Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở

03/07/2017
I. Quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở
Với bản chất nhân văn sâu sắc, hòa giải ở cơ sở có lịch sử tồn tại và phát triển lâu đời gắn với lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Trong đó, tinh thần đoàn kết cũng như lối sống trọng tình, trọng nghĩa là căn nguyên, là mảnh đất cho hòa giải ở cơ sở hình thành và phát triển bền vững. Hòa giải ở cơ sở đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Thông qua việc phát hiện và giải quyết kịp thời tận gốc những mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật[1] trong nhân dân, hòa giải ở cơ sở giúp giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, đoàn kết cộng đồng; phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm ở cơ sở, góp phần ổn định trật tự xã hội ở địa bàn dân cư, tạo điều kiện thuận lợi cho các cấp chính quyền tăng cường công tác quản lý xã hội ở cơ sở; giảm bớt tình trạng gửi đơn thư, khiếu kiện lên Tòa án nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước, tiết kiệm thời gian và tiền bạc của cơ quan nhà nước và công dân; đồng thời góp phần phổ biến, giáo dục pháp luật trong cán bộ và nhân dân, hình thành trong mỗi cá nhân sự hiểu biết pháp luật, ý thức thượng tôn pháp luật trong nhân dân.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò và ý nghĩa to lớn của công tác hòa giải ở cơ sở nên Đảng, Nhà nước rất quan tâm đến công tác này, luôn coi việc khuyến khích, tăng cường công tác hòa giải là một chủ trương nhất quán trong nguyên tắc quản lý xã hội. Cụ thể:
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 khóa VII (1-1995) đã chỉ rõ: “Coi trọng vai trò hòa giải của chính quyền kết hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở cơ sở”.
Thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng thành các quy định pháp luật về hòa giải.
Điều 127 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) quy định: “Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những vi phạm pháp luật và những tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật".
Tiếp đến là Pháp lệnh số 09/1998/PL-UBTVQH10 ngày 25/12/1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở - văn bản pháp luật đầu tiên điều chỉnh một cách toàn diện, có hệ thống các vấn đề về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, đánh dấu bước phát triển quan trọng của pháp luật về công tác hòa giải, khẳng định vị trí, vai trò không thể thiếu của công tác hòa giải ở cơ sở trong đời sống cộng đồng.
Để huy động sự tham gia rộng rãi và tích cực của nhân dân vào công tác tư pháp, nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các tổ chức xã hội và nhân dân đối với các cơ quan tư pháp, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã khẳng định: “Xây dựng cơ chế để nâng cao hiệu quả của các hình thức giải quyết tranh chấp khác như hoà giải, trọng tài, nhằm góp phần xử lý đúng và nhanh chóng những mâu thuẫn, khiếu kiện trong nội bộ nhân dân và giảm nhẹ công việc cho toà án và cơ quan nhà nước khác.”
Trước những yêu cầu mới của nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, để xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết số 49-NQ/TW nêu rõ quan điểm “Cải cách tư pháp phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, đồng thời đề ra nhiệm vụ: “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó... Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; không ngừng nâng cao trình độ dân trí pháp lý, ý thức sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật cho mọi người dân.”
Thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về hòa giải ở cơ sở, kế thừa có chọn lọc quy định của Pháp lệnh năm 1998, ngày 20/6/2013, Quốc hội đã ban hành Luật hòa giải ở cơ sở, Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở. Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp ban hành Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT-CP-UBMTTQVN ngày 18/11/2014 hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.
Bên cạnh đó, nhằm xây dựng cơ chế pháp lý để nâng cao hiệu quả của các hình thức giải quyết tranh chấp như hòa giải, trọng tài, góp phần xử lý đúng và nhanh chóng những mâu thuẫn, khiếu kiện trong nội bộ nhân dân và giảm nhẹ công việc cho Tòa án, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung một chương mới (Chương XXXIII) quy định về cơ chế, phương thức để yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Theo đó, kết quả hòa giải thành ngoài tòa án (trong đó có hòa giải ở cơ sở) có thể được tòa án xem xét, công nhận khi thỏa mãn các điều kiện sau: (i) Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự; (ii) Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý; (iii) Một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận; (iv) Nội dung thỏa thuận hòa giải thành của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba.
Cũng tại Quyết định số 619/QĐ-TTg ngày 08/5/2017 ban hành quy định về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật quy định công tác hòa giải ở cơ sở là một trong trong năm tiêu chí thành phần đánh giá, công nhận xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Theo quy định tại Quyết định này thì tiêu chí hòa giải ở cơ sở có số điểm là 10 điểm trên tổng số điểm đánh giá là 100.
Có thể thấy, các văn bản, quy định pháp luật trên đây là cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng cho việc tiếp tục củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ hòa giải viên, tiếp tục khẳng định Đảng, Nhà nước ta rất coi trọng công tác này, đồng thời đặt công tác hòa giải ở cơ sở đứng trước yêu cầu ngày càng cao của đời sống xã hội, cần có những bước phát triển căn bản, toàn diện.
II. Thực trạng công tác hòa giải ở cơ sở
Từ khi có Luật hòa giải ở cơ sở, các văn bản pháp luật nêu trên, dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của cơ quan tư pháp, sự tham gia, phối hợp tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận từ trung ương đến địa phương cơ sở, tổ chức tổ hòa giải trong cả nước đã được củng cố, kiện toàn và tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Nhiều biện pháp, mô hình mới, sáng tạo đã được vận dụng để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với công tác này, đưa hoạt động hòa giải ở cơ sở dần đi vào nề nếp, có chiều sâu, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. Sau 03 năm triển khai thực hiện Luật, công tác hòa giải ở cơ sở đã đạt được kết quả sau đây:
Thứ nhất, về quản lý nhà nước đối với công tác hòa giải ở cơ sở:
Trong việc ban hành thể chế, có thể thấy tính đến thời điểm hiện tại, gần như toàn bộ các vấn đề về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở đều đã được điều chỉnh toàn diện và đồng bộ bởi các quy định pháp luật; cụ thể gồm các vản bản sau:
- Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013
-  Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở;
- Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN ngày 18/11/2014 của Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.
- Bộ Tài chính phối hợp Bộ Tư pháp ban hành Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 30/7/2014 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.
Ở địa phương, theo số liệu báo cáo của 63 tỉnh, thành phố trong cả nước[2], hiện có 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện Luật tại cơ quan, tổ chức, địa phương, 56/63 tỉnh, thành phố đã ban hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân hoặc Quyết định của Ủy ban nhân dân quy định về kinh phí hỗ trợ hoạt động của tổ hòa giải và mức chi thù lao theo vụ, việc cho hòa giải viên. Điều này thể hiện sự quan tâm đặc biệt của cấp ủy, chính quyền địa phương đối với công tác hòa giải ở cơ sở, tạo nên một hệ thống  đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở từ trung ương tới cơ sở.
Trong công tác chỉ đạo, hướng dẫn triển khai hoạt động hòa giải, thực hiện chức năng tham mưu giúp Chính phủ quản lý nhà nước thống nhất về công tác hòa giải trên phạm vi cả nước, trên cơ sở quy định của Luật cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành, Bộ Tư pháp  đã ban hành nhiều văn bản như: Quyết định số 889/QĐ-BTP ngày 21/4/2014 ban hành mẫu Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở; Quyết định số 4077/QĐ-BTP ngày 31/12/2014 ban hành Chương trình khung bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên; xây dựng và phát hành Bộ biểu mẫu thống kê về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, bảo đảm công tác thống kê, báo cáo đi vào nề nếp, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước; định kỳ hàng năm, đều ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện, kiểm tra công tác hòa giải ở cơ sở. Đặc biệt, ngay sau khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Bộ Tư pháp đã có văn bản số 1503/BTP-PBGDPL ngày 05/5/2017 hướng dẫn thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở.
Căn cứ các văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ của Trung ương, văn bản của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Ủy ban nhân dân các cấp từ huyện đến xã đều có những văn bản hướng dẫn triển khai cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn tại địa phương mình.
