Chế định tài sản và quyền sở hữu trong pháp luật dân sự Việt NamHệ thống pháp luật dân sự của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều có cách tiếp cận khác nhau về chế định tài sản và quyền sở hữu. Vì chế định tài sản và quyền sở hữu có tầm ảnh hưởng rất lớn tới các chế định khác trong pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về hôn nhân và gia đình nói riêng. Nên trong bất kỳ Bộ luật Dân sự nào, từ Bộ luật Dân sự năm 1995, đến Bộ luật Dân sự năm 2005 và gần đây nhất là Bộ luật Dân sự năm 2015 thì các chế định như chế định về thừa kế, chế định về hợp đồng, đặc biệt là chế định về tài sản và quyền sở hữu luôn giữ vị trí trọng tâm của Bộ luật.Khi xã hội ngày càng phát triển, các quan hệ dân sự và giao lưu dân sự ngày càng được mở rộng thì chế định tài sản và quyền sở hữu lại là chế định cơ bản, quan trọng nhất trong Bộ luật Dân sự nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu tài sản, bảo đảm trật tự trong giao lưu dân sự. Trước yêu cầu thể chế hoá đầy đủ, đồng thời tăng cường các biện pháp để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự, cũng như các tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu trong đó có quyền sở hữu về tài sản, quyền bình đẳng giữa các chủ thể đã được ghi nhận trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, Nghị quyết số 48/2005/NQ- TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị Quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020, Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Dân sự năm 2015. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi sâu phân tích về chế định tài sản và quyền sở hữu được quy định trong Bộ luật Dân sự qua các thời kỳ, trong đó trọng tâm nhấn mạnh chế định tài sản và quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự năm 2015.1. Chế định tài sảnTài sản là vấn đề trọng tâm, cơ bản của mọi quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật nói riêng. Khái niệm tài sản đã được Bộ luật Dân sự năm 2015 Điều 105 quy định khá cụ thể tài sản là gì: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; Tài sản bao gồm bất động sản và động sản, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Thứ nhất, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản (1) Vật, là bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan mà con người có thể cảm nhận bằng giác quan của mình. Với ý nghĩa phạm trù pháp lý, vật chỉ có ý nghĩa trở thành đối tượng của quan hệ pháp luật, tức là nó được con người kiểm soát và đáp ứng được một nhu cầu nào đó của con người. Không phải bất kỳ một bộ phận nào của thế giới vật chất cũng đều được coi là vật. Vì vậy, có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này thì được coi là vật nhưng ở dạng khác thì không được coi là vật Ví dụ, ô xi ở dạng không khí trong tự nhiên thì chưa thể được coi là vật vì chưa thể đưa vào để thực hiện được giao dịch dân sự, chỉ khi được nén vào bình, tức là con người có thể nắm giữ, quản lý được thì mới có thể đưa vào giao lưu dân sự và lúc này mới được coi là vật. Như vậy, muốn trở thành vật trong dân sự phải thoả mãn đầy đủ các điều kiện sau: là bộ phận của thế giới vật chất; con người chiếm hữu được, mang lại lợi ích cho chủ thể, có thể đang tồn tại hoặc sẽ hình thành trong tương lai. Vật được phân loại thành các nhóm khác nhau. Dựa vào mối liên hệ, phụ thuộc về công dụng của vật với nhau mà vật được phân thành vật chính và vật phụ. Vật chính là vật độc lập có thể khai thác theo tính năng (ti vi, điều hoà, máy ảnh…), còn vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật chính, là một bộ phận của vật chính nhưng có thể tách rời vật chính (điều khiển ti vi, vỏ điều hoà, vỏ máy ảnh…). Dựa vào việc xác định giá trị sử dụng của vật khi được chia thành nhiều phần nhỏ mà Bộ luật Dân sự phân chia vật thành vật chia được và vật không chia được. Dựa vào đặc tính, giá trị của các tài sản sau khi sử dụng thì chia thành vật tiêu hao và vật không tiêu hao. Dựa vào các dấu hiệu phân biệt của vật mà người ta phân loại vật thành vật cùng loại và vật đặc định. Ngoài ra, người ta còn chia ra làm vật đồng bộ và vật không đồng bộ. (2) Tiền, theo Mác thì tiền là một thứ hàng hoá đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hành hoá, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hoá khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá. Bộ luật Dân sự năm 2005 và cả Bộ luật Dân sự năm 2015 đều quy định tiền là một loại tài sản nhưng lại không có quy định để làm rõ bản chất pháp lý của tiền. Chỉ có loại tiền có giá trị đang được lưu hành trên thực tế, tức là được pháp luật thừa nhận, mới được coi là tài sản. Tiền là công cụ thanh toán đa năng, là công cụ tích luỹ tài sản và là thước đo giá trị. (3) Giấy tờ có giá, được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá hiện nay tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như séc, cổ phiếu, tín phiếu, hồi phiếu, kỳ phiếu, công trái…Xét về mặt hình thức, thì giấy tớ có giá là một chứng chỉ được lập theo hình thức, trình tự luật định. Nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá là thể hiện quyền tài sản, giá của giấy tờ có giá là giá trị quyền tài sản và quyền này được pháp luật bảo vệ. Giấy tờ có giá có tính thanh khoản và là công cụ có thể chuyển nhượng với điều kiện chuyển nhượng toàn bộ một lần, viêc chuyển nhượng một phần giấy tờ có giá là vô hiệu. Ngoài ra, giấy tờ có giá có tính thời hạn, tính có thể đưa ra yêu cầu, tính rủi ro. Ngoài ra còn có các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy đăng ký xe máy, xe ô tô,…không phải là giấy tờ có giá. Những loại giấy tờ này chỉ được coi là một vật thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó. (3) Quyền tài sản, theo quy định tại Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Quyền là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể và được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền tài sản hiểu theo nghĩa rộng là quyền của cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thực hiện hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi ích vật chất cho mình. Xét theo ý nghĩa này thì quyền sở hữu (vật quyền) cũng là một loại tài sản.Thứ hai, tài sản bao gồm động sản và bất động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai Điều 107 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định bất động sản và động sản như sau:“1. Bất động sản bao gồm: a) Đất đai;b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản”.Việc phân loại tài sản thành động sản và bất động sản là cách phân loại tài sản dựa vào đặc tính vật lý của tài sản là có thể di dời được hay không thể di dời được. Bất động sản do đặc tính tự nhiên, được hiểu là các tài sản không thể di dời được do bản chất tự nhiên cấu tạo nên tài sản đó, bao gồm:Một là, đất đai. Đất đai trong giao lưu dân sự được xác định bằng diện tích đất cùng vị trí của mảnh đất đó. Điều này được thể hiện trên bản đồ địa chính, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận thông qua quyết định giao đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó.Hai là, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai. Nhà, công trình trên đất được coi là một dạng của bất động sản do đặc tính tự nhiên nếu nó được xây dựng gắn liền với đất bằng một kết cấu chặt chẽ chứ không đơn thuần “đặt” trên đất. Vì vậy, một lều xiếc hay một lán chợ dựng tạm thì không được coi là bất động sản.Ba là, cây cối, hoa màu và các tài sản khác trên đất như: khoáng sản, cây cối hoa màu trên đất cũng được coi là bất động sản chừng nào người ta chưa khai thác, chặt cây hay hái lượm. Nếu chúng được tách khỏi đất thì chúng trở thành động sản. Giả sử khoáng sản, cây cối, hoa màu tuy vẫn chưa được khai thác nhưng đã là đối tượng của hợp đồng mua bán trước, việc mua bán trước này có làm cho khoáng sản, cây cối hoa màu trở thành động sản hay không cho dù nó vẫn còn ở trên đất? Luật pháp các quốc gia đều cho rằng các tài sản này, trong trường hợp trên thì đã trở thành động sản.Bốn là, các động sản trở thành bất động sản vì mục đích sử dụng chúng: các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đều được coi là bất động sản. Nhưng trong điều kiện nào thì động sản được coi là gắn liền với nhà, công trình xây dựng? Thông thường, việc gắn một động sản vào nhà, công trình xây dựng thì một mặt phải nhằm tạo một chỉnh thể thống nhất phục vụ cho mục đích sử dụng nhà, công trình đó, mặt khác, việc gắn động sản vào nhà, công trình xây dựng phải do người có quyền (quyền sở hữu hoặc một quyền năng khác) đối với nhà, công trình xây dựng đó thực hiện. Hơn nữa, việc gắn liền phải mang tính chất kiên cố, không thể tháo ra mà không làm hư hại hoặc mất vẻ mỹ quan của nhà, công trình. Ví dụ như hệ thống điện, nước trong nhà, bức tượng, nếu được gắn vào tường một cách kiên cố thì cũng có thể được coi là bất động sản.Bất động sản do pháp luật quy định, thì ngoài những tài sản là bất động sản kể trên, khi cần thiết bằng các văn bản pháp luật cụ thể, pháp luật có thể quy định những tài sản khác là bất động sản. Ví dụ, Điều 5 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định thì quyền sử dụng đất là bất động sản.Căn cứ vào thời điểm hình thành tài sản và thời điểm xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Tài sản hiện có là tài sản đã tồn tại vào thời điểm hiện tại và đã được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu của tài sản đó (nhà đã được xây dựng…). Tài sản hình thành trong tương lai được hiểu là tài sản chưa tồn tại hoặc chưa hình thành đồng bộ vào thời điểm xem xét nhưng chắc chắn sẽ có hoặc được hình thành trong tương lai (nhà đang được xây dựng theo dự án, tiền lương sẽ được hưởng…). Ngoài ra, tài sản hình thành trong tương lai có thể bao gồm tài sản đã được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch tài sản đó mới thuộc sở hữu của các bên (tài sản mua bán, thừa kế nhưng chưa hoàn thành thủ tục chuyển giao cho chủ sở hữu).2. Chế định về quyền sở hữu Theo quy định tại Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”.Thứ nhất, về quyền chiếm hữu thì Điều 179 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “1. Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản; (2). Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu không phải là chủ sở hữu. Việc chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu không thể là căn cứ xác lập quyền sở hữu, trừ trường hợp quy định tại các điều 228, 229, 230, 231, 232, 233 và 236 của Bộ luật này”. Khác với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, ở đây thì Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận và tách quyền chiếm hữu thành một điều luật độc lập, thể hiện cách tiếp cận mới và đặc biệt tiến bộ của các nhà làm luật. Theo đó, chế định chiếm hữu được xem là một chế định độc lập so với chế định sở hữu. Việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản là sự chiếm hữu tài sản thực tế kết hợp với ý chí của người chiếm hữu.Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra khái niệm chiếm hữu ngay tình rộng hơn so với Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo đó, chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu, bao gồm hai loại: chiếm hữu có căn cứ pháp luật và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình. Việc chiếm hữu có căn cứ pháp luật được ghi nhận tại Điều 165 bao gồm: Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản; người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; các trường hợp khác do pháp luật quy định. Việc chiếm hữu không phù hợp với những nội dung trên được coi là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật”. Ở đâyso với Bộ luật Dân sự năm 2005, người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình thì không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản là không có căn cứ pháp luật (yếu tố khách quan) tức là không buộc chủ thể nhận thức được việc chiếm hữu của mình là không có căn cứ pháp luật, trong trường hợp này, dù không đòi hỏi điều kiện phải biết về tình trạng chiếm hữu của tài sản nhưng người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình này có thể có sự nghi ngờ, chưa thực sự chắc chắn vào việc chiếm hữu của mình là hợp pháp hay không hợp pháp.Đối lập với chiếm hữu ngay tình, thì chiếm hữu không ngay tình là trường hợp đòi hỏi người chiếm hữu phải nhận thức được mình không có quyền đối với tài sản, và việc chiếm hữu này không có căn cứ pháp luật. Biết và buộc phải biết mình không có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu của người chiếm hữu là có căn cứ pháp lý để pháp luật buộc họ phải chấm dứt việc chiếm hữu thực tế bất hợp pháp đối với tài sản, hoàn trả lại tài sản cho chủ thể có quyền sở hữu đối với tài sản, đồng thời phải bồi thường thiệt hại (nếu có) do hành vi chiếm hữu bất hợp pháp của mình gây ra (Điều 579 và khoản 1 Điều 581 Bộ luật Dân sự năm 2015).Đối với những trường hợp đòi hỏi người chiếm hữu biết hoặc phải biết việc chiếm hữu của mình là không ngay tình thì thường liên quan đến các loại tài sản có đăng ký quyền sở hữu như bất động sản, động sản đăng ký quyền sở hữu: ví dụ một người mua một chiếc xe máy từ một chủ thể khác không có giấy chứng nhận quyền sở hữu chiếc xe máy, trong khi đòi hỏi người mua phải yêu cầu chứng minh quyền được bán hợp pháp của người bán; đối với loại tài sản thuộc sở hữu chung và các đồng chủ sở hữu phải thể hiện ý chí chuyển giao quyền cho người đang chiếm hữu tài sản; liên quan đến việc chuyển giao quyền chiếm hữu của chủ thể không có quyền chuyển giao quyền chiếm hữu (người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế năng lực hành vi dân sự), ví dụ: một người vì ham rẻ nên đã đồng ý mua một dàn loa giá trị 300 triệu với giá 50 triệu từ một em bé 12 tuổi.Bên cạnh đó, đối với chiếm hữu liên tục được quy định tại Điều 185 Bộ luật Dân sự năm 2015 được hiểu là việc chiếm hữu về mặt thực tế và mặt pháp lý của một chủ sở hữu đối với tài sản. Chiếm hữu về mặt thực tế là việc chủ sở hữu, hoặc người có quyền chiếm hữu tự mình giữ tài sản. Khi chủ sở hữu trao quyền chiếm hữu tài sản cho một chủ thể khác thì chủ sở hữu chỉ có quyền chiếm hữu về mặt pháp lý đối với tài sản, còn chủ thể được chủ sở hữu trao quyền chiếm hữu chỉ có quyền chiếm hữu thực tế đối với tài sản. Đây là trường hợp sở hữu trao quyền chiếm hữu thực tế một cách tự nguyện. Ví dụ: Ông A vào bệnh viện khám bệnh, gửi xe của mình cho người trông xe tên B ở bãi giữ xe của bệnh viên, thì trường hợp này, ông A là người chiếm hữu về mặt pháp lý đối với tài sản là chiếc xe máy, còn ông B là người chiếm hữu về mặt thực tế đối với tài sản là chiếc xe máy đó.Đồng thời, tính liên tục của chiếm hữu được ghi nhận bao gồm hai điều kiện: (1) Việc chiếm hữu diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định; (2) Không có tranh chấp về quyền đối với tài sản hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác. Việc chiếm hữu của chủ thể không bị gián đoạn trong quá trình chiếm hữu, đồng thời không xảy ra các tranh chấp về quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng…đối với tài sản, hoặc nếu có loại tranh chấp này thì chưa được giải quyết tại Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền bằng một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật. Điều 190 Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ ghi nhận chiếm hữu liên tục trong một khoảng thời gian và không có tranh chấp về tài sản thì đến Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung thêm trường hợp có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác. Như vậy theo tinh thần của điều luật này thì dù việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời gian mà có tranh chấp hay không có tranh chấp về quyền đối với tài sản thì vẫn được coi là chiếm hữu liên tục.Chiếm hữu công khai được thể hiện chính là ở việc người chiếm hữu thực hiện các tác động vật chất đối với tài sản một cách minh bạch, không giấu giếm. Người chiếm hữu có thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách rõ ràng, không che giấu vì một ý đồ gì. Cần phân biệt việc chiếm hữu giấu giếm với trường hợp chiếm hữu với loại tài sản đặc thù không thể hiện ra bên ngoài, ví dụ: mua vàng để cất giữ trong két sắt, dù không thể hiện ra bên ngoài cho các chủ thể khác biết về việc để dành tài sản là vàng này nhưng người chiếm hữu này không hướng đến việc giấu giếm nhằm một ý đồ gì. Ngoài ra, chiếm hữu công khai còn thể hiện qua việc chủ thể chiếm hữu có đầy đủ căn cứ chứng minh tình trạng chiếm hữu của mình đối với tài sản, thể hiện tính minh bạch trong việc chiếm hữu tài sản.Việc chiếm hữu liên tục, công khai vừa có ý nghĩa trong xác định và bảo vệ quyền sở hữu của chủ sở hữu, vừa là căn cứ quan trọng để xác định quyền sở hữu theo thời hiệu theo quy định tại Điều 236 Bộ luật Dân sự năm 2015: “ Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan có quy định khác”.Điều 184 về suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu là điều luật mới được ghi nhận trong nội dung Chiếm hữu của Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, chủ thể chiếm hữu tài sản được suy đoán là ngay tình. Sự suy đoán này dựa trên cơ sở sự chiếm hữu thực tế đối với tài sản của chủ thể chiếm hữu, bao gồm: (1) Người chiếm hữu tài sản dựa trên cơ sở sự thỏa thuận với chủ sở hữu. Họ là người kiểm soát thực tế đối với tài sản đồng thời thừa nhận mình không có quyền sở hữu đối với tài sản đó. Họ chiếm hữu tài sản dựa trên ý chí của người khác. (2) Người chiếm hữu tài sản không dựa trên sự thỏa thuận với chủ sở hữu. Đó là những trường hợp chiếm hữu dựa trên quy định của pháp luật hoặc thông qua hành vi bất hợp pháp. Trong trường hợp này, ngoài việc chiếm giữ tài sản, họ còn mong muốn chiếm hữu tài sản theo ý chí của mình.Trong hai trường hợp trên, dù là nguồn gốc việc chiếm hữu tài sản là từ đâu thì người chiếm hữu tài sản luôn được suy đoán là ngay tình. Người cho rằng chủ thể chiếm hữu đó không ngay tình thì phải chứng minh, sự chứng minh này hướng đến việc phủ nhận quyền chiếm hữu thực tế của chủ thể đang nắm giữ tài sản. Đây là một quy định hướng đến việc bảo vệ quyền hiện hữu của chủ thể chiếm hữu tài sản (đó là chủ sở hữu, người có quyền chiếm hữu hay thậm chí là tình trạng chiếm hữu của chủ thể).Khi xảy ra tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được ưu tiên suy đoán là người có quyền đó. Việc chứng minh người chiếm hữu không có quyền thuộc về người có tranh chấp với người chiếm hữu. Trong trường hợp chủ sở hữu của tài sản phủ nhận quyền của người chiếm hữu thì cũng không có ngoại lệ, đòi hỏi chủ sở hữu phải đưa ra các căn cứ chứng minh quyền sở hữu tài sản của mình cũng như chứng minh người chiếm hữu không có quyền đối với tài sản. Ví dụ: A là chủ sở hữu một chiếc xe máy, A cho B mượn, sau đó B bán chiếc xe máy đó cho C. A muốn phủ nhận việc chiếm hữu xe máy của C thì A phải chứng minh quyền sở hữu của mình, có thể thông qua dấu hiệu đặc trưng của tài sản, qua giấy đăng ký quyền sở hữu xe máy,…Việc chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai được coi là căn cứ để áp dụng thời hiệu hưởng quyền và hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài sản mang lại. Đây là một quy định mới trong BLDS 2015 hướng đến việc bảo vệ việc chiếm hữu có căn cứ pháp luật của chủ thể. Chủ thể chiếm hữu tài sản này bao gồm: Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản; Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan và trường hợp khác do pháp luật quy định.Trong trường hợp việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì người chiếm hữu hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Trên thực tế, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ việc chiếm hữu của mình bằng rất nhiều cách thức khác nhau như tự bảo quản, giữ gìn tài sản.Người chiếm hữu có thể tự mình thực hiện quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại bằng những biện pháp không trái quy định của pháp luật. Hoặc người chiếm hữu có thể yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm việc chiếm hữu thực hiện các trách nhiệm này khi họ.Thứ hai, về quyền sử dụngĐiều 189 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Quyền sử dụng có thể được chuyển giao cho người khác theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật”.Đối với quyền sử dụng của chủ sở hữu, chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; Đồng thời, người không phải là chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo thoả thuận với chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật.Thứ ba, về quyền định đoạtĐiều 192 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu huỷ tài sản”. Pháp luật quy định cho cá nhân là chủ sở hữu hoặc không phải là chủ sở hữu có quyền định đoạt về tài sản, tuy nhiên để có quyền định đoạt thì phải đáp ứng những điều kiện nhất định về năng lực hành vi và các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định: (i) về năng lực hành vi, việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật; (ii) về trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về định đoạt tài sản: trong trường hợp pháp luật có quy định về trình tự, thủ tục định đoạt thì cần phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục đó.Về chủ thể có quyền định đoạt, Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định chủ thể có quyền định đoạt là chủ sở hữu và người không phải chủ sở hữu.Một là, tại Điều 194 có quy định về quyền định đoạt đối với chủ sở hữu như sau: “Chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, tiêu huỷ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản”.Hai là, quyền định đoạt đối với người không phải chủ sở hữu được quy định tại Điều 195: “Người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo uỷ quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của luật”.Bên cạnh đó thì Bộ luật cũng quy định những hạn chế cơ bản của quyền định đoạt, điều đó được thể hiện cụ thể tại Điều 196 Bộ luật Dân sự năm 2015: “1. Quyền định đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp do luật quy định; 2. Khi tài sản đem bán là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hoá theo quy định của Luật di sản văn hoá thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua; Trường hợp cá nhân, pháp nhân có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể đó”.Quyền định đoạt có vai trò rất quan trọng đối với chủ sở hữu, nên pháp luật quy định như vậy là hợp lý để bảo vệ những quyền vốn có của chủ sở hữu.Tóm lại, chế định tài sản và quyền sở hữu được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 là sự kế thừa chế định tài sản trong các Bộ luật Dân sự trước đó, đồng thời cũng đã sửa đổi, bổ sung nhiều vấn đề quan trọng thể hiện sự phát triển của chế định này trong lịch sử xây dựng pháp luật về dân sự. Đây là một đòi hỏi tất yếu của quá trình hoàn thiện các quy định của luật dân sự nước nhà, trong đó chế định tài sản và quyền sở hữu là một trong những chế định trọng tâm, quan trọng của Bộ luật Dân sự, nên việc bổ sung, hoàn thiện chế định này là rất quan trọng, làm cơ sở tiền đề để xây dựng cũng như áp dụng thống nhất các chế định khác có liên quan. ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Hiến pháp năm 2013;2. Bộ luật Dân sự năm 1995;3. Bộ luật Dân sự năm 2005;4. Bộ luật Dân sự năm 2015;5. Nghị quyết số 48/2005/NQ- TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020;6. Nghị Quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020.
Chế định tài sản và quyền sở hữu trong pháp luật dân sự Việt Nam
14/08/2018
Hệ thống pháp luật dân sự của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều có cách tiếp cận khác nhau về chế định tài sản và quyền sở hữu. Vì chế định tài sản và quyền sở hữu có tầm ảnh hưởng rất lớn tới các chế định khác trong pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về hôn nhân và gia đình nói riêng. Nên trong bất kỳ Bộ luật Dân sự nào, từ Bộ luật Dân sự năm 1995, đến Bộ luật Dân sự năm 2005 và gần đây nhất là Bộ luật Dân sự năm 2015 thì các chế định như chế định về thừa kế, chế định về hợp đồng, đặc biệt là chế định về tài sản và quyền sở hữu luôn giữ vị trí trọng tâm của Bộ luật.
Khi xã hội ngày càng phát triển, các quan hệ dân sự và giao lưu dân sự ngày càng được mở rộng thì chế định tài sản và quyền sở hữu lại là chế định cơ bản, quan trọng nhất trong Bộ luật Dân sự nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu tài sản, bảo đảm trật tự trong giao lưu dân sự. Trước yêu cầu thể chế hoá đầy đủ, đồng thời tăng cường các biện pháp để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự, cũng như các tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu trong đó có quyền sở hữu về tài sản, quyền bình đẳng giữa các chủ thể đã được ghi nhận trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, Nghị quyết số 48/2005/NQ- TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị Quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020, Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Dân sự năm 2015. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi sâu phân tích về chế định tài sản và quyền sở hữu được quy định trong Bộ luật Dân sự qua các thời kỳ, trong đó trọng tâm nhấn mạnh chế định tài sản và quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự năm 2015.
1. Chế định tài sản
Tài sản là vấn đề trọng tâm, cơ bản của mọi quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật nói riêng. Khái niệm tài sản đã được Bộ luật Dân sự năm 2015 Điều 105 quy định khá cụ thể tài sản là gì: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; Tài sản bao gồm bất động sản và động sản, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.
Thứ nhất, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản
(1) Vật, là bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan mà con người có thể cảm nhận bằng giác quan của mình. Với ý nghĩa phạm trù pháp lý, vật chỉ có ý nghĩa trở thành đối tượng của quan hệ pháp luật, tức là nó được con người kiểm soát và đáp ứng được một nhu cầu nào đó của con người. Không phải bất kỳ một bộ phận nào của thế giới vật chất cũng đều được coi là vật. Vì vậy, có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này thì được coi là vật nhưng ở dạng khác thì không được coi là vật Ví dụ, ô xi ở dạng không khí trong tự nhiên thì chưa thể được coi là vật vì chưa thể đưa vào để thực hiện được giao dịch dân sự, chỉ khi được nén vào bình, tức là con người có thể nắm giữ, quản lý được thì mới có thể đưa vào giao lưu dân sự và lúc này mới được coi là vật. Như vậy, muốn trở thành vật trong dân sự phải thoả mãn đầy đủ các điều kiện sau: là bộ phận của thế giới vật chất; con người chiếm hữu được, mang lại lợi ích cho chủ thể, có thể đang tồn tại hoặc sẽ hình thành trong tương lai.
Vật được phân loại thành các nhóm khác nhau. Dựa vào mối liên hệ, phụ thuộc về công dụng của vật với nhau mà vật được phân thành vật chính và vật phụ. Vật chính là vật độc lập có thể khai thác theo tính năng (ti vi, điều hoà, máy ảnh…), còn vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật chính, là một bộ phận của vật chính nhưng có thể tách rời vật chính (điều khiển ti vi, vỏ điều hoà, vỏ máy ảnh…). Dựa vào việc xác định giá trị sử dụng của vật khi được chia thành nhiều phần nhỏ mà Bộ luật Dân sự phân chia vật thành vật chia được và vật không chia được. Dựa vào đặc tính, giá trị của các tài sản sau khi sử dụng thì chia thành vật tiêu hao và vật không tiêu hao. Dựa vào các dấu hiệu phân biệt của vật mà người ta phân loại vật thành vật cùng loại và vật đặc định. Ngoài ra, người ta còn chia ra làm vật đồng bộ và vật không đồng bộ.
(2) Tiền, theo Mác thì tiền là một thứ hàng hoá đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hành hoá, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hoá khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá. Bộ luật Dân sự năm 2005 và cả Bộ luật Dân sự năm 2015 đều quy định tiền là một loại tài sản nhưng lại không có quy định để làm rõ bản chất pháp lý của tiền. Chỉ có loại tiền có giá trị đang được lưu hành trên thực tế, tức là được pháp luật thừa nhận, mới được coi là tài sản. Tiền là công cụ thanh toán đa năng, là công cụ tích luỹ tài sản và là thước đo giá trị.
(3) Giấy tờ có giá, được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá hiện nay tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như séc, cổ phiếu, tín phiếu, hồi phiếu, kỳ phiếu, công trái…Xét về mặt hình thức, thì giấy tớ có giá là một chứng chỉ được lập theo hình thức, trình tự luật định. Nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá là thể hiện quyền tài sản, giá của giấy tờ có giá là giá trị quyền tài sản và quyền này được pháp luật bảo vệ. Giấy tờ có giá có tính thanh khoản và là công cụ có thể chuyển nhượng với điều kiện chuyển nhượng toàn bộ một lần, viêc chuyển nhượng một phần giấy tờ có giá là vô hiệu. Ngoài ra, giấy tờ có giá có tính thời hạn, tính có thể đưa ra yêu cầu, tính rủi ro. Ngoài ra còn có các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy đăng ký xe máy, xe ô tô,…không phải là giấy tờ có giá. Những loại giấy tờ này chỉ được coi là một vật thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó.
(3) Quyền tài sản, theo quy định tại Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Quyền là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể và được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền tài sản hiểu theo nghĩa rộng là quyền của cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thực hiện hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi ích vật chất cho mình. Xét theo ý nghĩa này thì quyền sở hữu (vật quyền) cũng là một loại tài sản.
Thứ hai, tài sản bao gồm động sản và bất động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai
Điều 107 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định bất động sản và động sản như sau:
“1. Bất động sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;
c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;
d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản”.
Việc phân loại tài sản thành động sản và bất động sản là cách phân loại tài sản dựa vào đặc tính vật lý của tài sản là có thể di dời được hay không thể di dời được. Bất động sản do đặc tính tự nhiên, được hiểu là các tài sản không thể di dời được do bản chất tự nhiên cấu tạo nên tài sản đó, bao gồm:
Một là, đất đai. Đất đai trong giao lưu dân sự được xác định bằng diện tích đất cùng vị trí của mảnh đất đó. Điều này được thể hiện trên bản đồ địa chính, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận thông qua quyết định giao đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó.
Hai là, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai. Nhà, công trình trên đất được coi là một dạng của bất động sản do đặc tính tự nhiên nếu nó được xây dựng gắn liền với đất bằng một kết cấu chặt chẽ chứ không đơn thuần “đặt” trên đất. Vì vậy, một lều xiếc hay một lán chợ dựng tạm thì không được coi là bất động sản.
Ba là, cây cối, hoa màu và các tài sản khác trên đất như: khoáng sản, cây cối hoa màu trên đất cũng được coi là bất động sản chừng nào người ta chưa khai thác, chặt cây hay hái lượm. Nếu chúng được tách khỏi đất thì chúng trở thành động sản. Giả sử khoáng sản, cây cối, hoa màu tuy vẫn chưa được khai thác nhưng đã là đối tượng của hợp đồng mua bán trước, việc mua bán trước này có làm cho khoáng sản, cây cối hoa màu trở thành động sản hay không cho dù nó vẫn còn ở trên đất? Luật pháp các quốc gia đều cho rằng các tài sản này, trong trường hợp trên thì đã trở thành động sản.
Bốn là, các động sản trở thành bất động sản vì mục đích sử dụng chúng: các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đều được coi là bất động sản. Nhưng trong điều kiện nào thì động sản được coi là gắn liền với nhà, công trình xây dựng? Thông thường, việc gắn một động sản vào nhà, công trình xây dựng thì một mặt phải nhằm tạo một chỉnh thể thống nhất phục vụ cho mục đích sử dụng nhà, công trình đó, mặt khác, việc gắn động sản vào nhà, công trình xây dựng phải do người có quyền (quyền sở hữu hoặc một quyền năng khác) đối với nhà, công trình xây dựng đó thực hiện. Hơn nữa, việc gắn liền phải mang tính chất kiên cố, không thể tháo ra mà không làm hư hại hoặc mất vẻ mỹ quan của nhà, công trình. Ví dụ như hệ thống điện, nước trong nhà, bức tượng, nếu được gắn vào tường một cách kiên cố thì cũng có thể được coi là bất động sản.
Bất động sản do pháp luật quy định, thì ngoài những tài sản là bất động sản kể trên, khi cần thiết bằng các văn bản pháp luật cụ thể, pháp luật có thể quy định những tài sản khác là bất động sản. Ví dụ, Điều 5 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định thì quyền sử dụng đất là bất động sản.
Căn cứ vào thời điểm hình thành tài sản và thời điểm xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Tài sản hiện có là tài sản đã tồn tại vào thời điểm hiện tại và đã được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu của tài sản đó (nhà đã được xây dựng…). Tài sản hình thành trong tương lai được hiểu là tài sản chưa tồn tại hoặc chưa hình thành đồng bộ vào thời điểm xem xét nhưng chắc chắn sẽ có hoặc được hình thành trong tương lai (nhà đang được xây dựng theo dự án, tiền lương sẽ được hưởng…). Ngoài ra, tài sản hình thành trong tương lai có thể bao gồm tài sản đã được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch tài sản đó mới thuộc sở hữu của các bên (tài sản mua bán, thừa kế nhưng chưa hoàn thành thủ tục chuyển giao cho chủ sở hữu).
2. Chế định về quyền sở hữu
Theo quy định tại Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”.
Thứ nhất, về quyền chiếm hữu thì Điều 179 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “1. Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản; (2). Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu không phải là chủ sở hữu. Việc chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu không thể là căn cứ xác lập quyền sở hữu, trừ trường hợp quy định tại các điều 228, 229, 230, 231, 232, 233 và 236 của Bộ luật này”.
Khác với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, ở đây thì Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận và tách quyền chiếm hữu thành một điều luật độc lập, thể hiện cách tiếp cận mới và đặc biệt tiến bộ của các nhà làm luật. Theo đó, chế định chiếm hữu được xem là một chế định độc lập so với chế định sở hữu. Việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản là sự chiếm hữu tài sản thực tế kết hợp với ý chí của người chiếm hữu.
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra khái niệm chiếm hữu ngay tình rộng hơn so với Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo đó, chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu, bao gồm hai loại: chiếm hữu có căn cứ pháp luật và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình. Việc chiếm hữu có căn cứ pháp luật được ghi nhận tại Điều 165 bao gồm: Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản; người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; các trường hợp khác do pháp luật quy định. Việc chiếm hữu không phù hợp với những nội dung trên được coi là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật”. Ở đây, so với Bộ luật Dân sự năm 2005, người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình thì không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản là không có căn cứ pháp luật (yếu tố khách quan) tức là không buộc chủ thể nhận thức được việc chiếm hữu của mình là không có căn cứ pháp luật, trong trường hợp này, dù không đòi hỏi điều kiện phải biết về tình trạng chiếm hữu của tài sản nhưng người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình này có thể có sự nghi ngờ, chưa thực sự chắc chắn vào việc chiếm hữu của mình là hợp pháp hay không hợp pháp.
Đối lập với chiếm hữu ngay tình, thì chiếm hữu không ngay tình là trường hợp đòi hỏi người chiếm hữu phải nhận thức được mình không có quyền đối với tài sản, và việc chiếm hữu này không có căn cứ pháp luật. Biết và buộc phải biết mình không có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu của người chiếm hữu là có căn cứ pháp lý để pháp luật buộc họ phải chấm dứt việc chiếm hữu thực tế bất hợp pháp đối với tài sản, hoàn trả lại tài sản cho chủ thể có quyền sở hữu đối với tài sản, đồng thời phải bồi thường thiệt hại (nếu có) do hành vi chiếm hữu bất hợp pháp của mình gây ra (Điều 579 và khoản 1 Điều 581 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Đối với những trường hợp đòi hỏi người chiếm hữu biết hoặc phải biết việc chiếm hữu của mình là không ngay tình thì thường liên quan đến các loại tài sản có đăng ký quyền sở hữu như bất động sản, động sản đăng ký quyền sở hữu: ví dụ một người mua một chiếc xe máy từ một chủ thể khác không có giấy chứng nhận quyền sở hữu chiếc xe máy, trong khi đòi hỏi người mua phải yêu cầu chứng minh quyền được bán hợp pháp của người bán; đối với loại tài sản thuộc sở hữu chung và các đồng chủ sở hữu phải thể hiện ý chí chuyển giao quyền cho người đang chiếm hữu tài sản; liên quan đến việc chuyển giao quyền chiếm hữu của chủ thể không có quyền chuyển giao quyền chiếm hữu (người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế năng lực hành vi dân sự), ví dụ: một người vì ham rẻ nên đã đồng ý mua một dàn loa giá trị 300 triệu với giá 50 triệu từ một em bé 12 tuổi.
Bên cạnh đó, đối với chiếm hữu liên tục được quy định tại Điều 185 Bộ luật Dân sự năm 2015 được hiểu là việc chiếm hữu về mặt thực tế và mặt pháp lý của một chủ sở hữu đối với tài sản. Chiếm hữu về mặt thực tế là việc chủ sở hữu, hoặc người có quyền chiếm hữu tự mình giữ tài sản. Khi chủ sở hữu trao quyền chiếm hữu tài sản cho một chủ thể khác thì chủ sở hữu chỉ có quyền chiếm hữu về mặt pháp lý đối với tài sản, còn chủ thể được chủ sở hữu trao quyền chiếm hữu chỉ có quyền chiếm hữu thực tế đối với tài sản. Đây là trường hợp sở hữu trao quyền chiếm hữu thực tế một cách tự nguyện. Ví dụ: Ông A vào bệnh viện khám bệnh, gửi xe của mình cho người trông xe tên B ở bãi giữ xe của bệnh viên, thì trường hợp này, ông A là người chiếm hữu về mặt pháp lý đối với tài sản là chiếc xe máy, còn ông B là người chiếm hữu về mặt thực tế đối với tài sản là chiếc xe máy đó.
Đồng thời, tính liên tục của chiếm hữu được ghi nhận bao gồm hai điều kiện: (1) Việc chiếm hữu diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định; (2) Không có tranh chấp về quyền đối với tài sản hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác. Việc chiếm hữu của chủ thể không bị gián đoạn trong quá trình chiếm hữu, đồng thời không xảy ra các tranh chấp về quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng…đối với tài sản, hoặc nếu có loại tranh chấp này thì chưa được giải quyết tại Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền bằng một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật.
Điều 190 Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ ghi nhận chiếm hữu liên tục trong một khoảng thời gian và không có tranh chấp về tài sản thì đến Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung thêm trường hợp có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác. Như vậy theo tinh thần của điều luật này thì dù việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời gian mà có tranh chấp hay không có tranh chấp về quyền đối với tài sản thì vẫn được coi là chiếm hữu liên tục.
Chiếm hữu công khai được thể hiện chính là ở việc người chiếm hữu thực hiện các tác động vật chất đối với tài sản một cách minh bạch, không giấu giếm. Người chiếm hữu có thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách rõ ràng, không che giấu vì một ý đồ gì. Cần phân biệt việc chiếm hữu giấu giếm với trường hợp chiếm hữu với loại tài sản đặc thù không thể hiện ra bên ngoài, ví dụ: mua vàng để cất giữ trong két sắt, dù không thể hiện ra bên ngoài cho các chủ thể khác biết về việc để dành tài sản là vàng này nhưng người chiếm hữu này không hướng đến việc giấu giếm nhằm một ý đồ gì. Ngoài ra, chiếm hữu công khai còn thể hiện qua việc chủ thể chiếm hữu có đầy đủ căn cứ chứng minh tình trạng chiếm hữu của mình đối với tài sản, thể hiện tính minh bạch trong việc chiếm hữu tài sản.
Việc chiếm hữu liên tục, công khai vừa có ý nghĩa trong xác định và bảo vệ quyền sở hữu của chủ sở hữu, vừa là căn cứ quan trọng để xác định quyền sở hữu theo thời hiệu theo quy định tại Điều 236 Bộ luật Dân sự năm 2015: “ Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan có quy định khác”.
Điều 184 về suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu là điều luật mới được ghi nhận trong nội dung Chiếm hữu của Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, chủ thể chiếm hữu tài sản được suy đoán là ngay tình. Sự suy đoán này dựa trên cơ sở sự chiếm hữu thực tế đối với tài sản của chủ thể chiếm hữu, bao gồm: (1) Người chiếm hữu tài sản dựa trên cơ sở sự thỏa thuận với chủ sở hữu. Họ là người kiểm soát thực tế đối với tài sản đồng thời thừa nhận mình không có quyền sở hữu đối với tài sản đó. Họ chiếm hữu tài sản dựa trên ý chí của người khác. (2) Người chiếm hữu tài sản không dựa trên sự thỏa thuận với chủ sở hữu. Đó là những trường hợp chiếm hữu dựa trên quy định của pháp luật hoặc thông qua hành vi bất hợp pháp. Trong trường hợp này, ngoài việc chiếm giữ tài sản, họ còn mong muốn chiếm hữu tài sản theo ý chí của mình.
Trong hai trường hợp trên, dù là nguồn gốc việc chiếm hữu tài sản là từ đâu thì người chiếm hữu tài sản luôn được suy đoán là ngay tình. Người cho rằng chủ thể chiếm hữu đó không ngay tình thì phải chứng minh, sự chứng minh này hướng đến việc phủ nhận quyền chiếm hữu thực tế của chủ thể đang nắm giữ tài sản. Đây là một quy định hướng đến việc bảo vệ quyền hiện hữu của chủ thể chiếm hữu tài sản (đó là chủ sở hữu, người có quyền chiếm hữu hay thậm chí là tình trạng chiếm hữu của chủ thể).
Khi xảy ra tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được ưu tiên suy đoán là người có quyền đó. Việc chứng minh người chiếm hữu không có quyền thuộc về người có tranh chấp với người chiếm hữu. Trong trường hợp chủ sở hữu của tài sản phủ nhận quyền của người chiếm hữu thì cũng không có ngoại lệ, đòi hỏi chủ sở hữu phải đưa ra các căn cứ chứng minh quyền sở hữu tài sản của mình cũng như chứng minh người chiếm hữu không có quyền đối với tài sản. Ví dụ: A là chủ sở hữu một chiếc xe máy, A cho B mượn, sau đó B bán chiếc xe máy đó cho C. A muốn phủ nhận việc chiếm hữu xe máy của C thì A phải chứng minh quyền sở hữu của mình, có thể thông qua dấu hiệu đặc trưng của tài sản, qua giấy đăng ký quyền sở hữu xe máy,…
Việc chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai được coi là căn cứ để áp dụng thời hiệu hưởng quyền và hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài sản mang lại. Đây là một quy định mới trong BLDS 2015 hướng đến việc bảo vệ việc chiếm hữu có căn cứ pháp luật của chủ thể. Chủ thể chiếm hữu tài sản này bao gồm: Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản; Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan và trường hợp khác do pháp luật quy định.
Trong trường hợp việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì người chiếm hữu hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Trên thực tế, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ việc chiếm hữu của mình bằng rất nhiều cách thức khác nhau như tự bảo quản, giữ gìn tài sản.
Người chiếm hữu có thể tự mình thực hiện quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại bằng những biện pháp không trái quy định của pháp luật. Hoặc người chiếm hữu có thể yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm việc chiếm hữu thực hiện các trách nhiệm này khi họ.
Thứ hai, về quyền sử dụng
Điều 189 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Quyền sử dụng có thể được chuyển giao cho người khác theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật”.
Đối với quyền sử dụng của chủ sở hữu, chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; Đồng thời, người không phải là chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo thoả thuận với chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, về quyền định đoạt
Điều 192 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu huỷ tài sản”. Pháp luật quy định cho cá nhân là chủ sở hữu hoặc không phải là chủ sở hữu có quyền định đoạt về tài sản, tuy nhiên để có quyền định đoạt thì phải đáp ứng những điều kiện nhất định về năng lực hành vi và các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định: (i) về năng lực hành vi, việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật; (ii) về trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về định đoạt tài sản: trong trường hợp pháp luật có quy định về trình tự, thủ tục định đoạt thì cần phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục đó.
Về chủ thể có quyền định đoạt, Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định chủ thể có quyền định đoạt là chủ sở hữu và người không phải chủ sở hữu.
Một là, tại Điều 194 có quy định về quyền định đoạt đối với chủ sở hữu như sau: “Chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, tiêu huỷ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản”.
Hai là, quyền định đoạt đối với người không phải chủ sở hữu được quy định tại Điều 195: “Người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo uỷ quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của luật”.
Bên cạnh đó thì Bộ luật cũng quy định những hạn chế cơ bản của quyền định đoạt, điều đó được thể hiện cụ thể tại Điều 196 Bộ luật Dân sự năm 2015: “1. Quyền định đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp do luật quy định; 2. Khi tài sản đem bán là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hoá theo quy định của Luật di sản văn hoá thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua; Trường hợp cá nhân, pháp nhân có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho các chủ thể đó”.
Quyền định đoạt có vai trò rất quan trọng đối với chủ sở hữu, nên pháp luật quy định như vậy là hợp lý để bảo vệ những quyền vốn có của chủ sở hữu.
Tóm lại, chế định tài sản và quyền sở hữu được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 là sự kế thừa chế định tài sản trong các Bộ luật Dân sự trước đó, đồng thời cũng đã sửa đổi, bổ sung nhiều vấn đề quan trọng thể hiện sự phát triển của chế định này trong lịch sử xây dựng pháp luật về dân sự. Đây là một đòi hỏi tất yếu của quá trình hoàn thiện các quy định của luật dân sự nước nhà, trong đó chế định tài sản và quyền sở hữu là một trong những chế định trọng tâm, quan trọng của Bộ luật Dân sự, nên việc bổ sung, hoàn thiện chế định này là rất quan trọng, làm cơ sở tiền đề để xây dựng cũng như áp dụng thống nhất các chế định khác có liên quan.
ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp năm 2013;
2. Bộ luật Dân sự năm 1995;
3. Bộ luật Dân sự năm 2005;
4. Bộ luật Dân sự năm 2015;
5. Nghị quyết số 48/2005/NQ- TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020;
6. Nghị Quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020.