1. Đặt vấn đề
Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (ĐVCSCNBB) là một trong bốn biện pháp xử lý hành chính (BPXLHC)
[1] được quy định tại Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (Luật XLVPHC). Đây là biện pháp do Tòa án nhân dân (TAND) cấp huyện xem xét, quyết định áp dụng đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn (GDTXPTT) mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định nhằm mục đích cách ly người nghiện ma túy khỏi cộng động, buộc họ chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề tại cơ sở cai nghiện bắt buộc (CSCNBB)
[2].
Tính đến nay, BPXLHC ĐVCSCNBB đã được triển khai thực hiện hơn 05 năm trên phạm vi toàn quốc
[3]. Việc triển khai quy định của Luật XLVPHC về áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB mang lại nhiều ý nghĩa trên thực tế: Cải thiện tình hình sức khỏe cho người nghiện ma túy; ngăn chặn sự gia tăng của tệ nạn ma túy; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; góp phần kiềm chế gia tăng người nghiện mới và tạo điều kiện cho người nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng
[4].
Bên cạnh kết quả đạt được nêu trên, việc triển khai áp dụng biện pháp này trên thực tế còn gặp rất nhiều vướng mắc, bất cập. Bài viết tập trung đề cập một số khó khăn, vướng mắc chủ yếu phát sinh từ các quy định pháp luật trong trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB được thực hiện tại các cơ quan hành chính theo quy định của Luật XLVPHC cũng như các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật này và đề xuất giải pháp tháo gỡ
[5].
2. Vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật về trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB
Trình tự, thủ tục lập hồ sơ người nghiện ma túy để chuyển sang TAND cấp huyện xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB theo quy định của pháp luật hiện hành quá phức tạp. Đối tượng người nghiện ma túy có thể bị áp dụng cùng lúc 02 biện pháp: Một là, BPXLHC GDTXPTT và hai là, biện pháp cai nghiện, điều trị nghiện tại cộng đồng (cai nghiện tự nguyện tại gia đình hoặc cộng đồng hoặc tham gia chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế) theo quy định tại điểm g khoản 5 Điều 18 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 56/2016/NĐ-CP ngày 29/6/2016)
[6] trước khi bị áp dụng biện pháp ĐVCSCNBB (đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định).
Bên cạnh đó, khó khăn, vướng mắc trong trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB còn bắt nguồn từ các quy định về việc chuyển hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp ĐVCSCNBB giữa các cơ quan liên quan (có quá nhiều các cơ quan tham gia vào quá trình lập hồ sơ đề nghị áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB).
2.1. Quy định về việc áp dụng BPXLHC GDTXPTT (biện pháp tiền đề) trước khi áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB
Theo quy định tại khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC thì “
đối tượng áp dụng biện pháp ĐVCSCNBB là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp GDTXPTT mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định”. Qua triển khai thực hiện cho thấy quy định nêu trên còn tồn tại bất cập, việc áp dụng BPXLHC GDTXPTT với tính chất và mục đích là giáo dục, quản lý người vi phạm pháp luật nhưng lại áp dụng với người nghiện ma túy (người có vấn đề về rối loạn chức năng não bộ, người bị lệ thuộc vào chất gây nghiện). Do đó, trên thực tế, BPXLHC GDTXPTT chỉ là biện pháp “đầu vào” cho các BPXLHC khác, trong đó có biện pháp ĐVCSCNBB.
2.2. Quy định về việc áp dụng đồng thời biện pháp điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế trong quá trình bị áp dụng BPXLHC GDTXPTT
Theo quy định tại khoản 5 Điều 18 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 56/2016/NĐ-CP) thì người bị áp dụng BPXLHC GDTXPTT nếu nghiện ma túy phải lựa chọn hình thức cai nghiện tự nguyện tại gia đình hoặc cộng đồng hoặc tham gia chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế theo quy định của pháp luật trong thời gian chấp hành BPXLHC GDTXPTT. Tuy nhiên, hiện tại, có sự chênh lệch về thời gian chấp hành biện pháp điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế và thời gian chấp hành BPXLHC GDTXPTT. Cụ thể như sau:
- Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 10 Nghị định số 90/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế thì người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện sẽ bị chấm dứt điều trị khi “
có xét nghiệm dương tính với các chất dạng thuốc phiện liên tiếp từ 02 lần trở lên (trừ thuốc điều trị thay thế) trong vòng 12 tháng sau khi đã đạt liều điều trị duy trì”.
- Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP thì “
Thời hạn áp dụng biện pháp GDTXPTT từ 03 tháng đến 06 tháng, tùy theo tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng của người vi phạm”.
Như vậy, thời gian điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế theo quy định của Nghị định số 90/2016/NĐ-CP là 12 tháng. Thời gian này dài hơn thời gian chấp hành BPXLHC GDTXPTT theo quy định của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP là từ 03 đến 06 tháng.
Sự chênh lệch về thời gian chấp hành biện pháp điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế và thời gian chấp hành BPXLHC GDTXPTT hiện đang là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ, ùn tắc trong việc đưa người nghiện ma túy vào CSCNBB trong thời gian vừa qua, bởi vì hiện nay, các quy định về việc áp dụng biện pháp ĐVCSCNBB đối với người đã chấp hành xong BPXLHC GDTXPTT nhưng chưa chấp hành xong biện pháp điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế đang không có sự thống nhất, người có thẩm quyền không biết phải áp dụng quy định nào, quan điểm giữa các cơ quan (Công an, Tư pháp, Lap động – Thương binh và Xã hội, TAND) tại một số địa phương cũng khác nhau, cụ thể là:
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 của Nghị định số 90/2016/NĐ-CP thì “
không lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp ĐVCSCNBB đối với người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện”. Nếu theo quy định này thì đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định, đang trong thời gian tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế sẽ không bị áp dụng biện pháp ĐVCSCNBB (mặc dù có thể họ đã chấp hành xong BPXLHC GDTXPTT).
- Theo quy định tại Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016)
[7] và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017) thì BPXLHC ĐVCSCNBB vẫn được áp dụng đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên đang tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, nếu người đó đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC (đã bị áp dụng biện pháp GDTXPTT mà vẫn còn nghiện)
[8].
Tại một số địa phương, các cơ quan hành chính (Công an, Tư pháp, Lao động – Thương binh và Xã hội) căn cứ quy định tại Nghị định số 221/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 136/2016/NĐ-CP) và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) để lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp ĐVCSCNBB đối với đối tượng đang tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế khi họ đã chấp hành xong biện pháp GDTXPTT mà vẫn còn nghiện. Tuy nhiên, khi chuyển hồ sơ sang TAND cấp huyện đề nghị xem xét, quyết định áp dụng biện pháp ĐVCSCNBB thì bị Tòa án trả lại hồ sơ với lý do: Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 của Nghị định số 90/2016/NĐ-CP thì không được lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp ĐVCSCNBB đối với người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện.
Trước mắt, để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc áp dụng biện pháp ĐVCSCNBB đối với đối tượng đang tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, người viết cho rằng, cần căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 156 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xác định văn bản áp dụng: “
Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau”. Theo đó, người có thẩm quyền phải nghiên cứu, áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 16 Nghị định số 81/2016/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP), vì Nghị định số 97/2017/NĐ-CP được ban hành ngày 18/8/2017, là văn bản được ban hành sau Nghị định số 90/2016/NĐ-CP (được ban hành ngày 01/7/2016).
2.3. Quy định về việc chuyển hồ sơ giữa các cơ quan
Theo quy định tại Điều 103 Luật XLVPHC và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật thì việc lập hồ sơ đối với biện pháp ĐVCSCNBB do Chủ tịch UBND cấp xã thực hiện (Công an cấp xã giúp Chủ tịch UBND cùng cấp thu thập tài liệu và lập hồ sơ), trừ trường hợp người nghiện ma túy vi phạm do cơ quan Công an cấp huyện hoặc cơ quan Công an cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ vi phạm pháp luật mà thuộc đối tượng ĐVCSCNBB theo quy định tại Điều 96 của Luật XLVPHC thì cơ quan Công an đang thụ lý vụ việc tiến hành xác minh, thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp ĐVCSCNBB đối với người đó. Sau đó, hồ sơ được gửi cho Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện để kiểm tra tính pháp lý. Sau khi kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ, Trưởng phòng Tư pháp gửi hồ sơ cho Trưởng phòng Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cùng cấp để Trưởng phòng Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội xem xét, quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị TAND cấp huyện áp dụng BPXLHC.
Đây là một điểm mới của Luật XLVPHC so với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính trước đây, bảo đảm tính công khai, minh bạch, dân chủ trong quá trình xem xét, áp dụng BPXLHC. Tuy nhiên, qua thực tế triển khai thấy rằng, việc xem xét, áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB hiện nay phải trải qua rất nhiều bước, hồ sơ phải chuyển qua nhiều cơ quan, nhiều tầng nấc khác nhau trước khi chuyển sang TAND cấp huyện để xem xét, quyết định áp dụng. Trong khi đó, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhiều khi chưa bảo đảm hiệu quả, quan điểm của các cơ quan liên quan đối với một số vấn đề không thống nhất, hồ sơ chuyển sang các cơ quan bị trả đi trả lại nhiều lần (thậm chí có trường hợp để quá thời hiệu xử lý), dẫn đến tình trạng ách tắc, kéo dài thời gian áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB.
