Đặt vấn đề
Gia đình là nền tảng của xã hội, được xác lập trên cơ sở tình yêu tự nguyện từ hai phía. Đối với gia đình thì tình cảm, sự yêu thương gắn bó giữa vợ chồng là một điều rất quan trọng, tuy nhiên, để có thể hướng tới một cuộc hôn nhân ổn định, lâu dài, bền vững thì một vấn đề vô cùng quan trọng cần phải quan tâm đến đó chính là đời sống vật chất, kinh tế, tiền bạc, tài sản của vợ chồng.Chính vì thế, chế định tài sản của vợ chồng luôn được các nhà nghiên cứu luật pháp quan tâm, nghiên cứu, xây dựng thành một chế định riêng, cơ bản, quan trọng nhất được quy định cứng trong Luật Hôn nhân và Gia đình qua tất cả các thời kỳ, từ Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959, năm 1986, năm 2000 và gần đây nhất là Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi sâu phân tích về chế định tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật Hôn nhân và Gia đình, trong đó trọng tâm đi sâu về tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được quy định rất cụ thể trong Luât Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
1. Khái niệm
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
Tài sản chung của vợ,chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung; quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng; Ở đây, tác giả sẽ đi sâu phân tích kỹ về tài sản là thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân thì có thể là khoản tiền thưởng, tiền trúng xổ số, tiền trợ cấp mà không phải là khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng, quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng. Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo định của Bộ luật Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước và thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật; Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng được coi là tài sản tự nhiên mà vợ, chồng có được từ tài sản riêng của mình; Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là khoản lợi mà vợ, chồng thu được từ việc khai thác tài sản riêng của mình.
Điều 34 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác. Trong khi đó, Điều 98 Luật Đất đai năm 2013 quy định về nguyên tắc cấp Giấy chứng nhận: Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng thì phải ghi tên cả hai vợ chồng vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, trừ trường hợp vợ và chồng có thoả thuận ghi tên một người; chẳng hạn như tại Thông tư số 15/2014/TT – BCA ngày 04/04/2014 của Bộ Công an về đăng ký xe, Điều 25 quy định: Xe là tài sản chung của vợ, chồng thì chủ xe tự nguyện khai là tài sản chung của vợ chồng, phải ghi đầy đủ họ tên, chữ ký của vợ, chồng trong giấy đăng ký xe.
Như vậy, đối với những tài sản có giá trị lớn, pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng, thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng, trong đó tài sản chung của vợ chồng sẽ được thể hiện cả tên vợ và chồng trên những giấy chứng nhận sở hữu, sử dụng và khi thực hiện các quyền đối với những tài sản chung này thì phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.
Đối với tài sản riêng của vợ, chồng. Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được chia riêng cho vợ, chồng do vợ, chồng thoả thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Như vậy, tài sản riêng có hai thời điểm hình thành, đó là có trước, có trong thời kỳ hôn nhân và có thể nhận diện qua thời điểm các tài sản này được xác lập, cấp giấy chứng nhận sở hữu, sử dụng.
2.
Căn cứ xác định và phân chia tài sản của vợ, chồng
Thứ nhất, về căn cứ xác định và phân chia tài sản chung của vợ, chồng.
Một là, về căn cứ xác định tài sản chung của vợ, chồng.
Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”. Theo đó, khi công dân có quyền sở hữu các tài sản thì các tài sản đó được công nhận là tài sản hợp pháp của họ. Vợ, chồng là những cá nhân và họ đương nhiên có các quyền đó. Khi có quyền sở hữu tài sản thì mới có thể tạo lập nên khối tài sản dù là tài sản chung hay tài sản riêng của cá nhân trong xã hội.
Thể chế hoá quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ Luật dân sự năm 2015, Điều 213 quy định về sở hữu chung của vợ chồng:
“1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3. Vợ chồng thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản chung.
4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận hoặc theo quyết định của Toà án.
5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thoả thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này”.
Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 lại quy định khá cụ thể về chế định tài sản chung của vợ chồng:
“. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tà sản chung”.
Luật dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự nói chung, quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá - tiền tệ nói riêng và các quan hệ nhân thân khác trên cơ sở bình đẳng, độc lập của chủ thể khi tham gia các quan hệ đó. Luật Dân sự và Luật Hôn nhân Gia đình đều có chung một đối tượng điều chỉnh là nhóm quan hệ nhân thân và tài sản trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong đó, Bộ luật Dân sự 2015 có một số quy định cụ thể về vấn đề sở hữu, chiếm hữu, định đoạt và thừa kế tài sản. Qua đó, các quy định được nêu nhằm xác định các trường hợp xác lập tài sản chung của vợ chồng.