Đối với việc biên soạn tài liệu, tổ chức bồi dưỡng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao nghiệp vụ cho hòa giải viên được thực hiện thường xuyên. Năm 2016, Bộ Tư pháp đã hoàn thành và đưa vào sử dụng rộng rãi Bộ tài liệu nguồn bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên ban hành kèm theo Quyết định số 1753/QĐ-BTP ngày 22/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Để tăng cường năng lực, kỹ năng làm báo cáo viên, tạo nguồn cán bộ tập huấn về công tác hòa giải cho các địa phương, đặc biệt là phương pháp giảng dạy, truyền tải nội dung của Bộ tài liệu nguồn, Bộ Tư pháp cũng mở nhiều khóa tập huấn cho đội ngũ tập huấn viên nguồn gồm: công chức quản lý nhà nước về hòa giải, công chức thực hiện theo dõi hòa giải ở tổ chức chính trị - xã hội, báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật; giáo viên, giảng viên pháp luật tại trường trung cấp, giảng viên trường chính trị cấp tỉnh của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Ở địa phương, trên cơ sở hướng dẫn triển khai Bộ tài liệu của Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã khai thác, lựa chọn nội dung trong Bộ tài liệu được công bố để hướng dẫn Phòng Tư pháp các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
Ngoài ra, để tạo điều kiện cho các hòa giải viên gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm, giao lưu văn hóa pháp lý và biểu dương những điển hình xuất sắc trong hoạt động hòa giải trên phạm vi cả nước, qua đó tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng phong trào hòa giải ở cơ sở, trong năm 2016, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương phát động và tổ chức Hội thi Hòa giải viên giỏi toàn quốc lần thứ III. Hội thi thực sự là sân chơi hữu ích đối với hòa giải viên, tạo nên hiệu ứng, sức lan tỏa sâu rộng trong cả nước.
Trong công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, khen thưởng công tác hòa giải ở cơ sở. Đây là nội dung được cơ quan Tư pháp các cấp ở địa phương thực hiện định kỳ hàng năm hoặc 6 tháng và thường gắn với hoạt động kiểm tra, sơ kết, tổng kết công tác tư pháp.
Đối với việc đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho công tác hòa giải ở cơ sở, trên cơ sở quy định tại Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BT, hiện có 56/63 tỉnh, thành phố đã ban hành được văn bản, trong đó quy định chi thù lao cho hòa giải viên, kinh phí hỗ trợ hoạt động của tổ hòa giải.
Thứ hai, về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở:
Về tổ chức hòa giải ở cơ sở, theo số liệu báo cáo của Bộ Tư pháp, tính đến tháng 12/2016, trên toàn quốc có 111.649 tổ hòa giải với 661.183 hòa giải viên. Chất lượng của đội ngũ hòa giải viên ngày càng được nâng cao. Trong số 661.183 hòa giải viên có 30.1756 người có trình độ chuyên môn về luật. Các hòa giải viên được bầu, công nhận đảm bảo đúng điều kiện tiêu chuẩn quy định tại Điều 8 Luật hòa giải ở cơ sở và tuân thủ đúng quy trình bầu được quy định tại Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT-CP-UBTWMTTQVN. Theo đó, họ đều là những người có phẩm chất đạo đức tốt; có uy tín trong cộng đồng dân cư; Có khả năng thuyết phục, vận động nhân dân; có hiểu biết pháp luật.
Về hoạt động hòa giải ở cơ sở, theo số liệu báo cáo của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tính từ năm 2014 đến năm 2016, tổng số vụ việc nhận hòa giải là 447. 032 vụ, đã hòa giải thành 363.440 vụ đạt tỷ lệ trung bình 81,3%.[3]
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác hòa giải ở cơ sở trong thời gian qua vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như sau:
Thứ nhất, một số cấp ủy đảng, chính quyền địa phương chưa nhận thức hết vai trò, trách nhiệm của mình trong chỉ đạo, triển khai thực hiện công tác hòa giải nên chưa sát sao trong chỉ đạo, triển khai, thiếu quan tâm, tạo điều kiện đúng mức cho công tác hòa giải ở cơ sở, chưa phát huy tốt trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về công tác hòa giải cơ sở tại địa phương
Thứ hai, về kinh phí, trên cơ sở quy định của Luật, Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP, mặc dù đã có 56/63 tỉnh, thành phố đã ban hành văn bản (các tỉnh còn lại đang tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành văn bản) trong đó quy định cụ thể  về nội dung chi và mức chi cho công tác hòa giải ở cơ sở, nhưng đến nay, nhiều địa phương vẫn chưa thực hiện được theo đúng quy định như chưa thực hiện chi thù lao vụ việc cho hòa giải viên, hoặc chưa thực hiện chi hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên tổ hòa giải... Kinh phí dành cho công tác hòa giải ở cơ sở được bố trí còn rất hạn hẹp, phần lớn được tích hợp trong kinh phí thực hiện hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của địa phương. Chính vì vậy, phần kinh phí này chủ yếu để thực hiện hoạt động tập huấn nghiệp vụ, cung cấp tài liệu pháp luật cho tổ hòa giải.
Thứ ba, trong hoạt động hòa giải, vẫn còn xảy ra tình trạng vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, nhất là tại địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, cùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Như có những vụ việc không thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở, nhưng vẫn được tiến hành hòa giải làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên; hoặc yêu cầu về việc phải có đơn đề nghị thì hòa giải viên mới tiếp nhận và tiến hành hòa giải; hay ngược lại cũng có những mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật thuộc phạm vi được hòa giải ở cơ sở song đã không được hòa giải viên chủ động tiến hành hòa giải, làm cho tình hình trở lên nghiêm trọng, khiếu kiện đến cơ quan nhà nước xảy ra...
Thứ tư, trình độ học vấn và trình độ hiểu biết pháp luật của đội ngũ hòa giải viên còn rất hạn chế. Mặc dù năm 2015, tại Công văn số 1021/BTP-PBGDPL ngày 04/4/2016 về hướng dẫn thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở năm 2016, Bộ Tư pháp đã đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp chỉ đạo, hướng dẫn việc củng cố, kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định của Luật hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu thực tiễn; tạo chuyển biến căn bản về chất trong việc xây dựng đội ngũ hòa giải viên có phẩm chất, năng lực, trách nhiệm để tổ chức và thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở; trong đó, chú trọng rà soát, vận động, thuyết phục đội ngũ luật sư, luật gia, người đã từng là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên, thẩm tra viên trong cơ quan tiến hành tố tụng, cán bộ, công chức, viên chức có đủ tiêu chuẩn đang sinh sống tại địa bàn tham gia làm hòa giải viên. Song sau một năm thực hiện, số lượng người có trình độ chuyên môn về luật tham gia công tác hòa giải ở cơ sở tăng không cao (năm 2015, số hòa giải viên có trình độ chuyên môn về luật là 24.065/673.420 hòa giải viên, chiếm 3,57 %; năm 2016, số hòa giải viên có trình độ chuyên môn về luật là 30.756/661.183 hòa giải viên, chiếm 4,65%).
Thứ năm, số lượng khen thưởng về công tác hòa giải ở địa phương còn ít, hình thức khen thưởng để tôn vinh các hòa giải viên thực sự có đóng góp cho công tác hòa giải ở cơ sở chưa nhiều, nên chưa thực sự động viên, khuyến khích tinh thần, nhiệt huyết tham gia hoạt động hòa giải ở cơ sở của hòa giải viên...
Đánh giá về những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, hạn chế trong 03 năm thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở, Báo cáo sơ kết đã nêu ra 5 nhóm nguyên nhân cụ thể sau:
Thứ nhất, về nhận thức, cấp ủy, chính quyền, đoàn thể ở một số nơi và một bộ phận hòa giải viên nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác hòa giải ở cơ sở; chưa thường xuyên rà soát, có giải pháp củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ hòa giải viên. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận ở một số nơi chưa nhận thức rõ vai trò, vị trí nòng cốt của mình trong công tác hòa giải, nên chưa tham gia tích cực, chủ động vào việc củng cố, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động hòa giải ở địa phương.
Bên cạnh đó, ở một số nơi, nhận thức của người dân về vị trí, vai trò của hòa giải ở cơ sở chưa cao nên người dân chưa chủ động, tích cực giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật phát sinh tại cơ sở bằng biện pháp hòa giải ở cơ sở.
Thứ hai, về cơ chế, chính sách. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 3 Luật hòa giải ở cơ sở, thì vi phạm pháp luật bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử lý vi phạm hành chính không thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở. Tuy nhiên,tại điểm đ, e khoản 1 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở lại quy định một số trường hợp vi phạm pháp luật hình sự, vi phạm pháp luật hành chính được phép hòa giải ở cơ sở. Quy định như trên là bất hợp lý, có sự mâu thuẫn.
Báo cáo nhận định, đây cũng là một trong các nguyên nhân dẫn đến có những trường hợp hòa giải viên tiến hành hòa giải cả những vụ việc không thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở theo quy định của Luật.
Ngoài ra, việc quy định khi có sự thay đổi hòa giải viên phải tổ chức bầu trong Luật hòa giải ở cơ sở thực sự chưa phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, bởi nhân sự của tổ hòa giải ở cơ sở thường xuyên có sự thay đổi, trong khi quy trình bầu hòa giải viên được quy định trong Luật, Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/UBTƯMTTQVN-CP lại bao gồm rất nhiều bước từ thành lập tổ bầu hòa giải viên, lập danh sách người ứng cử, trao đổi, động viên người được giới thiệu, tổ chức bầu...
Thứ ba, về tổ chức, con người. Đội ngũ cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở, đội ngũ cán bộ, công chức tổ chức chính trị - xã hội được giao nhiệm vụ theo dõi, hướng dẫn công tác hòa giải ở cơ sở số lượng ít (trung bình mỗi Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Uỷ ban nhân dân cấp xã chỉ có 01 công chức kiêm nhiệm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở, gắn với triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật), phải đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ, lại chưa được chuẩn hóa. Năng lực của một bộ phận công chức nhất là ở cơ sở còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc tham mưu quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở.
Bên cạnh đó, phần lớn các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa thực hiện được hướng dẫn của Bộ tư pháp năm 2016 về việc xây dựng đội ngũ nguồn có đủ năng lực thực hiện bồi dưỡng cho hòa giải viên ở cấp tỉnh (từ 10 đến 12 người/tỉnh); ở cấp huyện (từ 07 đến 10 người/huyện) từ đội ngũ cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp; cán bộ, công chức thuộc tổ chức chính trị - xã hội tham gia công tác hòa giải ở cơ sở; báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật; giáo viên, giảng viên pháp luật tại trường trung cấp, giảng viên trường chính trị cấp tỉnh, trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện; giáo viên dạy giáo dục công dân trong nhà trường, các luật gia, luật sư có đủ năng lực thực hiện bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ cho hòa giải viên, bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định số 4077/QĐ-BTP ngày 31/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, dẫn đến việc bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ cho hòa giải viên còn chưa bài bản, hiệu quả chưa cao.
Thứ tư, về các điều kiện bảo đảm. Việc hỗ trợ, trang bị tài liệu pháp luật để hòa giải viên tự nghiên cứu, tìm hiểu nâng cao năng lực hoạt động cũng như việc tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng cho đội ngũ hòa giải viên còn rất hạn chế do kinh phí hạn hẹp. Hầu hết hòa giải viên chưa được bồi dưỡng đầy đủ, toàn diện nội dung kiến thức theo Chương trình khung do Bộ Tư pháp ban hành. Ngoài ra, hình thức tập huấn, bồi dưỡng còn chậm được đổi mới, thiếu linh hoạt, đa dạng (chủ yếu vẫn là bồi dưỡng trực tiếp, chưa thử nghiệm nhiều hình thức ứng dụng công nghệ thông tin, phát huy vai trò của của phương tiện truyền thông…); phương pháp bồi dưỡng chưa phù hợp với hòa giải viên thường là người cao tuổi, nên hiệu quả thấp.
Việc đầu tư kinh phí hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở nói chung và thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ hòa giải viên hiện nay tại các địa phương không đồng đều, thiếu thống nhất, thiếu cơ chế đầu tư tổng thể, toàn diện từ Trung ương đến địa phương; không huy động được các tổ chức, cá nhân đóng góp, hỗ trợ tài chính, cơ sở vật chất cho công tác hòa giải ở cơ sở.
Thứ năm, về các điều kiện khác. Ở một số tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, do địa bàn rộng, đi lại khó khăn, dân cư phân bố rải rác, khí hậu khắc nghiệt, trong khi số lượng tổ hòa giải không nhiều, lực lượng hòa giải viên lại mỏng dẫn đến hoạt động của các tổ hòa giải gặp nhiều khó khăn. Nhiều nơi điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, còn tồn tại các hủ tục lạc hậu, nên việc thuyết phục người dân giải quyết tranh chấp phù hợp với quy định của pháp luật gặp không ít khó khăn.
Ngoài ra, do đặc điểm tâm lý “tốt khoe ra, xấu che lại”, sợ dư luận xã hội bàn tán và tư tưởng “đóng cửa bảo nhau”, “xấu chàng hổ ai” nên nhiều mâu thuẫn, tranh chấp, xích mích trong gia đình không được hòa giải kịp thời, đến mức quá căng thẳng hoặc gây tổn thương về mặt thể xác, tinh thần cho nhau thì tổ hòa giải mới biết và khi đó việc hòa giải gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí vụ việc có thể đã không thuộc phạm vi hòa giải (mà bị xử lý về mặt hình sự).
Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng làm phát sinh nhiều mặt trái tác động đến cuộc sống, ảnh hưởng đến truyền thống tương thân, tương ái, “lá lành đùm lá rách”, tạo lối sống vị kỷ chỉ quan tâm đến bản thân, gia đình mình mà thờ ơ, bàng quan với cộng đồng; các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật thuộc phạm vi hòa giải trong nhân dân đang gia tăng, cả về số lượng và tính chất phức tạp của vụ việc[4].
Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của công tác hòa giải đối với đời sống xã hội, cần thiết phải đưa công tác hòa giải ở cơ sở đi vào nề nếp, thiết thực, chất lượng và hiệu quả hơn. Để thực hiện mục tiêu trên, theo tôi, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chính như sau:
Thứ nhất, tăng cường hoàn thiện thể chế về công tác hòa giải ở cơ sở. Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành rất nhiều văn bản khác nhau trong đó có những nội dung liên quan đến công tác hòa giải ở cơ sở, đặc biệt là Bộ luật tố tụng dân sự 2015 với thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài tòa án, Bộ luật hình sự 2015 với việc quy định các biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên, Bộ luật tố tụng hình sự với những quy định được viện dẫn liên quan đến phạm vi hòa giải ở sở sở... Do đó, cần rà soát lại toàn bộ các quy định của Luật hòa giải ở cơ sở, Nghị định số 15/2014/NĐ-CP, Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT-CP-UBTƯMTTQVN... để có những chỉnh sửa, bổ sung phù hợp với quy định pháp luật mới cũng như khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quá trình thực tiễn thi hành Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ hai, thường xuyên rà soát, củng cố, kiện toàn đội ngũ hòa giải viên, đội ngũ công chức được gia nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở; đội ngũ cán bộ, công chức các tổ chức chính trị - xã hội được giao thực hiện nhiệm vụ theo dõi, hướng dẫn công tác hòa giải ở cơ sở; xây dựng đội ngũ bồi dưỡng cho hòa giải viên có đủ năng lực, kỹ năng báo cáo để truyền tải được đúng, đầy đủ và phù hợp với đối tượng hòa giải viên.
Thứ ba, cần thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp bồi dưỡng, tập huấn, biên soạn và cung cấp tài liệu thiết thực, phù hợp cho hòa giải viên nhằm tăng cường năng lực cho đội ngũ này. Đối với các khóa tập huấn bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải ở cơ sở, nên có sự khảo sát, tổng hợp về nhu cầu kiến thức pháp luật cần bồi dưỡng để bảo đảm việc bồi dưỡng tập huấn thực sự thiết thực, gắn với thực tiễn yêu cầu.
Thứ tư, cần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tập huấn, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ công tác quản lý, theo dõi, hướng dẫn về hòa giải ở cơ sở cho đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý, theo dõi, hướng dẫn công tác hòa giải ở cơ sở (kết hợp với thực hiện chương trình đào tạo cán bộ, công chức hàng năm tại các địa phương) nhằm tăng cường năng lực cho đội ngũ này, thực hiện tốt hơn công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở.
Thứ năm, cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở để kịp thời nắm bắt những khó khăn, tồn tại trong quá trình triển khai thực hiện, phát hiện những mô hình hay, cách làm mới hiệu quả trong công tác hòa giải ở cơ sở; kịp thời động viên, khen thưởng những cá nhân có thành tích, đóng góp tích cực trong công tác này.
Thứ sáu, cần gắn hoạt động hòa giải ở cơ sở với phổ biến, giáo dục pháp luật, vận động nhân dân chấp hành pháp luật, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến, quán triệt nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò và ý nghĩa của công tác hòa giải ở cơ sở trong đời sống xã hội, vận động người dân tích cực giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật thông qua hòa giải ở cơ sở .
Thứ bảy, cần phát huy hơn nữa vai trò nòng cốt của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và cac tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở sở sở, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở với Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ hòa giải viên.
Thứ tám, cần tăng cường sự hợp tác với nước ngoài để tranh thủ nguồn lực, học hỏi kinh nghiệm nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải.
Lg. Vũ Nguyên
 
 
[1] Điều 3 Luật hòa giải ở cơ sở; Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở
[2] Báo cáo sơ kết 03 năm thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở
[3] Số liệu sơ kết 03 năm thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở
[4] Báo cáo sơ kết 03 năm thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở