Thanh tra, kiểm tra là hoạt động tất yếu của quản lý nhà nước nói chung và quản lý thuế nói riêng. Thanh tra, kiểm tra có mục tiêu là nhằm đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật thuế, đồng thời xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp đó nhằm ngăn ngừa các đối tượng có mục đích gian lận, trốn thuế, đảm bảo công bằng xã hội và nâng cao hiệu lực quản lý thuế. Chính vì vậy, vấn đề thanh tra, kiểm tra thuế có mối liên hệ mật thiết với vấn đề xử lý vi phạm pháp luật thuế. Nếu công tác thanh tra, kiểm tra thuế không được coi trọng sẽ dẫn tới việc xử lý vi phạm pháp luật thuế kém hiệu quả, từ đó sẽ dẫn tới hậu quả là làm cho ngân sách nhà nước bị thất thu, không bảo đảm môi trường bình đẳng, công bằng cho người chấp hành tốt nghĩa vụ thuế. Do đó, việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế là một đòi hỏi bức thiết đối với hoạt động quản lý thuế hiện nay.
1. Khái quát chung về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế
1.1. Khái niệm thanh tra thuế
Thanh tra thuế là một dạng thanh tra chuyên ngành. Khoản 3 Điều 3 Luật Thanh tra 2010 quy định: “
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó”. Như vậy, thanh tra thuế là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành những hoạt động mang tính chất chuyên môn nghiệp vụ đối với các đối tượng nộp thuế và các chủ thể có liên quan trong lĩnh vực thuế nhằm phát hiện, xử lý vi phạm trong việc tuân thủ pháp luật về thuế của các đối tượng đó. Thanh tra thuế là kiểm tra đối tượng nộp thuế ở mức độ cao hơn, toàn diện hơn.
Điều 81 Luật Quản lý thuế năm 2006 quy định các trường hợp thanh tra thuế bao gồm: (i) Thanh tra thuế định kì một năm không quá một lần đối với các doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng; (ii) Thanh tra thuế khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về thuế và (iii) Thanh tra thuế để giải quyết các khiếu nại, tố cáo hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp hoặc Bộ trưởng Bộ Tài chính.
1.2. Khái niệm kiểm tra thuế
Kiểm tra thuế là công việc thường xuyên mang tính chất nghiệp vụ của cơ quan quản lý thuế được thực hiện ngay tại trụ sở cơ quan thuế dựa trên hồ sơ khai thuế của người nộp thuế. Việc kiểm tra thuế được thực hiện tại trụ sở của người nộp thuế, chỉ thực hiện khi họ không tự giác sửa đổi, bổ sung những nội dung sai sót mà cơ quan thuế đã kiểm tra, phát hiện và yêu cầu. Nội dung kiểm tra thuế là việc kiểm tra tính đầy đủ, chính xác của các thông tin, tài liệu trong hồ sơ thuế nhằm đánh giá sự tuân thủ pháp luật về thuế của người nộp thuế.
Có thể thấy rằng, cả thanh tra, kiểm tra thuế đều có mục đích nhằm phát hiện, ngăn ngừa và xử lý vi phạm pháp luật thuế, góp phần thúc đẩy cá nhân, tổ chức hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình, hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích của công dân. Hơn nữa, cả thanh tra và kiểm tra thuế đều phải xem xét hoạt động thực tế của đối tượng chịu sự quản lý để từ đó phát hiện đánh giá thực trạng tình hình một cách khách quan, chính xác, trung thực, làm rõ đúng sai, chỉ rõ nguyên nhân để có biện pháp khắc phục và xử lý sai phạm tuy nhiên giữa chúng cũng có một số những điểm khác biệt nhất định như về chủ thể: đối với thanh tra thì chỉ có tổ chức thanh tra thuế chuyên trách mới có quyền thực hiện thanh tra (trừ trường hợp sử dụng cán bộ ngoài ngành nhưng phải do cơ quan có thẩm quyền quyết định) trong khi đó chủ thể tiến hành kiểm tra thuế thì rộng hơn gồm cơ quan, bộ phận và công chức quản lý thuế nhà nước. Về nội dung: Thanh tra thuế thường áp dụng đối với những vấn đề phức tạp, bao gồm những hành vi thuộc về quá khứ nên để có kết luận chính xác và có những đánh giá đúng đắn các vụ việc đòi hỏi phải có thời gian, nghiệp vụ thanh tra để kiểm tra thu thập các tài liệu cần thiết. Còn kiểm tra thuế thường áp dụng đối với những vấn đề ít phức tạp hơn, thường là những vấn đề hiện tại dễ nhận biết thực chất của chúng hơn. Về thời gian tiến hành thì thanh tra thuế có thời gian tiến hành dài hơn kiểm tra thuế, cụ thể thanh tra thuế có thể kéo dài không quá 30 ngày còn kiểm tra thuế không quá 5 ngày
[1]..v..v..
1.3. Khái niệm xử lý vi phạm pháp luật thuế
Trong khoa học pháp lý, vi phạm pháp luật nói chung được hiểu là hành vi làm trái các quy định của pháp luật, do tổ chức hoặc cá nhân thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, gây thiệt hại đến lợi ích chung và do đó phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi đó của mình. Theo đó, có thể hiểu vi phạm pháp luật thuế là hành vi làm trái các quy định pháp luật về thuế do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, gây thiệt hại đến trật tự công cộng và phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi đó của mình. Trong thực tiễn, các hành vi vi phạm pháp luật thuế diễn ra rất đa dạng, tinh vi và phức tạp với nhiều dạng thức khác nhau. Chính vì vậy, việc phân loại vi phạm pháp luật về thuế có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt giúp cho các nhà làm luật xây dựng được cơ chế xử lí phù hợp, thỏa đáng đối với từng nhóm loại và từng hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Trên thực tế, người ta thường phân chia vi phạm pháp luật thuế thành các loại sau đây:
Thứ nhất, vi phạm hành chính về thuế: Vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế là hành vi làm trái các quy định pháp luật hành chính trong lĩnh vực thuế, do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến những lợi ích được pháp luật hành chính bảo vệ nhưng chưa đến mức xử lý hình sự và phải chịu trách nhiệm hành chính. Hành vi vi phạm pháp luật thuế sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính khi thỏa mãn các dấu hiệu sau đây:
- Có hành vi vi phạm pháp luật về thuế được phát hiện và lập biên bản bởi cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền.
- Có quy định xử phạt vi phạm hành chính tương ứng với hành vi vi phạm.
- Chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, vi phạm hình sự về thuế: Vi phạm hình sự về thuế là hành vi trái pháp luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm hại đến các lợi ích phát sinh từ quan hệ nộp thuế được luật hình sự bảo vệ. Như vậy, trường hợp hành vi vi phạm pháp luật thuế được xác định là nghiêm trọng mà thỏa mãn dấu hiệu của tội phạm được quy định tại Bộ luật hình sự thì không xử phạt hành chính mà phải chuyển hồ sơ sang cơ quan có thẩm quyền để xử lý hình sự. Theo đó, ngoài tội trốn thuế (Điều 200 BLHS năm 2015), còn có 2 tội danh liên quan đến tài chính – kế toán (thực chất là các hoạt động hỗ trợ việc gian lận thuế), đó là Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 203 BLHS năm 2015) và Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 204 BLHS năm 2015).
Thứ ba, các vi phạm khác về thuế: Nhìn từ góc độ pháp lý thì còn có các vi phạm khác về thuế như quy định về hình thức tờ khai đăng ký thuế, hình thức của văn bản đăng ký kê khai thuế và văn bản thông báo thuế, hình thức văn bản quyết định giải quyết khiếu nại về thuế…
Như vậy, xử lý vi phạm pháp luật thuế có thể được hiểu là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, quyết định áp dụng các chế tài xử lý phù hợp với hành vi vi phạm pháp luật thuế đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
2. Khái quát về pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý vi phạm luật thuế
2.1. Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế
Pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế là bộ phận quan trọng của pháp luật quản lý thuế. Pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực thuế của nhà nước. Theo quy định của pháp luật quản lý thuế hiện hành, pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế có những nội sung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, những quy định về nguyên tắc thanh tra, kiểm tra thuế: Đây là tư tưởng, quan điểm chủ đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế và nó có tính bắt buộc các chủ thể có liên quan phải tuân theo trong quá trình tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế.
Thứ hai, những quy định về kiểm tra thuế: Đây là bộ phận pháp luật quy định về các hình thức kiểm tra thuế, nội dung, mục đích, quy trình kiểm tra thuế và cách thức xử lý trong và sau hoạt động kiểm tra thuế.
Thứ ba, những quy định về thanh tra thuế: Bộ phận pháp luật này quy định về các trường hợp thanh tra thuế, thủ tục, trình tự tiến hành, quy định cơ cấu thành phần đoàn thanh tra, điều kiện đối với trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên.
Thứ tư, những quy định về quyền và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế, trách nhiệm, quyền hạn của chủ thể có thẩm quyền khi tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế.
Thứ năm, những quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được áp dụng trong quá trình thanh tra kiểm tra thuế
2.2. Pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế
Pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật thuế cũng là một trong các nội dung của pháp luật quản lý thuế nói chung, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động xử lý vi phạm pháp luật thuế. Luật quản lý thuế hiện hành có các quy định về vấn đề này như: các hành vi vi phạm pháp luật thuế và việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật thuế cụ thể của người nộp thuế, của công chức quản lý thuế, cơ quan quản lý thuế, của ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác, người bảo lãnh nộp tiền thuế và tổ chức, cá nhân có liên quan; các quy định về nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử lý vi phạm pháp luật thuế..v..v…
3. Hoàn thiện quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật thuế
3.1. Thanh tra, kiểm tra thuế có vai trò quan trọng, là chức năng thiết yếu và là hoạt động không thể thiếu của quản lý nhà nước nói chung, trong lĩnh vực thuế nói riêng. Có thể nói rằng, kể từ khi Luật quản lý thuế năm 2006 có hiệu lực thì công tác thanh tra, kiểm tra thuế đã đạt được những bước phát triển nhất định. Công tác thanh tra, kiểm tra thuế được thực hiện đúng quy chế, quy trình đã góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của doanh nghiệp cũng như ý thức trách nhiệm của cán bộ thuế trong thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra, đã kịp thời phát hiện và xử lý các sai phạm trong lĩnh vực thuế, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật thuế, truy thu ngân sách nhà nước số thuế ẩn, chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra thuế ngày được nâng cao và phát huy hiệu quả trong việc phát hiện và xử lý tình trạng vi phạm pháp luật thuế. Hơn nữa, cơ quan thuế các cấp đã tiến hành áp dụng rộng rãi kỹ thuật quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra thuế với việc tăng cường thu thập thông tin về người nộp thuế, tiến hành phân tích, đánh giá các thông tin từ các nguồn thông tin khác nhau về người nộp thuế để tiến hành lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra. Việc lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra có trọng điểm tránh mất thời gian, tiết kiệm được chi phí của cơ quan thuế và người nộp thuế đem lại số truy thu lớn.
3.2. Luật Quản lý thuế đã định rõ các nguyên tắc cơ bản về thanh tra, kiểm tra thuế nhằm định hướng cho việc đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra thuế; phân định khá rõ giữa thanh tra thuế và kiểm tra thuế; quy định rõ nội dung công tác kiểm tra thuế (gồm kiểm tra tại trụ sở cơ quan thuế và kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế); quy định khá chi tiết về nội dung thanh tra thuế, về đối tượng và các trường hợp thanh tra thuế, các hình thức thanh tra thuế (thanh tra theo kế hoạch và thanh tra không theo kế hoạch); nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra thuế, của người ra quyết định thanh tra thuế v..v..
3.3. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã nêu ở trên thì trên thực tế khi thi hành hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế còn gặp khá nhiều khó khăn như:
a) Vẫn còn tình trạng trùng lặp, chồng chéo trong hoạt động của cơ quan thanh tra, kiểm tra và sự trùng lặp vẫn xảy ra nhiều nhất trong lĩnh vực thuế. Pháp luật hiện hành quy định, việc thanh tra được thực hiện căn cứ vào kế hoạch thanh tra hàng năm trừ các trường hợp thanh tra đột xuất theo quy định. Việc lập kế hoạch thanh tra phải dựa trên cơ sở phân tích thông tin về người nộp thuế từ đó phát hiện, lập danh sách những người nộp thuế có dấu hiệu bất thường trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế để lựa chọn đối tượng lập kế hoạch thanh tra. Kế hoạch thanh tra của cơ quan thuế cấp dưới phải được gửi đến cơ quan thuế cấp trên. Trường hợp có sự trùng lặp về đối tượng thanh tra thì cơ quan thuế cấp trên sẽ thực hiện thanh tra với đối tượng thanh tra đó. Trường hợp thanh tra nhà nước có kế hoạch thanh tra thuế trùng lặp với kế hoạch thanh tra của cơ quan thuế thì ưu tiên kế hoạch thanh tra thuế của cơ quan thanh tra nhà nước. Tuy nhiên, do cơ quan khác nhau của nhà nước không có sự trao đổi, thống nhất với nhau về chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra nên xảy ra tình trạng thanh tra doanh nghiệp bị trùng.
b) Công tác thanh tra, kiểm tra thuế dựa trên cơ sở dữ liệu thông tin tổng hợp và kỹ thuật quản lý rủi ro còn hạn chế. Phương pháp này có thể gặp nhiều rủi ro đó là khả năng để sót các trường hợp gian lận mà không bị phát hiện và ngăn chặn kịp thời do người nộp thuế lợi dụng sự thông thoáng của cơ chế “
tự khai tự nộp thuế”. Hơn nữa, để đảm bảo thanh tra, kiểm tra thuế theo phương pháp mới đạt hiệu quả cao thì phải có cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ về người nộp thuế và khả năng ứng dụng tốt những thành tựu về công nghệ thông tin trong thu thập, quản lý và sử dụng các nguồn thông tin về người nộp thuế. Tuy nhiên, nhiều khi hệ thống thông tin về người nộp thuế không được đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện, kịp thời; hoặc bộ máy quản lý thu thuế không đủ độ tinh nhuệ, lực lượng, phương tiện để phục vụ cho công tác quản lý không đảm bảo cho việc phát hiện kịp thời các đối tượng cố tình khai man, trốn lậu thuế hoặc do đội ngũ cán bộ thanh tra chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn về kiến thức... Chính những lý do trên đã làm cho phương pháp mới có nhiều rủi do.
c) Trình độ hiểu biết về thuế, ý thức chấp hành các luật, pháp lệnh về thuế của đại bộ phận nhân dân còn hạn chế, chưa tạo dư luận xã hội lên án mạnh mẽ các hành vi trốn thuế, gian lận thuế. Đặc biệt là hiện nay khi nền kinh tế đang phát triển hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng thường xuyên và liên tục thì hành vi trốn thuế và gian lận thuế xảy ra ngày càng nhiều. Sự phối hợp giữa các cơ quan, đặc biệt là kho bạc nhà nước, ngân hàng, cơ quan kế hoạch và đầu tư, cơ quan quản lý đất đai, tổng cục thống kê và các cơ quan khác cơ liên quan còn hạn chế.
d) Việc Luật quản lý thuế năm 2006 quy định thời gian kiểm tra thuế chỉ là 05 ngày kể từ ngày công bố quyết định kiểm tra thuế nên dẫn đến tình trạng kết quả kiểm tra thuế bị hạn chế. Nguồn lực chưa đáp ứng về số lượng và chất lượng so với yêu cầu quản lý thuế theo cơ chế “tự khai tự nộp”, hạn chế trong việc tổ chức các đoàn thanh tra thuế, chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra thuế thấp, chưa phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật thuế. Hơn nữa, khoản 3 Điều 85 Luật quản lý thuế 2006 quy định:
“Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này, trưởng đoàn thanh tra thuế, thành viên đoàn thanh tra thuế phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định và hành vi của mình” thì có thể thấy rằng, với một quy định chỉ mang tính chung chung như thế này thì khó có thể nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra thuế nói riêng.
e) Luật quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định rõ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan thuế và các thanh tra viên thuế gây ra trong quá trình thực thi nghĩa vụ quản lý thuế nói chung và thực thi chức năng thanh tra nói riêng, chính điều này dẫn đến tình trạng những cán bộ đã đưa ra các quyết định sai thì không chịu trách nhiệm về kết luận trước đó của mình, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các chủ thể bị áp dụng các quyết định sai trái. Điều 79 và 86 Luật quản lý thuế 2006 chỉ mới quy định đối tượng kiểm tra, thanh tra thuế có quyền được khởi kiện yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại. Các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định rõ như thế nào được coi là đã gây ra thiệt hại cho người nộp thuế, người khai hải quan, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ở mức độ nào, các hình thức bồi thường thiệt hại như thế nào và cách thức xác định thiệt hại đã xảy ra.
f) Việc kiểm tra thuế không đạt hiệu quả cao do pháp luật quy định bộ phận xử lí tờ khai phải vừa xác nhận, vừa đối chiếu, kiểm tra tờ khai thuế của người nộp thuế chỉ trong thời hạn 03 ngày. Việc quy định thời hạn như vậy là quá ngắn để cơ quan quản lý thuế có thể thực hiện việc kiểm tra tính chính xác trong tờ khai thuế một cách kĩ lưỡng. Hơn nữa, trong thực tế hiện nay, tình trạng hầu hết người nộp thuế gần gần sát ngày hết hạn nộp hò sơ mới nộp cho cơ quan quản lý thuế dẫn đế hồ sơ tập trung quá đông vào những ngày này gây khó khăn cho cán bộ quản lý thuế trong công tác kiểm tra hồ sơ thuế, giảm hiệu quả của hoạt động kiểm tra thuế.
g) Các hình thức xử phạt về các hành vi vi phạm trong công tác quản lý thuế nói chung, đối với các hành vi vi phạm pháp luật thuế riêng chưa đủ mạnh để răn đe, ngăn ngừa các sai phạm trong việc tính thuế, kê khai nộp thuế và làm hồ sơ xin miễn giảm thuế, hoàn thuế. Hơn nữa việc điều tra, xét xử vi phạm về thuế lại quá chậm, số lượng ít, chất lượng xét xử còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, việc xử lý vi phạm pháp luật về thuế có nơi, có lức còn gặp nhiều khó khăn như người nộp thuế vi phạm nhưng không để số dư tiền gửi ngân hàng nên các biện pháp cưỡng chế như trích tiền gửi tại ngân không thực hiện được hoặc tình trạng mua bán số hóa dơn bất hợp pháp vẫn còn, thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến. Một số quy định trong Luật quản lý thuế liên quan tới vấn đề xử lý vi phạm pháp luật thuế còn chưa chặt chẽ, đôi khi có mâu thuẫn, khó hiểu thậm chí còn thiếu công bằng giữa các đối tượng nộp thuế…do đó đã bị người nộp thuế lợi dụng để trốn thuế. Những hình phạt trong luật đối với hành vi trốn thuế chưa đủ nặng, những vụ việc trốn thuế ít bị xử phạt ở mức tối đa, kể cả xử lý hành chính cũng như hình sự thiếu tính răn đe, ngăn chặn, hơn nữa việc điều tra, xét xử vi phạm về thuế còn chậm, số lượng ít. Quy định về xử phạt đối với hành vi chậm nộp thuế và khai sai dẫn đến thiếu số thuế phải nộp chưa hợp lí, không đảm bảo tính thống nhất. Điều 108 Luật quản lý thuế 2006 quy định trong trường hợp người nộp thuế có hành vi không nộp hồ sơ đăng kí thuế, không nộp hồ sơ khai thuế, nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết thời hạn theo quy định thì phải nộp đủ số tiền thuế theo quy định và bị phạt từ 1 đến 3 lần số tiền thuế trốn – quy định này sẽ không bảo đảm tính khả thi và phù hợp với thực tế trong trường hợp người nộp thuế là các tập đoàn hay Tổng công ty bởi lẽ đặc thù của các tập đoàn, tổng công ty là cần phải tổng hợp dữ liệu từ các công ty con và báo cáo tài chính hợp nhất, 90 ngày là thời gian quá ngắn cho những DN này thực hiện việc quyết toán. Có thể nói chính những quy định không phù hợp với thực tế từ đó làm cho công tác xử lý vi phạm pháp luật thuế sẽ không đạt hiệu quả cao…
3.4. Từ các hạn chế, bất cập nêu trên thì cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế ở Việt Nam hiện nay:
a) Nghiên cứu bổ sung quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan thuế, công chức thuế gây ra trong Luật quản lý thuế năm 2006. Quy định này cần phải đảm bảo các nội dung: Việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải dựa trên các căn cứ là có hành vi trái pháp luật, có lỗi của người thi hành công vụ gây ra, có thiệt hại trên thực tế, có quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi gây thiệt hại; quy định rõ ràng về trình tự thủ tục yêu cầu bồi thường thiệt hại, nếu như xác định có đủ căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường nhà nước thì cơ quan giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại phải tiến hành xác minh thiệt hại, thương lượng với người bị thiệt hại để có phương thức bồi thường thiệt hại cần có quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức thuế gây ra khi tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với đối tượng nộp thuế.
b) Bổ sung thêm quy định về phối hợp điều tra thuế giữa các cơ quan nhằm nâng cao hiệu quả hơn nũa công tác thanh tra, kiểm tra thuế nhằm kịp thời phát hiện ra những vi phạm pháp luật thuế. Ngoài ra còn tránh sự chồng chéo trong công tác thanh tra, kiểm tra. Quy định về điều tra thuế nên quy định theo hướng xác định điều tra thuế chỉ là điều tra hành chính đồng thời với quy định về điều tra thuế phải bổ sung các quy định rõ về trách nhiệm của cơ quan thuế, công chức thuế trước các quyết định của mình. Nếu trong quá trình thanh tra, kiểm tra, điều tra thuế mà nảy sinh những tiêu cực, lạm dụng quyền thì cán bộ thanh tra, điều tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
c) Bổ sung quy định về quyết toán thuế: quy định rõ thời gian nào được thực hiện quyết toán thuế, trách nhiệm của cơ quan thuế trong việc quyết toán thuế, phân biệt rõ ranh giới của quyết toán thuế và thanh tra, kiểm tra thuế.
d) Bổ sung quy định về thanh tra đột xuất: tiến hành thanh tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế, quy định rõ vi phạm pháp luật ở mức độ hành vi nào thì cơ quan thuế mới có quyền tiến hành thanh tra đột xuất; hoặc giải quyết khiếu nại tố cáo, quy định rõ việc giải quyết khiếu nại tố cáo phải được xác minh và xác định chính xác như thế nào thì cơ quan thuế mới tiến hành thanh tra đột xuất. Nghiên cứu, xem xét kéo dài thời hạn cho bộ phận xử lý tờ khai xác nhận và đối chiếu kiểm tờ khai thuế của người nộp thuế từ 5-7 ngày, góp phần tạo hiệu quả và tính chính xác của việc kiêm tra tờ khai thuế, qua đó nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra thuế.
đ) Hoàn thiện quy định về mô hình tổ chức thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhằm tạo ra sự đồng bộ thống nhất trong quá trình thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra thuế, tạo điều kiện cho các cơ quan thanh tra, kiểm tra hoạt động có hiệu quả cao, theo đúng khuôn khổ pháp luật đặc biệt là hoàn thiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức thanh tra thuế, thanh tra ở cấp tổng cục và chi cục để phù hợp với pháp luật quản lý thuế và Luật thanh tra năm 2010. Ngoài ra cần nghiên cứu, xem xét việc gia hạn thời gian nộp hồ sơ quyết toán thuế, tăng mức xử phạt đối với mỗi hành vi vi phạm thuế để tạo đính răn đe, ngăn ngừa hơn..v.v./.
LNT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Quản lý thuế năm 2006
2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế năm 2012
3. Luật Thanh tra năm 2010
4. Bộ luật hình sự năm 2015
[1] Điều 78 và Điều 83 Luật Quản lý thuế năm 2006