Đặt vấn đề
Chứng cứ trong tố tụng nói chung, chứng cứ trong tố tụng hình sự nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng mang tính mấu chốt trong suốt quá trình tố tụng (từ giai đoạn điều tra, đến giai đoạn truy tố và cuối cùng là giai đoạn xét xử) một vụ án hình sự. Bởi chứng cứ là phương tiện để chứng minh, xác định các sự kiện, tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án hình sự. Vậy, chứng cứ là gì và gồm những nguồn nào…đó là những vấn đề đòi hỏi cơ quan lập pháp và các cơ quan tiến hành tố tụng nghiên cứu giải quyết. Việc nghiên cứu chứng cứ có ý nghĩa không chỉ về mặt pháp lý, mà còn có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đi sâu phân tích về “Chế định chứng cứ, nguồn chứng cứ trong khoa học tố tụng hình sự Việt Nam” để độc giả hiểu, cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tham khảo trong quá trình giải quyết án.
1. Chế định chứng cứ
Điều 86 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Chứng cứ là những gì có thật được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Như vậy, có thể thấy rằng, chứng cứ bao gồm các thuộc tính: tính khách quan (có thật), hợp pháp và liên quan, đó là những nội hàm chính trong khái niệm chứng cứ, giống như quy định trước đây tại Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2003.
Tuy nhiên trong khái niệm chứng cứ có nội dung mới quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự, đó chính là “chủ thể” sử dụng chứng cứ. Tại Điều 64 BLTTHS 2003 quy định rõ chủ thể sử dụng chứng cứ là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án (các cơ quan tiến hành tố tụng), như vậy BLTTHS 2015 đã không quy định “chủ thể” sử dụng chứng cứ trong khái niệm về chứng cứ, đó chính là quy định “mở”, tiến bộ trong tố tụng hình sự, tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng, đặc biệt là người bị buộc tội, người bào chữa, bị hại... có thể tham gia vào quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự.
Điều này được quy định rõ hơn trong việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt; người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người bào chữa đều có quyền
“Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”. Đồng thời bổ sung thêm quyền và nghĩa vụ cho người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự có quyền
“kiểm tra, đánh giá chứng cứ”.
2. Nguồn chứng cứ
Chứng cứ trong vụ án hình sự là những gì có thật liên quan đến vụ án hình sự mà dựa vào nó, các cơ quan tiến hành tố tụng dùng làm căn cứ xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, mức độ, tính chất hành vi và từ những tình tiết khác liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Còn nguồn chứng cứ là hình thức, nơi chứa đựng những gì có thật liên quan đến vụ án hình sự hay là “
nơi, từ đó có thể tìm ra đối tượng được chủ thể sử dụng để chứng minh”
[1]. Do đó, việc làm rõ khái niệm chứng cứ và nguồn chứng cứ, cũng như làm sáng tỏ các loại nguồn chứng cứ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng để vụ án được giải quyết khách quan, chính xác và đúng pháp luật.
Điều 87 BLTTHS 2015 quy định:
1. Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn:
a) Vật chứng;
b) Lời khai, lời trình bày;
c) Dữ liệu điện tử;
d) Kết luận giám định, định giá tài sản;
đ) Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;
e) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác;
g) Các tài liệu, đồ vật khác.
2. Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự .
Như vậy so với BLTTHS 2003 thì BLTTHS 2015 ngoài việc quy định cụ thể, rõ ràng hơn một số nguồn chứng cứ như:
lời trình bày, biên bản trong hoạt động khởi tố, thi hành án, đã bổ sung thêm các nguồn chứng cứ là:
Dữ liệu điện tử; định giá tài sản; kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế. Đồng thời Khoản 2 điều này đòi hỏi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải kiểm tra đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ đã thu thập được về vụ án.
2.1. Vật chứng
Vật chứng là một nguồn chứng cứ quan trọng mà thông qua nó các cơ quan tiến hành tố tụng có thể chứng minh được sự việc hoặc định hướng điều tra. Theo Điều 89 BLTTHS năm 2015, vật chứng được hiểu là “
vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩ trong việc giải quyết vụ án”. Với quy định trên, vật chứng có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, vật chứng là vật cụ thể, tồn tại dưới dạng vật chất, sự thể hiện của vật chứng rất phong phú với đủ hình dạng, kích cỡ, trọng lượng, màu sắc… song một điều cơ bản là để những vật thể đó trở thành chứng cứ thì nó phải
liên quan đến vụ án hình sự.
Thứ hai, vật chứng chứa đựng và phản ánh trong mình những sự kiện thực tế liên quan đến vụ án, sự liên quan này có thể ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp nhưng quan trọng nó phải nằm trong mối liên quan tổng thể của vụ án hình sự và phải là: những vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; những vật mang dấu vết tội phạm; đối tượng của tội phạm mà người phạm tội tác động đến; tiền và những vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
Vật chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng, nó ghi nhận chính xác những sự kiện thực tế của vụ án nên giá trị chứng minh của nó trong vụ án hình sự có thể là rất cao. Vật chứng là chứng cứ mang tính vật chất, nó tồn tại độc lập, khách quan và không bị chi phối bởi ý thức chủ quan của con người.
2.2. Lời khai, lời trình bày
Lời khai trong vụ án hình sự có thể nói cũng là một nguồn chứng cứ rất quan trọng. Cơ quan điều tra sử dụng hoạt động nghiệp vụ của mình để có được những lời khai, còn Hội đồng xét xử có vai trò thẩm định lại những lời khai đó một lần nữa tại phiên tòa. Trên cơ sở này, lời khai mang các ý nghĩa, giá trị khác nhau như: lời khai của bị can, bị cáo thể hiện thái độ thừa nhận hay phủ nhận hành vi phạm tội, lời khai của người làm chứng thể hiện sự hiểu biết của họ đối với những tình tiết liên quan của vụ án… Sự hình thành lời khai là một quá trình vô cùng phức tạp, nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan khác nhau.
Dạng nguồn chứng cứ thứ hai này có sự khác biệt so với vật chứng. Theo đó, nếu vật chứng là một vật cụ thể được xác định, mang tính vật chất và nó phản ánh khách quan về vụ án thì lời khai của các đối tượng trên lại được hình thành từ tư duy, ý thức của con người. Chính vì vậy, tính khách quan của lời khai không được đảm bảo như vật chứng, đặc biệt là trong trường hợp người khai báo lại có mối liên quan ít hay nhiều đến vụ án. Tùy từng đối tượng tham gia với tư cách nào trong vụ án như: bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự… và mối quan hệ của họ với nhau mà mỗi lời khai lại có những ảnh hưởng của đặc điểm tâm lý khác nhau.
Lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan đến vụ án, người tố giác tin báo về tội phạm, người chứng kiến được xem xét là nguồn chứng cứ.
2.3. Dữ liệu điện tử
Sự phát triển không ngừng nghỉ của khoa học công nghệ hiện đại, thế giới đang biến đổi nhanh chóng. Công nghệ thông tin trở thành phương tiện đa năng, công cụ đắc lực, hữu ích cho con người. Bên cạnh đó, sự phát triển của công nghệ thông tin cũng đang bị lợi dụng để thực hiện các hoạt động phạm tội; với tính ưu việt của công nghệ thông tin, hành vi phạm tội được thực hiện ngày càng tinh vi, nguy hiểm và gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Trước đây, nguồn chứng cứ được ghi nhận chủ yếu bằng văn bản, vật chứng nhưng lại chưa thừa nhận các phương tiện khác như: Phương tiện điện tử, ghi âm, ghi hình, thẻ nhớ, … vô hình chung đã bỏ sót nhiều dữ liệu quan trọng lưu giữ các dấu vết của tội phạm. Khắc phục những thiếu sót này, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung “Dữ liệu điện tử” là một nguồn chứng cứ quan trọng và đặc thù (điểm c khoản 1 Điều 87). Đồng thời dữ liệu điện tử được cụ thể hóa tại Điều 99 BLTTHS:
“1. Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử”.
Dữ liệu điện tử là một nguồn chứng cứ đặc thù bởi lẽ: Dữ liệu điện tử không giống với nguồn chứng cứ thông thường, không phải là sự vật hay sự kiện như quan niệm trước đây, đây là những ký tự dưới dạng số hóa được lưu giữ trong phương tiện, thiết bị điện tử hoặc trên mạng thông tin toàn cầu qua quá trình xử lý sẽ cho ra các dữ liệu bao gồm số, chữ viết, âm thanh, hình ảnh... từ đó cung cấp thông tin liên quan đến sự kiện phạm tội. Do đó việc BLTTHS 2015 quy định “Dữ liệu điện tử” là nguồn chứng cứ có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện sự tiến bộ cao trong trong tiến trình xây dựng luật tố tụng của nước ta.
2.4. Kết luận giám định, định giá tài sản.
Đây cũng một nguồn chứng cứ quan trọng về tình tiết của vụ án mà việc xem xét nó dựa trên kiến thức chuyên môn, khoa học kĩ thuật… làm căn cứ vạch ra sự thật khách quan của vụ án hình sự. Bởi lẽ, kiến thức của những người tiến hành tố tụng là có giới hạn, do đó những vấn đề thuộc về chuyên môn, lĩnh vực chuyên ngành phải do cơ quan giám định đánh giá và cho ý kiến mới đưa ra kết luận chính xác. Kết luận giám định là một phán quyết mang tính khoa học bởi nó chỉ dựa trên cơ sở khoa học và không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người nên khi tìm ra sự thật của vụ án, giá trị chứng minh của kết luận giám định bao giờ cũng mang tính khách quan hơn các nguồn chứng cứ khác. Xuất phát từ tầm quan trọng của kết luận giám định trong vụ án hình sự mà người giám định phải chịu trách nhiệm về kết luận của mình nếu có kết luận gian dối vì động cơ cá nhân thì sẽ bị xử lý quy định của pháp luật. Trường hợp giám định do một nhóm người thực hiện mà kết luận không đồng nhất thì mỗi người được góp ý kiến riêng của mình vào kết luận giám định. Do đó, việc đưa ra kết luận giám định đòi hỏi đạo đức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm cao bởi nhiều kết luận có ý nghĩa quan trọng liên quan đến tính mạng, uy tín danh dự của một con người. Cho nên nhằm khẳng định về mặt hình thức pháp lý của kết luận giám định, đồng thời chặt chẽ về kỹ thuật lập pháp, BLTTHS năm 2015 quy định: “
Kết luận giám định phải được thể hiện bằng văn bản” (khoản 1 Điều 100).
Ngoài kết luận giám định thì kết luận định giá tài sản cũng được coi là nguồn của chứng cứ và được cụ thể hóa tại Điều 101 BLTTHS năm 2015:
“1. Kết luận định giá tài sản là văn bản do Hội đồng định giá tài sản lập để kết luận về giá của tài sản được yêu cầu. Hội đồng định giá tài sản kết luận giá của tài sản và phải chịu trách nhiệm về kết luận đó.
2. Kết luận định giá tài sản phải có chữ ký của tất cả thành viên Hội đồng định giá tài sản.Trường hợp không đồng ý với giá của tài sản do Hội đồng quyết định thì thành viên của Hội đồng ghi ý kiến kết luận của mình vào bản kết luận.
3. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không đồng ý với kết luận định giá tài sản thì phải nêu rõ lý do; nếu kết luận chưa rõ thì quyết định định giá lại theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật này.
4. Kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản vi phạm quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật về định giá thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án.”
Cho đến nay, Nhà nước ta chưa có văn bản luật về định giá tài sản. Tuy nhiên, ngày 02/3/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 26/2005/NĐ-CP về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự và những năm vừa qua, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã vận dụng văn bản pháp lý này để tiến hành định giá tài sản, làm chứng cứ cho việc giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, BLTTHS năm 2015 đã khắc phục được hạn chế, thiếu sót trong các quy định về chứng cứ từ thực tiễn thi hành của BLTTHS năm 2003; tạo hành lang pháp lý cho quá trình thu thập, kiểm tra đánh giá chứng cứ đồng thời góp phần điều tra, truy tố, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
2.5. Biên bản trong hoat động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án là một trong những biện pháp tố tụng được thực hiện trong quá trình chứng minh. Mọi thông tin về nội dung và những tình tiết liên quan đến vụ án hình sự được ghi chép lại theo quy định của pháp luật tức là lập thành biên bản. Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án không những là một nguồn chứng cứ có giá trị trong vụ án hình sự, mà còn là căn cứ kiểm tra các trình tự, thủ tục hoạt động trong quá trình tiến hành tố tụng có được bảo đảm theo quy định của pháp luật hay không nhằm góp phần bảo đảm tính hợp pháp và tính khách quan của chứng cứ. Biên bản ở đây có thể là biên bản bắt người, khám xét, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, biên bản phiên tòa và các biên bản khác về các hoạt động tố tụng khác tiến hành theo quy định của Bộ luật này. Có thể khẳng định rằng, không một vụ án hình sự nào lại thiếu được biên bản, bởi vì mọi hoạt động chỉ coi là hợp pháp, công khai khi nó được ghi nhận trong biên bản. Cho nên, nguồn chứng cứ này mang ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động tố tụng.
2.6. Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác
Uỷ thác tư pháp là yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về việc thực hiện một hoặc một số hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nước có liên quan hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (Điều 5 Luật tương trợ tư pháp năm 2007). Đồng thời Luật tương trợ tư pháp cũng quy định rõ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù giữa Việt Nam với nước ngoài; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Việt Nam trong tương trợ tư pháp.
Thực tiễn cho thấy rất nhiều vụ án về tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có tổ chức thì kết quả thực hiện ủy thác tư pháp là nguồn chứng cứ quan trọng để giải quyết vụ án, do đó BLTTHS 2015 quy định “Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp” là nguồn chứng cứ, đồng thời tại Điều 103 quy định rõ “Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với chứng cứ khác của vụ án”.
2.7. Các tài liệu, đồ vật khác.
Các tài liệu, đồ vật khác trong vụ án hình sự cũng được coi là nguồn chứng cứ có giá trị trong quá trình chứng minh. Đó là các tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án, không phải do cơ quan tiến hành tố tụng thu thập mà do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân cung cấp. Tuy nhiên, quy định này còn thể hiện sự chưa rõ ràng và chính xác. Thực tế cho thấy những tài liệu, đồ vật được cung cấp từ những cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thường không bảo đảm tính hợp pháp. Hơn nữa, sự hạn chế của loại nguồn chứng cứ này ở chỗ các tài liệu, đồ vật do cơ quan, tổ chức hay cá nhân cung cấp có được cơ quan tiến hành tố tụng chuyển hóa thành chứng cứ pháp lý có giá trị chứng minh hay không. Nếu không được chuyển hóa thành chứng cứ pháp lý thì chúng không có giá trị chứng minh.
Có thể nói, BLTTHS năm 2015 là một bước tiến mới, là cơ sở pháp lý vững chắc góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm. Đặc biệt việc đổi mới chế định chứng cứ trong BLTTHS năm 2015 xuất phát từ sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và kinh tế xã hội, từ nhu cầu điều tra, xử lý đối với các hành vi phạm tội trong tình hình mới đặc biệt là tội phạm công nghệ cao; khắc phục căn bản những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, dưới góc độ lập pháp tố tụng hình sự để hoàn thiện quy định tại Điều 87 BLTTHS năm 2015 tôi thiết nghĩ trước khoản 1 Điều 87 cần có một đoạn nêu khái niệm
nguồn chứng cứ là gì, sau đó mới đề cập (liệt kê) đến các loại nguồn chứng cứ thì mới đầy đủ và chính xác hơn. Đồng thời cần thiết phải hoàn thiện hơn nữa những quy định mới trong Bộ luật này qua những văn bản hướng dẫn văn bản dưới luật nhằm khẳng định vị trí, vai trò của các chủ thể trong việc thực hiện các chức năng của tố tụng hình sự và góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể trong quá trình chứng minh vụ án.
ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải – ThS. Nguyễn Văn Điền
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
2. Trần Quang Tiệp. Chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.49.
3. Nguyễn Ngọc Chí. Chương VII. Chứng cứ. Trong sách: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tập thể tác giả do TS Nguyễn Ngọc Chí chủ biên. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.161.
4.
http://kiemsat.vn/bltths-nam-2015
5.
http://www.vksquangninh.gov.vn/index.php/Xay-dung-nganh .