Ngoài ra, liên quan đến thẩm quyền của Trưởng phòng Tư pháp trong việc kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB, một khó khăn, vướng mắc hiện nay cũng cần sớm được giải quyết, đó là việc Trưởng phòng Tư pháp có phải kiểm tra lại tính pháp lý của hồ sơ sau khi cơ quan lập hồ sơ ban đầu đã hoàn thiện lại hồ sơ theo yêu cầu của Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội? Bởi vì, theo quy định tại Điều 104 Luật XLVPHC thì sau khi nhận được hồ sơ từ Trưởng phòng Tư pháp chuyển đến theo quy định tại Điều 103 của Luật này, Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện xem xét, quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị TAND cấp huyện áp dụng biện pháp ĐVCSCNBB; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì giao cơ quan đã lập hồ sơ để tiếp tục thu thập tài liệu bổ sung hồ sơ. Luật XLVPHC và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật không có quy định cụ thể về việc Trưởng phòng Tư pháp phải kiểm tra lại tính pháp lý của hồ sơ trong trường hợp này. Do vậy, trên thực tế, các cơ quan chức năng rất lúng túng khi xử lý trường hợp này. Có ý kiến cho rằng, quy định của Luật XLVPHC hiện hành còn có sự trùng lắp nhiệm vụ giữa các cơ quan chức năng và chưa thực sự đề cao vai trò của việc kiểm tra tính pháp lý. Bởi vì, theo thẩm quyền, Trưởng phòng Tư pháp đã thực hiện việc kiểm tra tính pháp lý, trong đó có thể kết luận hồ sơ đã đầy đủ tính pháp lý nhưng hồ sơ đó vẫn có thể bị Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội kết luận là “
hồ sơ chưa đầy đủ” và trả lại “
cơ quan đã lập hồ sơ để tiếp tục thu thập tài liệu bổ sung hồ sơ”. Nhiệm vụ của Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội theo quy định tại Điều 104 Luật XLVPHC đơn thuần chỉ là xem xét lại một lần nữa một trong những công việc mà Trưởng phòng Tư pháp đã thực hiện: Kiểm tra xem hồ sơ đã đầy đủ chưa, nếu đầy đủ thì chuyển TAND, nếu chưa đầy đủ thì trả lại cơ quan đã lập hồ sơ để tiếp tục thu thập tài liệu bổ sung hồ sơ.
3. Một số đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật
3.1. Đối với quy định về việc áp dụng BPXLHC GDTXPTT (biện pháp tiền đề) trước khi áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB và quy định về việc áp dụng đồng thời biện pháp điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế trong quá trình bị áp dụng BPXLHC GDTXPTT
Về lâu dài, chúng tôi cho rằng, cần nghiên cứu, sửa đổi quy định tại khoản 4 Điều 90 và khoản 1 Điều 96 của Luật XLVPHC liên quan đến đối tượng bị áp dụng BPXLHC GDTXPTT và đối tượng, điều kiện áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB để tháo gỡ triệt để khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc áp dụng biện pháp “tiền đề” – GDTXPTT cũng như việc áp dụng biện pháp ĐVCSCNBB đối với người đã chấp hành xong BPXLHC GDTXPTT nhưng chưa chấp hành xong biện pháp điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế. Theo đó, để giải quyết triệt để khó khăn, vướng mắc nêu trên, nhằm rút ngắn thời gian lập hồ sơ đề nghị, xem xét, quyết định áp dụng biện pháp ĐVCSCNBB, người viết cho rằng, Chính phủ cần báo cáo Quốc hội xem xét, sửa đổi quy định về đối tượng, điều kiện áp dụng biện pháp ĐVCSCNBB tại khoản 1 Điều 96 của Luật XLVPHC theo hướng không quy định đối tượng phải trải qua biện pháp “tiền đề” - GDTXPTT; đồng thời, sửa đổi quy định về đối tượng áp dụng biện pháp GDTXPTT tại khoản 4 Điều 90 của Luật XLVPHC theo hướng loại trừ việc áp dụng biện pháp này đối với người nghiện ma túy do không thật sự phù hợp và không hiệu quả.
3.2. Quy định về việc chuyển hồ sơ giữa các cơ quan
Để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc phối hợp, chuyển hồ sơ giữa các cơ quan trong trình tự, thủ tục áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB, đề nghị Chính phủ theo thẩm quyền hoặc báo cáo Quốc hội xem xét, sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn tối đa các mốc thời gian thực hiện các công việc liên quan đến trình tự, thủ tục áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp này trên thực tế.
Đối với quy định tại Điều 103 và 104 Luật XLVPHC, đề nghị Chính phủ báo cáo Quốc hội xem xét, sửa đổi theo hướng: Quy định kiểm tra tính pháp lý là “khâu” cuối cùng, trước khi chuyển hồ sơ đề nghị TAND cấp huyện áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB. Bởi vì, quy định hiện nay (như đã phân tích ở trên) chưa đặt Trưởng phòng Tư pháp vào đúng vị trí, vai trò người “gác gôn” cuối cùng về mặt pháp lý đối với hồ sơ đề nghị áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB trước khi chuyển TAND cấp huyện xem xét, quyết định áp dụng. Hơn nữa, việc nhiều cơ quan cùng xem xét và có ý kiến đối với hồ sơ đề nghị dẫn đến kéo dài thời gian lập hồ sơ trước khi chuyển TAND cấp huyện xem xét, quyết định việc áp dụng BPXLHC.
Trước mắt, nhằm nâng cao hiệu quả công tác phối hợp, tránh trường hợp hồ sơ gửi qua các cơ quan chức năng bị trả đi, trả lại nhiều lần trong quá trình lập hồ sơ đề nghị TAND xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB, người viết cho rằng, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần sớm chỉ đạo các cơ quan có liên quan xây dựng và trình ký ban hành quy chế phối hợp lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma túy trên địa bàn địa phương (dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật) để xác định rõ trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có liên quan (Công an, Tư pháp, Lao động - Thương binh và Xã hội) trong việc lập hồ sơ đề nghị, kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB.
Có thể nói, so với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính trước đây, trình tự, thủ tục áp dụng các BPXLHC nói chung và BPXLHC ĐVCSCNBB đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng vi phạm. Tuy vậy, việc thực thi pháp luật về áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy. Tiếp tục đẩy mạnh triển khai thi hành, đồng thời, nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật XLVPHC, các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật về trình tự, thủ tục áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB là nhiệm vụ cần tiếp tục được thực hiện trong thời gian sắp tới. Để thực hiện tốt công tác này thì việc rà soát các quy định pháp luật, nhận diện đúng những vấn đề khó khăn, vướng mắc đặt ra trong quá trình thực thi là công việc cần thiết, phải được tiến hành thường xuyên, liên tục để từ đó kịp thời đề ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB trong tình hình hiện nay./.
Nguyễn Hoàng Việt - Cục QLXLVPHC&TDTHPL
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
- Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008).
- Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính.
- Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính.
- Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
- Nghị định số 56/2016/NĐ-CP ngày 29/6/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
- Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Nghị định số 90/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
- Đặng Thanh Sơn (chủ biên), Tìm hiểu pháp luật về các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, Cục Xuất bản, in và phát hành, 2017.
[1] Ba biện pháp xử lý hành chính còn lại là: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng và đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc.
[2] Xem Điều 95, Điều 96 Luật XLVPHC.
[3] Theo khoản 1 Điều 141 Luật XLVPHC thì các quy định liên quan đến việc áp dụng các BPXLHC do TAND xem xét, quyết định (trong đó có biện pháp ĐVCSCNBB) có hiệu lực từ ngày 01/01/2014.
[4] Tr. 354, sách
“Tìm hiểu pháp luật về các biện pháp xử lý vi phạm hành chính”, ThS. Đặng Thanh Sơn (Chủ biên), Cục Xuất bản, in và phát hành, 2017.
[5] Bài viết không đề cập những khó khăn, vướng mắc về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC ĐVCSCNBB tại TAND theo quy định tại Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các BPXLHC tại TAND số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[6] Điểm g khoản 5 Điều 18 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 56/2016/NĐ-CP) quy định: “
Tùy vào thực tiễn của địa phương, người nghiện ma túy phải lựa chọn hình thức cai nghiện tự nguyện tại gia đình hoặc cộng đồng hoặc tham gia chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế theo quy định của pháp luật. Người nghiện ma túy phải cam kết về việc tự nguyện cai nghiện, điều trị nghiện”.
[7] Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 136/2016/NĐ-CP đã bãi bỏ quy định tại Điều 5 Nghị định số 221/2016/NĐ-CP liên quan đến việc không áp dụng biện pháp đưa vào CSCNBB đối với người đang tham gia các chương trình cai nghiện, điều trị nghiện tại cộng đồng.
[8] Xem khoản 3 Điều 16 Nghị định số 81/2016/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP).