Tại Trung Quốc, việc thi hành án dân sự và kinh tế do các đơn vị thi hành án của toà án tiến hành. Toà án cũng chịu trách nhiệm cưỡng chế thi hành các phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, tỷ lệ cưỡng chế thi hành các bản án và phán quyết trọng tài hiện còn thấp và đây được coi là một khó khăn mà các tòa án nhân dân hiện đang gặp phải. Trong các vụ án dân sự, tỷ lệ tự nguyện thi hành các bản án và phán quyết trọng tài của toà án rất thấp. Vì vậy, bộ phận thi hành án của toà án cần phải tiến hành thủ tục cưỡng chế thi hành. Một số ước tính cho biết tỷ lệ các vụ án không được thi hành khá cao, đến 50%, trong khi một số nguồn khác còn đưa ra con số cao hơn. Ngoài việc án có thể không được thi hành thì còn có vấn đề chậm thi hành hay chỉ thi hành được một phần giá trị phải thi hành án. Một trong những nội dung chính của chương trình cải cách tư pháp 5 năm là nâng cao năng lực của toà án nhân dân trong việc thi hành bản án. Chương trình cải cách đầu tiên đã được bắt đầu thực hiện từ năm 1999. Một trong những nỗ lực của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) trong việc tăng cường công tác thi hành án là việc ban hành các văn bản đặc biệt về thi hành án. Văn bản mới nhất là Luật tố tụng dân sự(TTDS)sửa đổi năm 2007 và văn bản của TANDTC Giải thích một số quy định trong việc áp dụng thủ tục thi hành án theo Luật TTDS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 2008.
Các loại thi hành án bao gồm: Thứ nhất thi hành án dân sự: Đại đa số các vụ việc được cơ quan thi hành án thi hành là các vụ án dân sự, trung bình chiếm 81,2% tổng số vụ việc thi hành án. Việc thi hành các bản án dân sự và bản án của Toà án hàng hải được điều chỉnh bởi Luật Tố tụng dân sự 1991, được sửa đổi năm 2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Toà án có thẩm quyền thi hành án các bản án hoặc quyết định dân sự hay phần có liên quan đến tài sản trong bản án hình sự là tòa án nơi có tài sản hoặc nơi người phải thi hành án cư trú. Khi nộp đơn yêu cầu thi hành án, người nộp đơn phải cung cấp bằng chứng về sự tồn tại của tài sản cần thi hành án. Điều 2 của Quy tắc của TANDTC về một số vấn đề trong công tác thi hành án của Toà án nhân dân năm 2000 đã đưa ra định nghĩa về các tài liệu có thể được thi hành bao gồm: quyết định và bản án hành chính và dân sự, thoả thuận hòa giải thành, quyết định về chế tài dân sự; lệnh thanh toán tiền; bản án, lệnh và thoả thuận hòa giải về các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự do toà án tiến hành; quyết định của toà án nhân dân về việc áp dụng các chế tài hành chính; phán quyết trọng tài và thoả thuận hòa giải của cơ quan trọng tài; quyết định của toà án về việc bảo quản tài sản và chứng cứ theo Luật Trọng tài của nước CHND Trung Hoa; các tài liệu được công chứng về nợ và thu hồi tài sản thuộc loại được cưỡng chế thi hành; các bản án của toà án và cơ quan trọng tài nước ngoài được toà án nhân dân công nhận và các văn bản pháp lý khác có thể được thi hành theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp tài sản nằm ngoài lãnh thổ tài phán của toà án có thẩm quyền thi hành án thì tòa án đó có thể ủy thác cho tòa án nơi có tài sản thực hiện việc thi hành án. Nếu trong thời hạn 15 ngày kể từ khi nhận được thư uỷ thác mà toà án đó không tiến hành thi hành án thì toà án ủy thác có thể đề nghị toà án cấp trên thực hiện việc thi hành án. Nếu bản án đã thi hành mà bị hủy bỏ do có “sai lầm nghiêm trọng” thì tòa thi hành án sẽ lệnh cho bên đương sự đã nhận tài sản từ việc thi hành án phải trả lại tài sản đó. Thời hiệu bắt đầu thủ tục thi hành án là 02 năm kể từ ngày một bên có quyền thi hành án. Toà án sẽ gửi thông báo yêu cầu thực hiện bản án cho bên phải thi hành án. Nếu trong thời hạn được xác định mà bên phải thi hành án không thi hành án thì toà án sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Nếu trong thời hạn 06 tháng kể từ khi nhận được đơn yêu cầu thi hành án mà toà án không tiến hành thi hành án thì người nộp đơn có thể yêu cầu toà án cấp trên thi hành án. Toà án cấp trên có thể tự mình thi hành án hoặc chỉ đạo toà án cấp dưới phải thi hành án trong một thời hạn nhất định. Việc thi hành án sẽ do cán bộ thi hành án tiến hành. Người phải thi hành án phải cung cấp một bản kê khai tài sản. Nếu người đó không cung cấp thì toà án có quyền điều tra, phong toả và chuyển giao số tiền bị phong toả trong tài khoản vào ngân hàng, tổ chức tín dụng hay một tổ chức nhận tiền gửi khác. Toà án có thể ra quyết định khấu trừ thu nhập để thi hành án, nhưng phải để lại cho người phải thi hành án đủ thu nhập để sinh sống hàng ngày và chu cấp cho người phụ thuộc. Toà án cũng có thể phong toả, kê biên và bán đấu giá một phần hoặc toàn bộ tài sản của người phải thi hành án. Trong trường hợp bên phải thi hành án che giấu tài sản, toà án có thể ra lệnh khám xét hoặc triệu tập đương sự và buộc phải nộp cho toà các giấy tờ có giá hoặc các tài sản khác có thể được chuyển giao bằng giấy tờ. Sau khi gửi thông báo theo quy định, toà án có thể buộc một người rời khỏi nhà hoặc khu đất. Người nào chậm trễ thanh toán tiền hoặc chuyển giao tài sản có thể bị buộc phải trả gấp đôi tiền lãi trên số nợ hoặc bị phạt tiền do chậm thực hiệnthanh toán. Đối với người không chịu chấp hành biện pháp cưỡng chế thì toà án có thể thông báo với các cơ quan hữu quan để hạn chế quyền ra nước ngoài của người đó, nêu thông tin về người đó trong hệ thống tín dụng hoặc công bố việc người đó không chấp hành biện pháp cưỡng chế trên các phương tiện thông tin đại chúng. Toà án có quyền cưỡng chế trong việc triệu tập người phải thi hành án hoặc đại diện của người đó nếu người đó không ra trình diện trước toà sau 02 lần triệu tập. Thời hạn thẩm vấn theo giấy triệu tập không được quá 24 giờ. Đối với những hành vi cản trở thi hành án nghiêm trọng, chẳng hạn như hủy hoại tài sản, dùng vũ lực cản trở việc thi hành án, hoặc dùng vũ lực hay đe dọa đối với toà án hay các bên đương sự khác, toà án có thể phạt tiền (đến 10.000 nhân dân tệ (NDT) đối với cá nhân và từ 10.000 - 300.000 NDT đối với tổ chức), tạm giam người đó đến 15 ngày, hoặc chuyển vụ việc cho cơ quan điều tra khi có dấu hiệu tội phạm. Mặc dù toà án có quyền cưỡng chế như trên, các học giả đã có nhiều tài liệu cho thấy toà án rất miễn cưỡng trong việc sử dụng đầy đủ các quyền này của mình. Toà án cũng có quyền tài phán đối với những quyết định bảo quản tài sản trước khi có phán quyết cuối cùng về tranh chấp dân sự hay phân xử trọng tài. Toà án nước ngoài có thể yêu cầu tương trợ tư pháp đối với việc tống đạt giấy tờ, điều tra và thu thập chứng cứ trên cơ sở có đi có lại, theo các hiệp định song phương hoặc đa phương, chẳng hạn như Công ước La Haye về công nhận và thi hành các bản án dân sự và thương mại, hoặc qua con đường ngoại giao. Việc nộp đơn đề nghị công nhận và thi hành các bản án và quyết định của nước ngoài có thể được tiến hành trên cơ sở có đi có lại. Trung Quốc chưa gia nhập Công ước La Haye, vì vậy việc tương trợ tư pháp và công nhận và thi hành các bản án nước ngoài trong thực tiễn chỉ có thể được tiến hành trên cơ sở các hiệp định song phương.
Thứ hai thi hành án Hình sự: Bộ luật tố tụng hình sự (TTHS) quy định về việc thực thi thẩm quyền của các cơ quan tư pháp trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Cơ quan thi hành án xử lý một số lượng nhỏ các vụ thi hành án hình sự. Năm 2004, số vụ thuộc loại này chiếm 3,4% tổng số vụ thi hành án, thường là khi có hình phạt về tài sản chẳng hạn như phạt tiền. Dân sự và hình sự Người bị thiệt hại về vật chất do một hành vi được cho là tội phạm gây ra có thể nộp yêu cầu đòi bồi thường dân sự trong quá trình tố tụng hình sự. Yêu cầu này sẽ được xem xét cùng với các vấn đề về hình sự trừ khi sự chậm trễ trong quá trình truy tố hình sự sẽ gây ra chậm trễ không cần thiết đối với việc xác định trách nhiệm bồi thường dân sự. Nếu đương sự dân sự trong vụ án hình sự không đồng ý với phán quyết sơ thẩm của toà án, người đó có thể kháng cáo lên toà án cấp cao hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ bị cáo bị kết án hình sự và phải chấp hành hình phạt tù tự nguyện bồi thường dân sự theo quyết định trong bản án hình sự là rất thấp. Những cải cách gần đây theo chính sách hài hòa giữa “xử lý khoan dung và nghiêm khắc” trong quyết định truy tố và thủ tục kết án đối với những tội phạm ít nghiêm trọng đã có ảnh hưởng đến tỷ lệ thi hành án còn thấp này. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) đã ban hành một văn bản để thực hiện chính sách này quy định rằng người phạm các tội ít nghiêm trọng, nếu nhận tội, xin lỗi và đồng ý bồi thường cho nạn nhân sẽ không bị truy tố. Cải cách này vừa giảm nhẹ gánh nặng cho toà án trong việc phải truy tố hình sự và giải quyết vấn đề dân sự đi kèm vừa cho phép người phạm tội tránh được việc bị truy tố đối với những tội phạm ít nghiêm trọng bằng cách đồng ý bồi thường cho nạn nhân.
Hành chính Toà án có quyền tài phán theo Luật Tố tụng hành chính năm 1989 (Luật TTHC) sẽ thụ lý và xét xử khiếu nại về quyết định cá biệt của một cơ quan hành chính là bất hợp pháp. Năm 1987, TANDTC ban hành chỉ thị yêu cầu các tòa án thành lập phân tòa hành chính chuyên trách tại tòa án để xem xét, giải quyết các khiếu nại đối với các quyết định hành chính. Việc thành lập các phân tòa hành chính này được đẩy nhanh sau khi Luật TTHC có hiệu lực vào năm 1990. Đến nay thì hầu như tất cả các tòa án trên toàn quốc đều có phân tòa hành chính. Toà án không có quyền tài phán đối với những khiếu nại về các quyết định và quy tắc hành chính nằm ngoài phạm vi những vấn đề đã được liệt kê trong Luật TTHC. Toà án có thể quyết định giữ nguyên, hủy bỏ toàn bộ hoặc một phần quyết định hành chính, chuyển vụ việc cho cơ quan ra quyết định để ra quyết định mới, yêu cầu cơ quan hành chính thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc, nếu chế tài hành chính rõ ràng là không hợp lý, thay đổi chế tài hành chính. Điều 65 Luật TTHC quy định rằng nguyên đơn và bị đơn hành chính phải thi hành bản án và cho toà án tiến hành biện pháp cưỡng chế nếu họ không tự thi hành bản án. Trong trường hợp một cá nhân hoặc tổ chức không thi hành bản án hoặc quyết định của toà án thì cơ quan hành chính có thể yêu cầu thi hành bản án. Toà án sẽ viện dẫn các quy định về thi hành án của Luật TTDS để thi hành án. Trong trường hợp cơ quan hành chính không thi hành bản án hoặc lệnh của toà án, toà án có thể tiến hành các biện pháp sau: yêu cầu ngân hàng chuyển số tiền phạt hoặc bồi thường thiệt hại từ tài khoản của cơ quan hành chính; phạt tiền đối với cán bộ và các bên có trách nhiệm 50 - 100 NDT mỗi ngày chậm thi hành bản án hay lệnh, đề xuất của tòa án với cơ quan hành chính cấp trên của cơ quan phải thi hành án, hoặc, trong trường hợp tình tiết từ chối thi hành lệnh của tòa án khá nghiêm trọng đến mức cấu thành tội phạm hình sự thì tiến hành điều tra hình sự. Khi toà án cấp trên giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm theo quy định của Văn bản của TANDTC về một số vấn đề về thẩm quyền tài phán đối với các vụ án hành chính (2008) thì toà án đó cũng chịu trách nhiệm thi hành án. Toà sơ thẩm có quyền yêu cầu toà phúc thẩm (trong trường hợp có kháng cáo) thi hành bản án, tuy toà phúc thẩm có thể đồng ý thi hành án hoặc trả vụ việc lại cho toà sơ thẩm để thi hành. Mặc dù quyền thi hành án của toà án về lý thuyết là rất lớn, trong thực tiễn, toà án rất miễn cưỡng khi phải thực hiện các biện pháp cưỡng chế đối với các cơ quan hành chính. Một trong những lý do là vì ngân sách hoạt động chủ yếu của toà án là do chính quyền địa phương cấp. Do vậy, toà án cần duy trì quan hệ tốt với chính quyền địa phương và các cơ quan trực thuộc. Một lý do khác là cảnh sát có quyền điều tra các hành vi tội phạm và có thể không muốn tiếp nhận các vụ việc do toà án chuyển giao, đặc biệt là những khiếu nại đối với chính lực lượng cảnh sát. Toà án có quyền thi hành các quyết định hành chính theo chỉ thị của cơ quan ra quyết định. Trong trường hợp cơ quan hành chính ra một quyết định bắt buộc thi hành hoặc xác định một khoản bồi thường hoặc quyết định về một thoả thuận bồi thường mà bên có nghĩa vụ thi hành không chịu thi hành trong thời gian xác định thì cơ quan hành chính có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành theo Luật TTHC. Cơ quan hành chính có thể khởi kiện nếu bản thân cơ quan này không có khả năng tự thi hành quyết định của mình (hoặc có khả năng tự thi hành nhưng luật cũng cho phép cơ quan này nộp đơn yêu cầu toà thi hành án). Sau khi tiếp nhận đơn yêu cầu thi hành án đối với một hành vi hành chính cụ thể, phân tòa hành chính của toà án trước hết sẽ xác định xem hành vi hành chính đó có hợp pháp hay không. Nếu có thì chuyển giao vụ việc cho đơn vị thi hành án để thi hành. Loại vụ việc này, được gọi là các vụ việc phi tố tụng hành chính, là loại vụ việc phổ biến đứng hàng thứ hai do đơn vị thi hành án giải quyết, trung bình chiếm khoảng 12,9% tổng số vụ việc thi hành án. Đương sự là tư nhân phải bắt đầu việc thi hành án trong vòng một năm và cơ quan hành chính phải tiến hành thi hành án trong vòng 180 ngày kể từ ngày quyết định thi hành án có hiệu lực.
Thứ ba thi hành án lao động: Các tranh chấp liên quan đến vấn đề lao động sẽ do các cơ quan giải quyết tranh chấp lao động chuyên trách tiến hành. Việc giải quyết tranh chấp này tách rời với việc giải quyết các tranh chấp dân sự theo Luật TTDS, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Hệ thống giải quyết tranh chấp lao động chịu sự điều chỉnh của Luật trọng tài và hòa giải tranh chấp lao động 2007 (Luật TTHGTCLĐ). Trừ trường hợp khiếu nại về thanh lý tiền lương chưa trả, tranh chấp lao động trước hết phải được đưa ra hòa giải hoặc trọng tài để giải quyết. Nếu một bên đương sự không đồng ý với quyết định của ban hòa giải, họ có thể nộp đơn đề nghị giải quyết theo thủ tục trọng tài tại Ban Trọng tài lao động. Nếu không đồng ý với phán quyết trọng tài, họ có thể kháng cáo ra trước toà. Trong trường hợp khiếu nại liên quan đến tiền lương chưa trả và không có tranh chấp về số tiền, toà án sơ thẩm sẽ giải quyết khiếu nại. Trong trường hợp một bên không thi hành thoả thuận hòa giải hoặc phán quyết trọng tài thì bên kia có quyền tiến hành thủ tục thi hành phán quyết/thoả thuận tại toà án nhân dân và toà án này sẽ áp dụng Luật TTDS để thi hành. Cơ quan trọng tài có thể ra lệnh buộc thi hành ngay lập tức việc trả công lao động, chi phí khám chữa bệnh cho người bị tai nạn nghề nghiệp, bồi thường hoặc bồi hoàn kinh tế nếu quyền của các bên đã rõ ràng và việc quyết định chậm trễ sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người lao động trong trường hợp cơ quan trọng tài lao động hoặc toà án nhân dân ra phán quyết kê biên tài sản thì phải nộp đơn yêu cầu thi hành phán quyết đó trong vòng 3 tháng kể từ khi phán quyết hoặc quyết định có hiệu lực. Phán quyết trọng tài Phán quyết của cơ quan trọng tài trong nước được thi hành bằng cách áp dụng thủ tục thi hành án dân sự như đã nói trên. Toà án có thể quyết định không chấp nhận phán quyết trọng tài để thi hành nếu người phải thi hành án chứng minh được rằng thỏa thuận trọng tài vô hiệu, vấn đề được xem xét nằm ngoài phạm vi của thỏa thuận phân xử trọng tài, thành phần hội đồng trọng tài hoặc các vấn đề tố tụng khác vi phạm các quy định về trọng tài, chứng cứ chủ yếu để đưa ra quyết định không đầy đủ, có sai lầm rõ ràng trong việc áp dụng pháp luật, các trọng tài viên đã tham ô hoặc nhận hối lộ hoặc có hành vi sai trái để mưu lợi cá nhân, hoặc phán quyết trọng tài đi ngược lại lợi ích của xã hội và cộng đồng. Đối với phán quyết trọng tài của cơ quan trọng tài tại nước CHND Trung Hoa liên quan đến một bên đương sự nước ngoài, một bên đương sự có thể đề nghị tiến hành thủ tục thi hành phán quyết tại một toà án nhân dân cấp cao nơi cư trú hoặc có trụ sở của bên không thi hành phán quyết trọng tài hoặc nơi có tài sản của bên đó. Hội đồng xét xử của toà án nhân dân sẽ từ chối thi hành phán quyết trọng tài nếu nhận thấy thoả thuận trọng tài vô hiệu; có vi phạm thủ tục trọng tài, bao gồm cả việc không thông báo cho các bên để chỉ định trọng tài viên, không thông báo việc bắt đầu tố tụng trọng tài, hoặc không thông báo các bên về quyền tự bảo vệ của mình; thành phần hội đồng trọng tài không phù hợp với quy tắc trọng tài, hoặc việc phân xử trọng tài nằm ngoài phạm vi thoả thuận trọng tài. Phán quyết của trọng tài nước ngoài Trung Quốc là một quốc gia thành viên của Công ước của Liên hợp quốc về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài 1958 (Công ước New York). Công ước này quy định việc công nhận và thi hành lẫn nhau các phán quyết trọng tài của các cơ quan trọng tài tại các quốc gia thành viên. Đương sự có thể trực tiếp nộp đơn lên toà án nhân dân cấp trung tại địa phương nơi bên có nghĩa vụ thi hành đang cư trú hoặc có tài sản. Toà án Trung Quốc không được từ chối công nhận một phán quyết của trọng tài nước ngoài trừ trường hợp phán quyết này được TANDTC xem xét lại (Thông báo của TANDTC liên quan đến việc giải quyết của các tòa án nhân dân đối với các phán quyết nước ngoài và phán quyết liên quan đến nước ngoài năm 1995). Giấy nợ có công chứng Thẩm quyền tài phán của toà án trong việc thi hành các “giấy tờ pháp lý khác” được đề cập trong Điều 201 Bộ luật TTHS bao gồm quyền thi hành các tài liệu công chứng chứng minh một khoản nợ.
Về các nguyên tắc tổ chức tòa án yêu cầu việc phân tách ba loại công việc sau: thụ lý vụ án với xét xử; xét xử với giám sát và xét xử với thi hành án. Đơn vị thi hành án do đó được thành lập như một đơn vị riêng rẽ tại Toà án nhân dân tối cao và tại các cấp toà. Thẩm phán phụ trách đơn vị thi hành án chịu trách nhiệm về công việc của phòng thi hành án và được xếp dưới Chánh án tòa án trong hệ thống thứ bậc nội bộ của tòa án. Một nội dung trong Kế hoạch cải cách 5 năm lần thứ nhất được Toà án nhân dân tối cao thông qua vào tháng 10/1999 là yêu cầu tất cả các cấp tòa phải tách riêng các bộ phận thụ lý án, xét xử và thi hành án. Đồng thời, các toà án cũng được yêu cầu phải bảo đảm có đủ nhân viên và phân công các cán bộ có trình độ cho bộ phận thi hành án. Trình độ của các thẩm phán thuộc bộ phận thi hành án không được thấp hơn trình độ của thẩm phán ở các bộ phận khác. Cải cách này nhằm mục đích nâng cao vai trò, hiệu quả và trình độ chuyên môn của bộ phận thi hành án. Ngoài ra, các toà án cấp trên tại Trung Quốc phải thành lập một bộ phận chịu trách nhiệm giám sát, quản lý thi hành án của toà án cấp dưới. Khác với hệ thống cũ trong đó giao cho một cá nhân chịu toàn bộ trách nhiệm đối với việc thi hành một bản án nhất định nào đó, hiện tại, trong bộ phận thi hành án có sự phân tách trách nhiệm đối với từng khía cạnh khác nhau của công tác thi hành án. Cho rằng giải quyết vấn đề thi hành án là vấn đề ưu tiên, chi bộ Đảng cộng sản Trung Quốc trong mỗi toà án đóng vai trò tích cực trong việc tham gia và điều phối liên lạc giữa bộ phận thi hành án và các cơ quan nhà nước khác. TANDTC cũng ban hành Một số ý kiến của TANDTC về từng bước tăng cường và quản lý công tác thi hành án năm 2009 trong đó nhắc lại yêu cầu này.
Bộ phận thi hành án được thành lập như một bộ phận độc lập trong toà án các cấp. Trong bộ phận thi hành án có nhiều phòng chịu trách nhiệm thực hiện các chức năng khác nhau của bộ phận. Ví dụ, trong Toà án nhân dân cấp trung tỉnh Quảng Châu, bộ phận thi hành án được chia thành ba phòng. Phòng 1 chịu trách nhiệm nghiên cứu và lập kế hoạch công tác thi hành án của toà án toàn thành phố, tổ chức các cuộc họp, điều tra, nghiên cứu các vấn đề pháp luật, giải quyết các ý kiến khác nhau, các ý kiến phản bác trong công tác thi hành án, chuẩn bị công văn và khảo sát thực tiễn, liên hệ với các phòng ban chính quyền và Chánh án toà án nhân dân cấp cơ sở. Phòng 2 chịu trách nhiệm thi hành các bản án hình sự và dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp trung Quảng Châu, các vụ việc được các toà án khác ủy thác, thi hành các quyết định hành chính, các bản án và quyết định của toà án hoặc cơ quan trọng tài nước ngoài và tổ chức các chiến dịch thống nhất về thi hành án của thành phố Quảng Châu. Phòng 3 chịu trách nhiệm quản lý việc liên hệ giữa Quảng Châu với địa phương liên quan đến các vụ án được ủy thác, giải quyết sự trùng lặp liên quan đến thi hành án giữa toà án ở Quảng Châu và các toà án khác, liên lạc với các các cơ quan chính quyền khác khi có tranh chấp về thi hành án, giám sát các vụ án đã ủy thác cho các toà án cấp dưới nhưng chưa được thi hành trong thời hạn nhất định và sửa chữa những sai sót trong công tác thi hành án ở các toà cấp dưới.
Về thi hành các hình phạt hình sự: Thứ nhất tử hình: Số lượng án tử hình được tuyên hàng năm là bí mật nhà nước nhưng một số người ước tính có đến gần 10.000 mỗi năm. Số hành vi phạm tội có khung hình phạt tối đa là tử hình đã tăng kể từ khi ban hành Luật hình sự năm 1979. Luật này quy định 28 hành vi phạm tội theo đó người phạm tội có thể bị kết án tử hình, 15 hành vi trong số đó được phân loại là các tội phản cách mạng. Số lượng hành vi phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tử hình được mở rộng lên 68 hành vi khi Bộ luật Hình sự được sửa đổi vào năm 1997. (Lưu ý là số lượng 68 hành vi chỉ là con số ước tính, một số người đưa ra con số thực tế cao hơn, đến 76 hành vi). Những quy định sửa đổi này thay thế loại tội phản cách mạng bằng loại tội phạm gây nguy hiểm an ninh quốc gia và quy định áp dụng hình phạt tử hình đối với nhiều tội danh phi bạo lực như các tội phạm kinh tế và tham nhũng. Hình phạt tử hình có thể được tuyên thi hành ngay hoặc việc thi hành được hoãn trong thời hạn hai năm. Đối với những phạm nhân bị kết án tử hình với thời hạn thi hành án được hoãn trong hai năm, không hiếm trường hợp vào cuối thời hạn hai năm đó bản án của họ được hoán đổi thành hình phạt tù có thời hạn. Người chưa thành niên dưới 18 tuổi và phụ nữ có thai không bị kết án tử hình. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho thấy những người ở độ tuổi thanh niên (trong khoảng từ 18 đến 25 tuổi) bị kết án tử hình chiếm tỷ lệ cao (50%). Theo Luật Tổ chức tòa án nhân dân và Bộ luật TTHS năm 1979, tất cả các bản án tử hình cuối cùng đều phải được TANDTC phê chuẩn. Năm 1983, việc phê chuẩn cuối cùng án tử hình được ủy quyền cho các tòa án nhân dân cấp cao (được thành lập ở cấp tỉnh và tương đương) như là một phần của Chiến dịch trấn áp tội phạm lần thứ nhất. Trong thời gian diễn ra các chiến dịch trấn áp tội phạm, việc áp dụng án tử hình gia tăng và thời gian giữa việc bắt, kết tội, phê chuẩn cuối cùng và thi hành án được rút ngắn. Trong những năm vừa qua xã hội ngày càng quan tâm về việc số lượng án tử hình được tuyên mỗi năm quá cao. Một phần của chính sách cải cách tư pháp về “sự hài hòa giữa xử lý khoan dung và nghiêm khắc” đề cập đến giải pháp nhằm tăng cường thủ tục xem xét lại án tử hình và hạn chế áp dụng hình phạt tử hình. Tháng 10 năm 2006, Quốc hội Trung Quốc sửa đổi Điều 13 của Luật Tổ chức tòa án nhân dân để giao lại thẩm quyền phê chuẩn lần cuối tất cả các bản án tử hình cho TANDTC. Một khía cạnh khác của cải cách này là cải cách các quy định về chứng cứ nhằm giảm bớt các trường hợp kết tội sai do dựa vào chứng cứ có được bằng phương thức bất hợp pháp. Quy định về vấn đề này đã được ban hành ngày 31 tháng 5 năm 2010.
Hình phạt giam giữ hình sự có thời hạn có thể được áp dụng với thời hạn từ một đến ba tháng. Hình phạt này được chấp hành tại một trại tạm giam do công an quản lý chứ không phải tại nhà tù. Người bị áp dụng hình phạt giam giữ hình sự có thể được phép về nhà một hoặc hai ngày mỗi tháng. Các hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân và hình phạt tử hình được chuyển thành hình phạt tù được chấp hành tại nhà tù. Luật Nhà tù năm 1994 đã thay tất cả các trại cải tạo lao động trở thành nhà tù. Luật này vẫn giữ lại mục đích kết hợp giáo dục với cải tạo tù nhân. Tù nhân có nghĩa vụ lao động nếu họ có đủ sức khỏe để lao động. Các hình phạt cải tạo không giam giữ Người bị kết án về tội không nghiêm trọng có thể phải chịu hình phạt cải tạo không giam giữ như quản chế trong thời hạn từ ba tháng đến hai năm. Người bị áp dụng hình phạt quản chế không bị giam giữ và cơ quan công an sẽ giám sát việc chấp hành hình phạt. Người đang chấp hành hình phạt tù mà thể hiện sự ăn năn, hối cải, có thái độ cải tạo tốt và đã chấp hành được trên một nửa thời hạn tù (hoặc trên 10 năm đối với hình phạt tù chung thân) có thể được xét thả tự do trước thời hạn. Người đang chấp hành hình phạt tù cũng có thể được xét giảm hình phạt nếu lập công lớn. Trong trường hợp giảm hình phạt và tha trước thời hạn, nhà tù phải có văn bản kiến nghị Tòa án nhân dân cấp trung trở lên và tòa án phải thành lập hội đồng xét xử để xem xét kiến nghị đó. Các chính sách gần đây khuyến khích việc mở rộng việc áp dụng các hình phạt cải tạo không giam giữ khi có thể. Tháng 8 năm 2003, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp liên tịch ban hành Thông báo về việc thực hiện thí điểm việc lao động cải tạo tại cộng đồng. Văn bản này khởi động một chương trình thí điểm cho phép 05 loại tù nhân được chấp hành hình phạt dưới hình thức cải tạo tại cộng đồng. Đây là những người bị áp dụng hình phạt quản chế, những người được phép chấp hành hình phạt ngoài nhà tù, những người được hưởng án treo, những người được giảm án phạt tù và tha trước thời hạn và những người bị áp dụng hình phạt tước các quyền chính trị.
Một khía cạnh quan trọng của cuộc cải cách tổ chức và hoạt động của bộ phận thi hành án là tăng cường mối quan hệ với các cơ quan nhà nước khác có liên quan trong quá trình thi hành án. Trong quá trình cưỡng chế thi hành bản án hình sự và dân sự đòi hỏi chuyển giao tài sản, toà án có thể yêu cầu các cơ quan chính quyền khác hỗ trợ để ra các văn bản cần thiết về chuyển giao tài sản bằng cách gửi các giấy tờ sở hữu cho toà án. Toà án cũng có thể ra thông báo cho cơ quan có trách nhiệm đăng ký bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, quyền tác giả không cho người phải thi hành án chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp của mình. Toà án cũng có thể thực hiện quyền phong toả, cấm chuyển dịch hoặc bán tài sản hoặc nhận cổ tức hoặc việc thanh toán liên quan đến tài sản và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền phối hợp thực hiện các biện pháp cưỡng chế. Năm 2000 TANDTC và Ngân hàng Trung Quốc ban hành Thông báo về tiêu chuẩn hoá việc thi hành án của Toà án nhân dân và việc hỗ trợ thi hành án của các tổ chức tài chính nhằm điều chỉnh và tăng cường sự hợp tác giữa các tổ chức tài chính với tòa án trong công tác thi hành án. Nếu một tổ chức tài chính chuyển giao một cách không hợp lệ một khoản tiền đã bị toà án phong toả thì tổ chức tài chính đó phải cố gắng thu hồi khoản tiền đó. Nếu không thể thu hồi thì tổ chức tài chính đó phải chịu trách nhiệm đối với khoản tiền đã chuyển không hợp lệ. Tiền gửi và thanh toán của tổ chức tài chính và cơ quan, tổ chức cho người phải thi hành án nếu vi phạm quyết định kê biên hoặc quyết định thanh toán khác thì phải bị thu hồi. Nếu không thể thu hồi thì cơ quan, tổ chức đó phải chịu trách nhiệm trả khoản tiền đó cho bên được thi hành án. Nếu một cơ quan hành chính không thực hiện bản án hoặc lệnh của toà án theo Luật TTHC thì toà án có quyền thông báo cho ngân hàng chuyển số tiền trong phán quyết từ tài khoản của cơ quan hành chính đó. Cũng giống như TANDTC, năm 2004, Bộ Đất đai và Tài nguyên và Bộ Xây dựng đã ban hành Thông báo về một số vấn đề thi hành án của Toà án nhân dân và việc hỗ trợ thi hành án của cơ quan quản lý tài nguyên đất đai và bất động sản trong đó quy định cơ chế hợp tác cụ thể trong công tác thi hành án giữa toà án và các cơ quan hành chính cũng như quy định chế tài đối với trường hợp mua bán đất trái với các biện pháp cưỡng chế trong quá trình thi hành án. Một trong những vấn đề đã được nêu ra từ lâu liên quan đến khó khăn trong việc thi hành án là các cán bộ chính quyền địa phương không hợp tác, thậm chí có hành vi ngăn cản việc thi hành án đối với các doanh nghiệp địa phương. Do công tác của chính quyền và các cán bộ địa phương hiện nay tại Trung Quốc được đánh giá theo GDP và kết quả hoạt động tài chính của địa phương, cán bộ địa phương có động cơ rất lớn trong việc ngăn cản việc thi hành án đối với tài sản của doanh nghiệp địa phương, đặc biệt khi các doanh nghiệp này có tài sản hạn chế và hoạt động kinh doanh hàng ngày phụ thuộc vào nguồn tiền từ ngân hàng.
Về quy trình thi hành án dân sự: Điều 7 Quy tắc của TADNTC về một số vấn đề trong công tác thi hành án của toà án nhân dân quy định rằng cơ quan thi hành án phải được cung cấp các phương tiện giao thông, liên lạc, nghe nhìn cần thiết và vũ khí của cảnh sát để bảo đảm các nhiệm vụ của cơ quan thi hành án được thực hiện một cách có hiệu quả và nhanh chóng. Khi thực hiện nhiệm vụ, cán bộ thi hành án phải xuất trình giấy chứng minh công vụ, giấy phép chính thức và có thể được cảnh sát tư pháp tháp tùng nếu cần thiết.
Bộ phận thi hành án của toà án nhân dân cũng gặp phải những khó khăn tương tự như các toà án địa phương, liên quan đến vấn đề phân bổ ngân sách từ chính quyền địa phương.Cảnh sát tư pháp của toà án cũng đóng vai trò nhất định trong việc thi hành án. Do cảnh sát tư pháp cũng là cảnh sát theo định nghĩa rộng tại Điều 2 Luật Cảnh sát nhân dân, họ có quyền thực hiện các biện pháp cưỡng chế. Điều 3 Quy định tạm thời về cảnh sát tư pháp của toà án nhân dân năm 1997 yêu cầu cảnh sát tư pháp phải ngăn ngừa và trừng trị những hành vi trái pháp luật và hành vi cản trở hoạt động xét xử. Điều 7 cho phép họ tham gia vào việc niêm phong, tạm giữ, phong toả và tịch thu tài sản của đối tượng thi hành án. Khi nhận được văn bản cho phép của thẩm phán chịu trách nhiệm thi hành án, cảnh sát tư pháp có thể tiến hành điều tra tài sản, bảo vệ khu vực thi hành án và tiến hành các biện pháp cưỡng chế đối với tài sản. Kiểm tra và giám sát Cơ chế chủ yếu để giám sát nội bộ công tác của bộ phận thi hành án của các toà án nhân dân cấp dưới do toà án nhân dân cấp trên thực hiện. Điều 6 Quy tắc của TANDTC về một số vấn đề trong công tác thi hành án của toà án nhân dân quy định rằng, bộ phận thi hành án của toà án nhân dân cấp trên thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của bộ phận thi hành án của toà án nhân dân cấp dưới. Cùng với việc tăng cường giám sát nội bộ, toà án phải đáp ứng tốt hơn sự giám sát của nhân dân thông qua việc thực hiện tốt chính sách minh bạch trong việc ra quyết định và tăng cường công tác giải quyết đơn thư và kiểm tra liên quan đến việc thi hành án. Phòng “đơn thư và kiểm tra” chịu trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại về công tác thi hành án của toà án. Hoạt động giám sát cũng được thực hiện đối với toàn bộ hoạt động của toà án, thông qua công tác giám sát hiến định của Quốc hội và Hội đồng nhân dân địa phương thực hiện giám sát thông qua công tác kiểm tra đặc biệt đối với hoạt động thi hành pháp luật và thông qua việc giám sát những vụ án cụ thể. VKS cũng thực hiện quyền giám sát. Để tăng cường công tác của bộ phận giám sát của toà án, tháng 2/2009, Toà án NDTC đã ban hành Các biện pháp thí điểm thi hành việc bố trí các cán bộ giám sát trung thực, trong sạch vào các Vụ thi hành pháp luật và xét xử của toà án nhân dân, trong đó cho phép bổ nhiệm một thẩm phán là giám sát viên độc lập vào bộ phận thi hành án. Giám sát viên này vừa hoạt động dưới sự chỉ đạo của Vụ giám sát của toà án, vừa dưới quyền của Trưởng bộ phận thi hành án. Giám sát viên chịu trách nhiệm hỗ trợ Trưởng bộ phận thi hành án kiểm tra và phòng ngừa tham nhũng, bảo đảm các thẩm phán trong bộ phận thi hành án tuân thủ pháp luật và kỷ luật, hỗ trợ Vụ giám sát thực hiện chức năng giám sát theo yêu cầu và hỗ trợ việc phát hiện các vụ vi phạm kỷ luật ngay từ khi mới manh nha.
Tỷ lệ thi hành án thấp, đặc biệt là các bản án dân sự và thương mại, được coi là một trong những vấn đề nghiêm trọng và cố hữu của toà án và hệ thống quản lý tư pháp của Trung Quốc. Đây cũng là vấn đề tiếp tục được các cấp lãnh đạo của Trung Quốc quan tâm và nỗ lực khắc phục. Năm 1998, Toà án Bắc Kinh đã mở chiến dịch giải quyết khối lượng án tồn đọng chưa được thi hành. Năm 1999 được xác định là “Năm thi hành án”. Việc TANDTC ban hành Quy tắc về một số vấn đề của công tác thi hành án của toà án nhân dân là một trong những nỗ lực mang tính hệ thống để khắc phục những tồn tại trong việc đạt tỷ lệ thi hành án cao hơn. Ngoài ra, Luật TTDS được sửa đổi năm 2007 để giải quyết một số vấn đề về thi hành án đã được tiếp tục sửa đổi vào tháng 7 năm 2009 qua việc ban hành Một số ý kiến để từng bước tăng cường và điều chỉnh công tác thi hành án. Bất kể các chiến dịch định kỳ nói trên để tăng cường công tác thi hành án, nhiều vấn đề về cơ cấu vẫn tồn tại gây trở ngại cho công tác thi hành án tại Trung Quốc. Mặc dù các nghiên cứu mới đây cho thấy đã có một số chuyển biến trong công tác thi hành án ở khu vực đô thị, công tác thi hành án vẫn còn nhiều tồn tại, đặc biệt ở vùng nông thôn. Vấn đề quan trọng nhất là sự bất hợp tác của chính quyền địa phương đối với việc thi hành những bản án đối với các doanh nghiệp địa phương hoặc đối với việc chuyển giao các nguồn tiền, nguồn lực cho doanh nghiệp ở địa phương khác. Do nguồn tài chính của toà án vẫn chủ yếu được chính quyền địa phương cung cấp và chính quyền địa phương có quyền kiểm soát thực tế đối với việc bổ nhiệm nhân sự của tòa án, toà án chịu áp lực từ chính quyền địa phương trong các khiếu kiện hành chính và thi hành các bản án và quyết định bị chính quyền địa phương coi là đi ngược lại quyền lợi và các nhu cầu phát triển kinh tế của địa phương. Về lâu dài, nếu có những thay đổi để dỡ bỏ hoàn toàn sự kiểm soát của chính quyền địa phương đối với việc cấp kinh phí và nếu các biện pháp để nâng cao trình độ chuyên môn của cơ quan tư pháp thành công tại các vùng nông thôn thì vấn đề nêu trên liên quan đến công tác thi hành án có thể sẽ đỡ căng thẳng hơn. Tuy nhiên, tình trạng cục bộ địa phương là vấn đề lớn như có thể nhận thấy qua các quy định cụ thể của pháp luật như Luật Chống độc quyền được soạn thảo để đối phó với các biện pháp độc quyền hành chính và bảo hộ địa phương do chính quyền địa phương áp dụng. Toà án cũng có quan hệ phức tạp với các cơ quan địa phương mà họ phải hợp tác, chẳng hạn trong việc thực hiện các đợt trấn áp định kỳ đối với các tội phạm nghiêm trọng hay khi cần có sự phối hợp rất chặt chẽ giữa công an, kiểm sát và toà án. Yêu cầu tòa án, VKS và cơ quan công an phải hợp tác nhằm khắc phục tình trạng căng thẳng cố hữu giữa các cơ quan nói trên là do vai trò khác nhau của mỗi cơ quan trong việc bảo đảm công lý. Sự căng thẳng hiện nay vẫn tồn tại trong mối quan hệ giữa:Tòa án và VKS, xuất phát từ quyền của VKS giám sát hoạt động xét xử; giữa VKS và cơ quan công an, xuất phát từ quyền của VKS giám sát việc bắt, hỏi cung và điều tra của cơ quan công an và các trung tâm giam giữ; giữa Tòa án và cơ quan công an, trong trường hợp cơ quan công an bị đưa ra trước tòa với tư cách bị đơn trong các vụ án hành chính.
Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, chính quyền địa phương không có quyền lợi giống như lĩnh vực dân sự và thương mại. Do vậy, trong lĩnh vực tư pháp hình sự, việc tăng cường phối hợp giữa các cơ quan công an, kiểm sát và cảnh sát tư pháp trong thi hành án là một trong những phương thức để khắc phục những khó khăn có thể phát sinh trong công tác thực thi công lý. Tuy nhiên, việc quá nhấn mạnh vào vấn đề hợp tác cũng có thể làm tổn hại đến việc thực thi các giá trị công lý và công bằng thực sự do tính hiệu quả lại được ưu tiên hơn so với việc bảo vệ các quyền luật định./.
Nguyễn Xuân Bách
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Tư pháp:
Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp của một số quốc gia, năm 2011.