Hai là, về căn cứ phân chia tài sản chung của vợ, chồng.
Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:
“ Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thoả thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này, nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết. Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Toà án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 của Luật này”. Như vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng có thể được giải quyết theo thoả thuận của vợ chồng hoặc thông qua con đường Toà án. Bên cạnh đó, thoả thuận về việc chia tài sản chung của vợ chồng phải được lập thành văn bản, có công chứng theo quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu của vợ chồng.
Tại Thông tư số 01/2016/TTLT-TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày 06/01/2016 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:
(1) Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thoả thuận với nhau về toàn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng không thoả thuận được mà có yêu cầu thì Toà án phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận hay theo luật định, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án xử lý như sau: Trường hợp không có văn bản thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận hay theo luật định, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án xử lý như sau: Trường hợp không có văn bản thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng hoặc văn bản thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Toà án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thoả thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không được vợ chồng thoả thuận hoặc thoả thuận không rõ ràng hoặc bị vô hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 và các Điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
(2) Khi giải quyết ly hôn, nếu có yêu cầu tuyên bố thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu thì Toà án xem xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
(3) Khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, Toà án phải xác định vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người thứ ba và tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba mà họ có yêu cầu giải quyết thì Toà án phải giải quyết khi chia tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ với người thứ ba mà người thứ ba không yêu cầu giải quyết thì Toà án hướng dẫn họ để giải quyết bằng một vụ án khác.
(4) Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau: (i) “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng” là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng; (ii) “Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung” là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn; (iii) “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập” là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự; (iiii) “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn.
Thứ hai, về căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng
Nhìn từ góc độ so sánh với Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có thể thấy:
Một là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã bỏ căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng là “đồ dùng, tư trang cá nhân”. Điều này xuất phát từ nhu cầu giải quyết những bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật đối với căn cứ không phù hợp nói trên. Bởi, theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì cứ là đồ dùng, tư trang cá nhân thì đều là tài sản riêng của vợ, chồng mà không có quy định nào hạn chế giá trị tài sản, không quy định loại tài sản nào được xem là đồ dùng, tư trang cá nhân thuộc sở hữu riêng; bên cạnh đó, pháp luật cũng không xem xét nguồn gốc hình thành đồ dùng, tư trang là tài sản chung hay riêng. Do vậy, có thể hiểu người nào (vợ hoặc chồng) quản lý, sử dụng tài sản đó sẽ được xác định là tài sản riêng của người đó. Với quy định như vậy rõ ràng là không phù hợp, vô tình đã tạo khe hở cho vợ hoặc chồng chuyển dịch trái phép tài sản chung sang tài sản riêng, gây thiệt hại cho bên còn lại.
Ngoài ra, xuất phát từ văn hoá truyền thống của người Việt Nam trong việc tặng, cho con cái các loại tư trang vào ngày cưới hỏi, văn hoá cất giữ tiền bạc thông qua các loại tư trang; vì vậy, thiết nghĩ các món trang sức trong trường hợp này được ghi nhận như một sự tích luỹ của cải vật chất của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, mang thuộc tính “tiền tệ”, như một phương thức cất giữ, tiết kiệm tài sản chung của gia đình. Do đó, việc pháp luật Hôn nhân gia đình bỏ căn cứ nên trên là hoàn toàn phù hợp và được xem là bước tiến mới trong quá trình sửa đổi luật
Hai là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xác định cụ thể khối tài sản hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng chính là tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Trước đây, Luật Hôn nhân và Gia đình cũ (Luật năm 2000), đưa ra những căn cứ xác định tài sản chung, đồng thời lại vừa đưa ra những căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng. Quy định như vậy thì về cơ bản đã khá rõ ràng cho việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, thực tế giải quyết tranh chấp vẫn xảy ra những trường hợp tài sản “mập mờ” chưa được xác định là tài sản chung hay tài sản riêng, bởi nó không thuộc trường hợp theo quy định tại Điều 27 và Điều 32 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, do vậy, loại tài sản trên đã được Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xác định cụ thể đó là tài sản riêng của vợ, chồng là một minh chứng cụ thể. Do đó, việc Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xác định tài sản hình thành từ tài sản riêng của vợ chồng đó chính là tài sản riêng của vợ, chồng. Đây là một bước tiến bộ, đảm bảo quyền tài sản riêng của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho quá trình áp dụng pháp luật.
Ba là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã đưa ra căn cứ xác định tài sản riêng còn là các “tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình”. Sở dĩ, pháp luật quy định nhóm tài sản này thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng là dựa vào đặc điểm cũng như tác dụng của nó. Đảm bảo được quyền tự do cá nhân cũng như các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Tuy nhiên, như thế nào được coi là “thiết yếu” thì đây là một vấn đề cần được xem xét. Đối với những cá nhân hoặc những gia đình có mức sống khác nhau thì khái niệm đồ dùng thiết yếu sẽ không giống nhau. Chẳng hạn như, đối với cá nhân này thì những vật dụng như xoong, nồi, bát đĩa, giày dép, quần áo là những đồ dùng thiết yếu hàng ngày, nhưng đối với cá nhân khác thì lại xem những vật dụng như điện thoại, laptop, ô tô, tủ lạnh… là những đồ dùng thiết yếu của mình, do vậy nó tuỳ thuộc vào điều kiện sống của mỗi cá nhân cụ thể là khác nhau. Việc pháp luật quy định cụ thể như vậy được coi là một bước đột phá tiến bộ, linh hoạt và đã thể hiện rất rõ việc trao quyền tài phán cho cơ quan xét xử (Toà án) trong việc xem xét để giải quyết vụ việc dựa trên hoàn cảnh cụ thể của từng cá nhân, gia đình khi phát sinh quan hệ pháp luật tranh chấp.
Bốn là, tài sản riêng của vợ, chồng còn gồm các loại tài sản mà theo quy định của pháp luật đó là tài sản riêng của vợ, chồng. Quy định này tưởng chừng chỉ là căn cứ để dự liệu cho các trường hợp pháp luật chưa dự liệu hết nhưng thực tế nó lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và vô cùng lớn trong quá trình nhận thức và là cơ sở pháp lý vững chắn trong việc áp dụng pháp luật - điều mà trước đây, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 chưa thể hiện được. Với quy định như vậy đã giúp dẫn chiếu cho việc áp dụng các quy định của văn bản pháp luật khác trong việc xác định cụ thể các loại tài sản, đặc biệt là tài sản thuộc sở hữu riêng của vợ chồng được hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Chẳng hạn như, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP TANGTC ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, xác định tài sản mà người có công với cách mạng được nhận trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của người đó, hay dẫn chiếu xác định tài riêng của vợ, chồng dựa vào thoả thuận chế độ tào sản chung sống.
Năm là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định tài sản mà vợ, chồng thoả thuận là tài sản riêng của mỗi bên theo thoả thuận về chế độ tài sản được lập trước khi kết hôn là tài sản riêng của mỗi người. Đây tiếp tục lại là một bước đột phá lớn nữa trong việc quy định chế độ tài sản của vợ, chồng, đảm bảo phù hợp theo nguyên tắc tự thoả thuận và định đoạt của pháp luật dân sự; đảm bảo phù hợp với tình hình mới trong quan hệ hôn nhân gia đình trong điều kiện nhu cầu ngày càng cao trong việc chủ động đầu tư, sản xuất kinh doanh để phát triển kinh tế là tài sản của bản thân cá nhân và gia đình; đây cũng được xem là một trong những giải pháp hữu hiệu trong việc phân định và bảo vệ tài sản của mỗi bên vợ, chồng trong điều kiện mà khối tài sản có trước khi kết hôn của các cặp vợ chồng ngày càng tăng. Ngoài ra, để đảm bảo giữ vững tính cộng đồng của hôn nhân, đảm bảo cho lợi ích chung của gia đình, con cái, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã đưa ra những nguyên tắc, những điều kiện có hiệu lực của thoả thuận, đồng thời giao cho Toà án tối cao tiếp tục hoàn thiện các điều kiện có hiệu lực của thoả thuận.
Như vậy, có thể thấy với sự phát triển mạnh mẽ của xã hội hiện nay thì các quan hệ cũng thay đổi cho phù hơp với xu thế của xã hội, do đó pháp luật cũng luôn phải thay đổi theo để bắt kịp với những thay đổi đó. Sự ra đời của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thay thế Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 là một sự thay đổi tiến bộ phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước; phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với Hiến pháp năm 2013 - một đạo luật gốc, là cơ sở, nền tảng cho việc điều chỉnh các Luật chuyên ngành. Việc quy định chế định tài sản của vợ chồng (trong đó bao gồm cả tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân) là điều rất cần thiết, đáp ứng được những yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống kinh tế, xã hội, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của người dân trong một xã hội mới, của một nhà nước mà quyền và lợi ích của người dân được đặt lên trên, phu hợp với tiến trình của một nhà nước Pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp năm 2013.
2. Luật Đất đai năm 2013.
3. Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
5. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
6. Thông tư số 01/2016/TTLT-TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày 06/01/2016 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.