Chính quyền địa phương theo Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015

03/01/2018

         
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ sáu thông qua ngày 28/11/2013 (Hiến pháp năm 2013), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014. Đây là cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng để xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Hiến pháp năm 2013 đã dành Chương IX quy định về chính quyền địa phương (CQĐP) thay cho Chương IX Hiến pháp 1992 về HĐND và UBND. Với 07 điều (từ Điều 110 đến Điều 116), Hiến pháp  2013 đã sử dụng cụm từ “chính quyền địa phương” làm tên chương, đồng thời quy định vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP theo hướng khái quát; đồng thời bổ sung những quy định mới mang tính khái quát, xác định nguyên tắc nhằm tạo điều kiện xây dựng mô hình CQĐP có những thay đổi mang tính hiệu quả. Đảng ta luôn xác định việc tổ chức hợp lý CQĐP, phân biệt giữa chính quyền nông thôn, đô thị, hải đảo; đẩy mạnh phân cấp giữa Trung ương và địa phương và giữa các cấp CQĐP nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt trong tổ chức và hoạt động của CQĐP các cấp. Thể chế quy định của Hiến pháp và chủ trương, định hướng của Đảng về CQĐP về CQĐP, ngày 19/6/2015, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật tổ chức CQĐP; Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2016. Quy định về CQĐP theo Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức CQĐP năm 2015 cụ thể như sau:
Thứ nhất, về đơn vị hành chính
Điều 110 Hiến pháp năm 2013 quy định các đơn vị hành chính của nước ta được phân định như sau: “Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định”. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 không quy định cứng CQĐP chỉ có ba cấp gồm cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã mà còn có các đơn vị hành chính đặc biệt do Quốc hội thành lập. Trên cơ sở đó, Luật tổ chức CQĐP năm 2015 đã quy định mang tính nguyên tắc về tổ chức CQĐP ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt, còn cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐND và UBND ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định khi thành lập các đơn vị đó.
Ngoài ra, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quy định ở thành phố trực thuộc trung ương ngoài đơn vị hành chính truyền thống (quận, huyện, thị xã) còn có đơn vị hành chính tương đương. Đây là quy định mở bởi Hiến pháp vẫn chưa xác định cụ thể “đơn vị hành chính tương đương” này là gì. Luật tổ chức CQĐP năm 2015 đã xác định “đơn vị hành chính tương đương” thuộc thành phố trực thuộc trung ương là ‘‘thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương”. Có nhiều ý kiến cho rằng tên gọi này không hợp lý vì dễ gây nhầm lẫn với tên gọi của các cơ quan, tổ chức cũng như các chức danh của hai loại hình thành phố này. Điều 2 Luật tổ chức CQĐP năm 2015 đã quy định các đơn vị hành chính của nước ta gồm có: (1) Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh); (2) Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (cấp huyện); (3) Xã, phường, thị trấn (cấp xã) và (4) Đơn vị hành chính đặc biệt. Hiến pháp 2013 quy định việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến nhân dân địa phương theo thủ tục nhất định. Việc lấy ý kiến nhân dân tuy chỉ có tính chất tham khảo nhưng đây là bước tiến lớn trong việc tổ chức CQĐP ở nước ta và là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền đưa ra quyết định hợp lý, góp phần khắc phục tình trạng nhập, tách thiếu căn cứ thực tế thời gian qua đã xảy ra.
Luật tổ chức CQĐP cũng quy định về việc phân loại đơn vị hành chính tại Điều 3. Việc phân loại này phải dựa trên các tiêu chí về quy mô dân số, diện tích tự nhiên, số đơn vị hành chính trực thuộc, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và các yếu tố đặc thù của từng loại đơn vị hành chính ở nông thôn, đô thị, hải đảo. Việc phân loại là cơ sở để hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng tổ chức bộ máy, chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức của CQĐP phù hợp với từng đơn vị hành chính. Theo đó, đơn vị hành chính được phân loại như sau: Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị hành chính cấp tỉnh loại đặc biệt. Các đơn vị hành chính còn lại (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) được phân thành ba loại: loại I, loại II và loại III. Để cụ thể hóa vấn đề này, ngày 25/5/2016, Uỷ ban thường vụ Quốc đã ban hành Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính.
Thứ hai, về mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính
Điều 111 Hiến pháp năm 2013 quy định: “CQĐP được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp CQĐP gồm có HĐND và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định”. Như vậy, so với Hiến pháp năm 1992, chế định CQĐP đã có sự phát triển mới khi quy định linh hoạt về đơn vị hành chính. Hiến pháp không quy định áp dụng thống nhất một loại mô hình CQĐP cho toàn quốc mà CQĐP sẽ được tổ chức dựa trên cơ sở đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt và các nguyên tắc phân cấp, phân quyền giữa trung ương với địa phương cũng như giữa các cấp CQĐP với nhau. Có ba cấp đơn vị hành chính phổ biến là cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và một cấp không phổ biến là đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Với ba cấp đơn vị hành chính phổ biến, Luật tổ chức CQĐP năm 2015 vẫn xác định mỗi đơn vị hành chính đều thiết lập hai loại cơ quan là HĐND và UBND. Khoản 1 Điều 4 quy định: Cấp CQĐP gồm có HĐND và UBND được tổ chức ở tất cả các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 2 của Luật này”. Theo đó, tất cả các đơn vị hành chính đều tổ chức HĐND và UBND (cấp CQĐP), đồng thời chấm dứt việc thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12, Nghị quyết số 724/2009/UBTVQH12 kể từ ngày Luật tổ chức CQĐP có hiệu lực thi hành (01/01/2016). UBND huyện, quận, phường nơi không tổ chức HĐND huyện, quận, phường tiếp tục giữ nguyên cơ cấu tổ chức và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND 2003, Nghị quyết số 26/2008/QH12 và Nghị quyết số 725/2009/UBTVQH12 cho đến khi bầu ra CQĐP ở huyện, quận, phường theo quy định của Luật. Đơn vị hành chính cấp huyện ở hải đảo, tổ chức CQĐP gồm HĐND và UBND. Trường hợp đơn vị hành chính cấp huyện tại hải đảo chia thành các đơn vị hành chính cấp xã thì tại đơn vị hành chính cấp xã cũng tổ chức cấp CQĐP gồm HĐND và UBND. Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt gồm có HĐND và UBND. Cơ cấu tổ chức, cách thức hoạt động của HĐND, UBND tại đơn vị hành chính kinh tế - đặc biệt thực hiện theo quy định của Luật tổ chức CQĐP. Ngoài ra, Luật tổ chức CQĐP năm 2015 đã phân biệt chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, theo đó CQĐP ở nông thôn gồm CQĐP ở tỉnh, huyện, xã; CQĐP ở đô thị gồm CQĐP ở thành phố trực thuộc trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phường, thị trấn (Khoản 2, khoản 3 Điều 4 Luật tổ chức CQĐP 2015).
 Thứ ba, về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương
Nếu Hiến pháp năm 1992 không có điều khoản riêng quy định về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của CQĐP nói chung mà quy định về nhiệm vụ của HĐND, UBND thì Hiến pháp năm 2013 đã thay đổi bằng cách tiếp cận mới tại Điều 112 quy định về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của CQĐP. Hiến pháp quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp CQĐP.
  Khoản 1 Điều 112 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định rõ CQĐP có hai loại nhiệm vụ, quyền hạn được phân biệt với nhau, đó là: (1) Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương và (2) Quyết định các vấn đề của địa phương do luật định. Như vậy, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của CQĐP quy định trong Hiến pháp năm 2013 không có những thay đổi căn bản so với Hiến pháp 1992 nhưng quy định rõ hơn chức năng và nhiệm vụ của CQĐP (được hiểu là HĐND và UBND). Trong một Nhà nước đơn nhất như nước ta, nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu của CQĐP là tổ chức và bảo đảm thực hiện Hiến pháp, pháp luật tại địa phương. Đồng thời, CQĐP thực hiện các nhiệm vụ xuất phát từ tính đặc thù của địa phương. Đây là quy định thể hiện nhiệm vụ có tính tự quản cao của CQĐP nhằm phát huy lợi thế của mỗi địa phương trên thực tế. Ngoài ra, Hiến pháp cũng quy định nghĩa vụ quan trọng của CQĐP là “chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên”.
Khoản 2 Điều 112 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ “Nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp CQĐP”. Đây là một định hướng quan trọng trong việc thiết kế cơ chế điều chỉnh mối quan hệ giữa CQĐP và CQTW cũng như giữa các cấp CQĐP với nhau. Khoản 3 Điều 112 Hiến pháp năm 2013 quy định trong trường hợp cần thiết, CQĐP được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó. Trên thực tế rất nhiều nhiệm vụ của Trung ương giao cho địa phương thực hiện nhưng chỉ giao việc mà không kèm theo các điều kiện bảo đảm để thực hiện công việc, gây rất nhiều khó khăn cho địa phương. Quy định này tạo cơ sở hiến định giải quyết nhiều khó khăn của các địa phương hiện nay.
Hiến pháp năm 2013 chỉ quy định khái quát về nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP các cấp; trên cơ sở đó, những nội dung cụ thể được Luật tổ chức CQĐP năm 2015 quy định. Theo khoản 1 Điều 11 Luật tổ chức CQĐP năm 2015, nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP các cấp được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp CQĐP theo hình thức phân quyền, phân cấp. Nguyên tắc này vừa bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, vừa phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của CQĐP. Luật tổ chức CQĐP năm 2015 quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Điều 17, 38); nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (Điều 24, 45, 52); nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP ở xã, phường, thị trấn (Điều 31, 59, 66); nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP ở hải đảo (Điều 73). Luật tổ chức CQĐP năm 2015 cũng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND trên các lĩnh vực nhằm thể hiện rõ sự gắn kết chặt chẽ, thống nhất giữa hai thiết chế HĐND và UBND hợp thành CQĐP.
Thứ tư, về phân định thẩm quyền giữa trung ương và địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương
Khoản 2 Điều 112 Hiến pháp năm  2013 quy định: Nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp CQĐP”. Đây là một định hướng quan trọng trong việc thực hiện quyền lực có tính nền tảng, có ảnh hưởng quyết định đến tổ chức bộ máy nhà nước ta, đồng thời đòi hỏi phải phân cấp thật rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn giữa trung ương, địa phương và giữa mỗi cấp CQĐP. Quy định tại khoản 3 Trong trường hợp cần thiết, CQĐP được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó” đã khắc phục tình trạng nhiều nhiệm vụ của trung ương được giao cho địa phương thực hiện nhưng chỉ giao việc mà không kèm theo các bảo đảm, điều kiện vật chất, nhân lực để thực hiện công việc. Đây là quy định mới của Hiến pháp năm 2013 so với các bản Hiến pháp trước đó. Việc xác định nguyên tắc trong Hiến pháp đảm bảo tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của các cấp CQĐP. CQTW và các cấp CQĐP không còn sự trùng lặp chức năng, nhiệm vụ, tránh được tình trạng có một số công việc bị đùn đẩy, né tránh giữa các cơ quan khi tổ chức thực hiện.
Nhằm cụ thể hóa Điều 112 Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức CQĐP năm 2015 đã có những quy định cụ thể hóa sự phân định thẩm quyền giữa trung ương và địa phương trên một số nội dung. Điều đó là cơ sở để giải quyết những hạn chế, bất cập trong phân định thẩm quyền giữa CQTW và CQĐP hiện nay, cụ thể:
06 nguyên tắc quy định việc phân định thẩm quyền
(i) Bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất về thể chế, chính sách, chiến lược và quy hoạch đối với các ngành, lĩnh vực; bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của nền hành chính quốc gia;
(ii) Phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của CQĐP ở các đơn vị hành chính trong việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn theo quy định của pháp luật;
(iii) Kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ, phân định rõ nhiệm vụ quản lý nhà nước giữa CQĐP các cấp đối với các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ;
(iv) Việc phân định thẩm quyền phải phù hợp điều kiện, đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo và đặc thù của các ngành, lĩnh vực;
(v) Những vấn đề liên quan đến phạm vi từ hai đơn vị hành chính cùng cấp trở lên thì thuộc thẩm quyền giải quyết của chính quyền cấp trên, trừ trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ có quy định khác;
(vi) CQĐP được bảo đảm nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân quyền, phân cấp và chịu trách nhiệm trong phạm vi được phân quyền, phân cấp.
Phân quyền cho chính quyền địa phương
Luật tổ chức CQĐP năm 2015 đã quy định việc phân quyền cho các cấp CQĐP phải được quy định trong các luật, CQĐP tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền. Như vậy, chủ thể có quyền phân quyền chỉ có thể là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất – Quốc hội. Cấp chính quyền được phân quyền có toàn quyền và chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền; phân quyền tạo nên sự độc lập giữa CQĐP và CQTW ở những nội dung được phân quyền, bảo đảm cho cấp chính quyền được phân quyền là những pháp nhân công quyền độc lập. Cơ quan nhà nước cấp trên trong phạm vi quyền hạn của mình, có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền cho các cấp CQĐP. Các luật khi quy định nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP, của các cơ quan thuộc chính quyền địa phương phải bảo đảm các nguyên tắc về phân định thẩm quyền và phù hợp với các nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP theo quy định của pháp luật.
Phân cấp cho chính quyền địa phương
Căn cứ vào vào yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình cụ thể ở địa phương, cơ quan nhà nước trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho CQĐP hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, chủ thể phân cấp là các cơ quan nhà nước ở trung ương và CQĐP; đối tượng được phân cấp là CQĐP và cơ quan nhà nước ở cấp dưới, giữa cơ quan được phân cấp và cơ quan phân cấp có mối quan hệ trực thuộc về tổ chức hoặc trực thuộc về chức năng. Việc phân cấp phải đảm bảo các nguyên tắc về phân định thẩm quyền và phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước phân cấp, trong đó xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn phân cấp cho CQĐP hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới, trách nhiệm của cơ quan nhà nước phân cấp và cơ quan nhà nước được phân cấp. Cơ quan nhà nước cấp trên khi phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn cho CQĐP hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới phải đảm bảo nguồn lực và điều kiện cần thiết khác để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình phân cấp; hướng dẫn kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình phân cấp. Cơ quan nhà nước được phân cấp chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước đã phân cấp về thực hiện nhiệm vụ được phân cấp. Căn cứ tình hình cụ thể ở địa phương, cơ quan nhà nước ở địa phương có thể phân cấp tiếp cho CQĐP hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn đã được cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp nhưng phải được sự đồng ý của cơ quan đã phân cấp.
 Ủy quyền cho cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương 
Đó là việc cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có thể ủy quyền bằng văn bản cho UBND cấp dưới thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể trong trường hợp cần thiết. Chế độ ủy quyền chỉ có thể được thực hiện trong hệ thống cơ quan hành chính cấp trên với cơ quan hành chính cấp dưới; cơ quan, tổ chức khác chỉ có thể hiểu là những cơ quan, tổ chức thuộc bộ phận cơ cấu của cơ quan hành chính nhà nước, hay những cơ quan, tổ chức có quan hệ trực thuộc với cơ quan hành chính nhà nước ủy quyền. Trong quan hệ hành chính, cơ quan hành chính nhà nước cấp trên chỉ có thể ủy quyền cho những cơ quan tổ chức trực thuộc mình về mặt tổ chức mà không thể ủy quyền cho cơ quan không nằm trong mối quan hệ trực thuộc về tổ chức hay chức năng. Cơ quan hành chính nhà nước cấp trên khi ủy quyền cho UBND cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác phải đảm bảo các nguồn lực và điều kiện cần thiết khác để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình ủy quyền; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã ủy quyền và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình đã ủy quyền. Cơ quan, tổ chức được ủy quyền phải thực hiện đúng nội dung và chịu trách nhiệm trước cơ quan hành chính nhà nước cấp trên về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình được ủy quyền. Cơ quan, tổ chức nhận ủy quyền không được ủy quyền tiếp cho cơ quan, tổ chức khác thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ủy quyền.
Có thể nói rằng, Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 có nhiều quy định mới về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương ở nước ta so với các giai đoạn trước, đảm bảo xây dựng bộ máy CQĐP tinh gọn, hiệu quả, thông suốt, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, để có thể đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước ta một cách toàn diện thì cần nghiên cứu, xem xét tổng thể hệ thống pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động cũng như các điều kiện thực tiễn để có giải pháp nhằm đổi mới tổng thể tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, của chính quyền địa phương nói riêng, phù hợp với bối cảnh hiện nay và xu hướng chung của thế giới./.