu của người dân cần được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cũng như quyền bình đẳng trong tiếp cận công lý và pháp luật ngày càng cao và đa dạng hơn, công tác TGPL đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế nhất định, đặc biệt là chất lượng.
Trong đó, Hiến pháp và một số đạo luật như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật TGPL... có một số quy định mới liên quan đến việc bảo đảm quyền con người, quyền được TGPL của người dân và chất lượng TGPL, cụ thể: Hiến pháp năm 2013 đã quy định quyền bào chữa, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử:
“Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” (khoản 4 Điều 31);
“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (khoản 5 Điều 103). Theo đó, đã đặt ra yêu cầu phải có cơ chế để bảo đảm thực hiện tốt nhất các quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Ngày 25/11 và 27/11/2015, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực 01/7/2016; Bộ luật tố tụng hình sự, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam có hiệu lực thi hành 01/01/2018 cùng với Luật TGPL năm 2017.... có nhiều điểm mới yêu cầu TGPL phải có chất lượng. Đặc biệt, Luật TGPL đã lấy việc bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động TGPL. Điều đó trở thành nguyên tắc xuyên suốt trong tất cả các điều Luật, nhằm hướng đến nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL. Các quy định của Luật TGPL năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đã tạo cơ sở pháp lý bảo đảm cho việc nâng cao chất lượng TGPL, theo đó đã đặt ra các yêu cầu để nâng cao chất lượng TGPL trên các phương diện như (1) Yêu cầu đối với người thực hiện TGPL; (2) Yêu cầu đối với tổ chức thực hiện TGPL; (3) Yêu cầu trong quá trình thực hiện TGPL; (4) Yêu cầu trong quản lý hồ sơ vụ việc TGPL; (5) Yêu cầu trong quản lý chất lượng TGPL.
- Yêu cầu đối với người thực hiện TGPL: Luật TGPL 2017 đã bổ sung tiêu chuẩn đối với người thực hiện TGPL để bảo đảm tính chuyên nghiệp trong việc cung cấp dịch vụ. Người thực hiện TGPL bao gồm: Trợ giúp viên pháp lý; Luật sư; Tư vấn viên pháp luật; Cộng tác viên TGPL.
+ Trợ giúp viên pháp lý: Là người thực hiện TGPL do Nhà nước tuyển dụng, do Nhà nước trả lương và quản lý; do Chủ tịch UBND cấp tỉnh bổ nhiệm và có 05 tiêu chuẩn sau đây: Có phẩm chất đạo đức tốt; có trình độ cử nhân luật trở lên; đã được đào tạo nghề luật sư (12 tháng) hoặc được miễn đào tạo nghề luật sư; đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự TGPL (12 tháng); kiểm tra và đạt kết quả tập sự; không đang trong thời gian bị xử lý kỷ luật.
+ Luật sư thực hiện TGPL: (1) Đáp ứng yêu cầu theo pháp luật về luật sư như: đã tốt nghiệp lớp đào tạo luật sư, tập sự hành nghề luật sư, đăng ký tại đoàn luật sư địa phương …; (2) phải đáp ứng các điều kiện theo Luật TGPL như: không đang trong thời gian thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, ….; (3) Phải được Trung tâm TGPL lựa chọn, ký hợp đồng thực hiện TGPL
+ Tư vấn viên pháp luật: Có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại các tổ chức tham gia TGPL (các tổ chức đáp ứng được các điều kiện tối thiểu theo quy định của Luật TGPL năm 2017).
+ Cộng tác viên TGPL: chỉ có ở một số vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; chỉ một số đối tượng có thể trở thành CTVTGPL, ví dụ: thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, TGVPL…. đã về hưu.
- Yêu cầu đối với tổ chức thực hiện TGPL, bao gồm Trung tâm TGPL nhà nước, tổ chức tham gia TGPL. Trung tâm TGPL nhà nước: Phải do UBND cấp tỉnh thành lập, có tư cách pháp nhân, con dấu, trụ sở và tài khoản riêng. Tổ chức tham gia TGPL bao gồm tổ chức đăng ký tham gia TGPL và tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL. Tổ chức đăng ký hay tổ chức ký hợp đồng đều phải đáp ứng các yêu cầu tối thiểu được quy định trong Luật. Riêng, tổ chức ký hợp đồng TGPL còn phải được Sở Tư pháp lựa chọn, ký hợp đồng trên cơ sở đánh giá yêu cầu công tác TGPL tại địa phương.
- Yêu cầu trong quá trình thực hiện TGPL từ tiếp người được TGPL đến kết thúc vụ việc. Tiếp người được TGPL: Tổ chức thực hiện TGPL có trách nhiệm bố trí địa điểm thuận lợi cho người được TGPL tiếp cận và trình bày yêu cầu TGPL. Trong trường hợp nội dung vụ việc cần được giữ bí mật thì được bố trí địa điểm phù hợp. Một số trường hợp Luật và văn bản hướng dẫn thi hành đã cho phép việc thụ lý ngay cả khi chưa có đầy đủ hồ sơ yêu cầu TGPL để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho người được TGPL như sắp hết thời hiệu khởi kiện, sắp đến ngày xét xử,... Khi thực hiện TGPL, yêu cầu người thực hiện TGPL cần bám sát yêu cầu TGPL, tuân thủ các nguyên tắc hoạt động và sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của người được TGPL và người thực hiện TGPL được bảo đảm thực hiện TGPL độc lập, không bị đe dọa, cản trở, sách nhiễu hoặc can thiệp trái pháp luật là môt trong những nguyên tắc hoạt động TGPL; quy định trách nhiệm phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL tham gia tố tụng theo quy định pháp luật tố tụng và việc tổ chức lấy ý kiến của người được TGPL hoặc người thân thích về thái độ, trách nhiệm, chuyên môn của người thực hiện TGPL và mức độ hài lòng vụ việc TGPL.
- Yêu cầu trong quản lý hồ sơ vụ việc TGPL: Hồ sơ vụ việc TGPL theo từng hình thức TGPL được quy định cụ thể, chi tiết; hồ sơ điện tử của từng vụ việc được số hóa, cập nhật vào hệ thống quản lý vụ việc TGPL và lưu trữ tại cơ sở dữ liệu về TGPL. Qua hồ sơ vụ việc có thể nắm bắt được quá trình thực hiện và chất lượng của vụ việc TGPL.
- Yêu cầu trong quản lý chất lượng vụ việc TGPL: Về thẩm định vụ việc TGPL quy định đây là trách nhiệm của tổ chức thực hiện TGPL. Về đánh giá chất lượng vụ việc TGPL, giao cho cơ quan độc lập với tổ chức thực hiện TGPL, đó là cơ quan quản lý TGPL, bao gồm: Cục TGPL thuộc Bộ Tư pháp; Sở Tư pháp thuộc UBND cấp tỉnh. Đối với vụ việc phức tạp, có thể mời luật sư, TGVPL, chuyên gia pháp luật tham gia.
Các tiêu chí đánh giá chất lượng vụ việc TGPL bao gồm: (1) Tiêu chí về trách nhiệm nghề nghiệp của người thực hiện TGPL bao gồm sự tuân thủ pháp luật; giải thích, hướng dẫn, cung cấp thông tin kịp thời cho người được TGPL; bảo đảm thời gian, tiến độ thực hiện vụ việc; (2) Tiêu chí về việc thực hiện TGPL bao gồm sự phù hợp với yêu cầu TGPL và phạm vi được phân công; việc thu thập chứng cứ, tài liệu; nghiên cứu và áp dụng các quy định pháp luật; hồ sơ thể hiện đầy đủ quá trình thực hiện; (3) Tiêu chí về sự hài lòng của người được TGPL.
Tuy nhiên, những quy định của Luật và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành mới chỉ mang tính nguyên tắc, một số quy định cụ thể tạo cơ sở pháp lý cho việc tập trung vào chất lượng vụ việc TGPL, kiểm soát đầu vào từ chất lượng người cung cấp dịch vụ nhưng hầu hết các quy định chưa trực tiếp vào vấn đề chất lượng vụ việc, đặc biệt là kiểm soát quá trình thực hiện và chất lượng đầu ra của vụ việc.
c) Tình hình thực tiễn về chất lượng trợ giúp pháp lý
- Giai đoạn từ khi có Luật TGPL năm 2006 đến năm 2017 (trước khi có Luật TGPL số 11/2007/QH14): Theo Tờ trình số 335/TTr-CP ngày 23//2016 của Chính phủ về Dự án Luật TGPL (sửa đổi), trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành TGPL năm 2006 đã nhận định:“Chất lượng vụ việc TGPL nhiều lúc còn chưa được bảo đảm, chưa chuyên nghiệp. Chất lượng dịch vụ TGPL chưa được xã hội đánh giá cao, chưa ngang bằng với dịch vụ pháp lý có thu phí do luật sư cung cấp. Chất lượng một số vụ việc tham gia tố tụng còn yếu, chưa có nhiều vụ việc TGPL được thực hiện từ giai đoạn điều tra hình sự, vụ việc TGPL tố tụng dân sự, tố tụng hành chính còn khá hạn chế. Cơ chế quản lý chất lượng, việc kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL chưa được chú trọng, mang tính hình thức nên hiệu quả chưa cao”.
+ Giai đoạn từ 01/01/2018 đến nay: (Từ khi Luật TGPL năm 2017 có hiệu lực đến nay): Luật TGPL năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, do đó, đến nay chưa các công việc triển khai mới đang ở bước đầu, do đó chưa có đầy đủ số liệu, báo cáo của các địa phương về kết quả đạt được cũng như khó khăn, vướng mắc, trong đó có chất lượng hoạt động TGPL. Do đó, xin điểm qua một số kết quả bước đầu đạt được như sau: Vụ việc TGPL đi vào thực chất, đúng bản chất vốn có của nó là các yêu cầu liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, đặc biệt là các vụ việc tham gia tố tụng. Theo số liệu thống kê của 63 Trung tâm TGPL nhà nước trong năm 2018, các Trung tâm TGPL nhà nước đã thực hiện 58.949 vụ việc TGPL, trong đó có 51.630 vụ việc TGPL kết thúc cho 51.630 lượt người. Số vụ việc tham gia tố tụng là 18.358 vụ việc (tăng 12,7 % so với năm 2017). Một số địa phương vụ việc tham gia tố tụng tăng đột biến mạnh so với cùng kỳ năm 2017 như: Bắc Ninh (năm 2017: 35 vụ, năm 2018: 170 vụ, tăng 387%); Hưng Yên (năm 2017: 92 vụ, năm 2018: 285, tăng 209%); Ninh Bình (năm 2017: 30 vụ, năm 2018: 212 vụ, tăng 272%); Hải Dương (năm 2017: 164 vụ, năm 2018: 280 vụ, tăng 71%); Bắc Giang (năm 2017: 126 vụ, năm 2018: 214 vụ, tăng 70%), Cao Bằng (năm 2017: 143 vụ, năm 2018: 222 vụ, tăng 55%). Thực hiện chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng cho Trợ giúp viên pháp lý năm 2018 theo Công văn số 104/BTP-TGPL ngày 10/01/2018, các địa phương triển khai việc thực hiện chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng cho các Trợ giúp viên pháp lý. Năm 2018, có 653 Trợ giúp viên pháp lý được đánh giá chỉ tiêu, trong đó: 544 Trợ giúp viên pháp lý đạt chỉ tiêu trở lên, tương đương 83,3%, tăng 5,7% so với năm 2017 (tốt chiếm 36,1%; khá chiếm 14,2%; đạt chiếm 32,9%).
Tuy nhiên, do mới triển khai được một thời gian ngắn, do đó chất lượng hoạt động TGPL chưa có nhiều chuyển biến so với giai đoạn trước như: chất lượng vụ việc TGPL chưa được nâng cao, việc quản lý, đánh giá chất lượng vụ việc cũng đôi khi mang tính hình thức; nhận thức của một số cá biệt lãnh đạo Sở Tư pháp, cơ quan tiến hành tố tụng, lãnh đạo và người thực hiện TGPL của Trung tâm về vị trí, vai trò của hoạt động TGPL chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới; việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý chất lượng hoạt động TGPL đang ở giai đoạn bước đầu, công tác truyền thông về TGPL chưa đạt được hiệu quả cao, nguồn lực (con người và tài chính) chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu TGPL ngày càng cao của xã hội, một số địa phương vẫn để bỏ lọt đối tượng được TGPL; số lượng vụ án mà người được TGPL được trợ giúp so với vụ án được xét xử và đối tượng được TGPL ở địa phương còn hạn chế...
3. Một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý
Nhằm thực hiện các nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển TGPL trong lộ trình cải cách tư pháp, bối cảnh đổi mới dịch vụ công trong những năm tới thì việc nghiên cứu các giải pháp nâng cao chất lượng TGPL là một yêu cầu cấp thiết nhằm triển khai các quy định theo Luật TGPL và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Tại khoản 2 và khoản 3 Điều 4 Luật TGPL cũng đã ghi nhận: “TGPL là trách nhiệm của Nhà nước”, “Nhà nước có chính sách nâng cao chất lượng TGPL”; điểm e khoản 2 Điều 40 Luật TGPL giao Bộ Tư pháp “tổ chức việc thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL”. Việc đề xuất, triển khai các nhiệm vụ, giải pháp phải đặt trong bối cảnh yêu cầu nâng cao chất lượng dịch vụ công của Đảng, triển khai Hiến pháp, Bộ luật, luật về tố tụng và Luật TGPL, đặc biệt phải lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL làm trung tâm:
- Nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt của các cơ quan, người tiến hành tố tụng về công tác TGPL, vị trí và vai trò của nó đối với người dân, nhất là người yếu thế trong xã hội. Nâng cao vị thế của các cơ quan quản lý nhà nước về TGPL, đặc biệt là Sở Tư pháp tại địa phương.
- Đề xuất hoàn thiện thể chế, chính sách, cơ chế quản lý và tổ chức cung ứng phù hợp với đặc điểm, tính chất của từng loại hình dịch vụ công, trong đó tính đến đặc thù đối với những dịch vụ là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước cần quan tâm đầu tư thích đáng về cơ sở vật chất, kinh phí cho hoạt động TGPL, trong đó chú ý đến yếu tố đặc biệt của hoạt động TGPL: TGPL là trách nhiệm của Nhà nước, đây là hoạt động hoàn toàn không có thu, người được TGPL hoàn toàn được miễn phí.
- Tiếp tục nghiên cứu các cơ chế góp phần nâng cao chất lượng hoạt động TGPL về kinh phí, về chế độ, chính sách cho người thực hiện TGPL,...; tiếp tục nghiên cứu và đổi mới để tăng cường sự tham gia của các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật có chất lượng, uy tín vào hoạt động TGPL thông qua nhiều hình thức đa dạng, phát huy tốt mọi nguồn lực của xã hội cho hoạt động TGPL. Qua đó, tăng sự cạnh tranh giữa tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL của Nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong xã hội tham gia thực hiện TGPL.
- Có giải pháp để tăng cường số lượng vụ việc TGPL có chất lượng, nhất là các vụ việc tham gia tố tụng, tránh tình trạng bỏ sót vụ việc TGPL mà người được TGPL có nhu cầu (ví dụ nghiên cứu cơ chế thí điểm người thực hiện TGPL trực tại các cơ quan tiến hành tố tụng để tiếp người được TGPL).
- Mặc dù trong bối cảnh thực hiện tinh giản biên chế, xã hội hóa mạnh mẽ dịch vụ công nói chung, tuy nhiên Nhà nước cần tính đến yếu tố con người ở các tỉnh miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn để bảo đảm người được TGPL có nhu cầu thì sẽ có người thực hiện cung ứng dịch vụ, do đó, cần tăng cường số lượng người thực hiện TGPL ở những nơi này;
- Nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng của người thực hiện TGPL thông qua nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn đa dạng, phong phú, đặc biệt chú trọng đến kỹ năng làm việc với nhóm người yếu thế trong xã hội như người khuyết tật, trẻ em… trong tiếp cận vụ việc bảo đảm chất lượng, hiệu quả.
- Tăng cường mối quan hệ phối hợp với các cơ quan, tổ chức, đoàn thể để triển khai hiệu quả Luật TGPL và các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết Luật TGPL, nhất là các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc phối hợp TGPL trong hoạt động TGPL. Tăng cường vai trò của Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL ở trung ương và địa phương trong việc triển khai các quy định về phối hợp TGPL trong tố tụng; đặc biệt trong việc nâng cao nhận thức và cơ chế phối hợp trong việc giải thích quyền TGPL, chuyển, gửi vụ việc TGPL của cơ quan, người tiến hành tố tụng.
- Tăng cường vai trò chỉ đạo, quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về TGPL, nhất là trong triển khai, theo dõi việc thực hiện pháp luật về TGPL. Nhà nước quản lý tổ chức và hoạt động TGPL sát sao, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, đánh giá chất lượng TGPL đối với các tổ chức, cá nhân thực hiện TGPL trong toàn quốc. Đặc biệt, vai trò của Sở Tư pháp đối với công tác TGPL tại địa phương cần được phát huy tối đa hơn nữa. Đồng thời, tăng cường sự phối hợp,kết nối giữa Bộ Tư pháp và Sở tư pháp với tư cách là cơ quan tham mưu cho cơ quan quản lý nhà nước về TGPL ở Trung ương và địa phương trong việc quản lý nhà nước về chất lượng TGPL.
- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về TGPL theo hướng bảo đảm minh bạch, công khai và đơn giản hóa tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham gia TGPL và người dân tiếp cận dịch vụ TGPL, đặc biệt là ứng dụng điện tử trong việc cung ứng dịch vụ công trực tuyến, hướng đến Chính phủ điện tử.Trong bối cảnh đang xây dựng Chính phủ điện tử, chúng ta cũng cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong hoạt động TGPL nói chung và trong quản lý TGPL nói riêng, nhất là trong việc giám sát, đánh giá chất lượng và hiệu quả TGPL.
- Tổ chức việc thẩm định, đánh giá chất lượng TGPL theo quy định tại Thông tư số 12/2018/TT-BTP, có thể phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ chức nghề nghiệp, xã hội nghề nghiệp có chức năng quản lý các tổ chức và người thực hiện TGPL khác để cùng tham gia việc đánh giá chất lượng, đặc biệt, chú ý đến sự hài lòng của người sử dụng dịch vụ. Thực hiện việc đánh giá chất lượng vụ việc và giám sát việc đánh giá chất lượng vụ việc theo đúng quy định, qua đó nắm bắt kịp thời thực trạng chất lượng vụ việc TGPL để có những giải pháp bảo đảm chất lượng vụ việc.
- Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện hoạt động TGPL; khen thưởng, xử lý vi phạm trong hoạt động TGPL. Tăng cường sự kết nối giữa Trung ương - địa phương; cơ quan quản lý nhà nước - tổ chức thực hiện TGPL, đặc biệt, chú trọng đến sự tham gia và chất lượng dịch vụ do các tổ chức tham gia TGPL cung cấp. Đổi mới công tác quản lý, tăng cường kiểm tra hoạt động TGPL của Bộ Tư pháp (Cục TGPL) và Sở tư pháp đối với các tổ chức thực hiện TGPL thông qua công tác kiểm tra định kỳ và đột xuất./.
-CT-