Quyền lựa chọn pháp luật của các chủ thể có yếu tố nước ngoài trong Bộ luật dân sự năm 2015

19/06/2017
Theo quy định tại khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015:“Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;
b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;
c) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.”
Như vậy, các quan hệ dân sự trong tư pháp quốc tế (TPQT) điều chỉnh luôn có đặc trưng là mang “yếu tố nước ngoài”. Quan hệ có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong ba yếu tố: Yếu tố nước ngoài về mặt chủ thể; Yếu tố nước ngoài về mặt khách thể và yếu tố nước ngoài về mặt sự kiện pháp lý.
Do đặc điểm của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là sự tham gia của hai hay nhiều hệ thống pháp luật. Và mỗi quốc gia trên thế giới có hệ thống pháp luật riêng của mình, điều này là do điều kiện phát triển kinh tế xã hội, từ quan điểm chính trị, phong tục tập quan… Vì vậy, pháp luật của các nước không hoàn toàn giống nhau, thường có sự khác nhau khi giải quyết những vấn đề cụ thể, vì vậy, việc áp dụng các hệ thống pháp luật khác nhau sẽ mang lại hệ quả pháp lý khác nhau. 
Trong khoa học TPQT, hiện tượng xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thời có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Và cần phải lựa chọn quan hệ một trong các hệ thống pháp luật đó để giải quyết các quan hệ pháp luật trên. Nhưng việc lựa chọn luật phải dựa trên những nguyên tắc nhất định, không thể tùy tiện. Việc lựa chọn này  không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Tòa án, cũng không phụ thuộc vào ý muốn của các bên. Pháp luật Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới về TPQT ghi nhận hai phương pháp điều chỉnh, đó là: Phương pháp xung đột và phương pháp thực chất. Cần lưu ý rằng, vấn đề xung đột pháp luật không đặt ra trong quan hệ pháp luật hành chính, pháp luật hình sự. Bởi vì, không chỉ xuất phát từ sự bất bình đẳng giữa các chủ thể trong các mối quan hệ mà còn phụ thuộc vào tính hiệu lực theo lãnh thổ rất nghiêm ngặt của luật hình sự, luật hành chính. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ giới hạn đề cập đến năng lực pháp lí của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài và một số quy phạm xung đột quy định trong BLDS năm 2015.
Thứ nhất, về năng lực pháp lí của chủ thể có yếu tố nước ngoài
Một là, năng lực pháp luật của cá nhân người nước ngoài
Điều 673 BLDS năm 2015 quy định:
1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch.
2. Người nước ngoài tại Việt Nam có năng lực pháp luật dân sự như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác.”
Quy định này khẳng định năng lực pháp luật của cá nhân người nước ngoài sẽ được xác định theo pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch. Quy định như trên là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với thông lệ của TPQT khi sử dụng một hệ thuộc cơ bản của TPQT là hệ thuộc luật quốc tịch. Quy định như vậy còn cho thấy rõ quan điểm lập pháp của Nhà nước ta về vấn đề này, đó là tôn trọng pháp luật của nước mà người nước ngoài đã lựa chọn mang quốc tịch.
Điểm chú ý tại khoản 2 của Điều luật này, đó là, quy định mang tính chất loại trừ “trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác”. Nghĩa là, không phải bất kỳ lĩnh vực nào, người nước ngoài cũng có đầy đủ quyền và nghĩa vụ dân sự như đối với công dân Việt Nam. Chẳng hạn, như các quyền về chính trị bầu cử, ứng cử…
Về năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài, pháp luật dân sự áp dụng nguyên tắc theo Luật Quốc tịch năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), mà theo đó, tại Điều 4 của Luật này quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.”. Về nguyên tắc, Nhà nước chỉ công nhận mỗi công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam trừ những trường hợp Luật có quy định khác thì công dân có thể có 2 quốc tịch. 
Hai là, năng lực hành vi dân sự của cá nhân người nước ngoài
Điều 674 BLDS năm 2015 quy định:
“1. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam, năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam.
3. Việc xác định cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tại Việt Nam theo pháp luật Việt Nam.”
Tuy nhiên, đối với việc xác định năng lực hành vi của cá nhân là người nước ngoài, pháp luật quy định trường hợp ngoài lệ không áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch. Cụ thể là trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trên lãnh thổ Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó sẽ được xác định theo pháp luật Việt Nam. Nếu trong trường hợp chủ thể trong quan hệ TPQT có hai hay nhiều quốc tịch thì căn cứ áp dụng pháp luật sẽ theo quy định tại khoản 2 Điều 672 BLDS năm 2015 Trường hợp pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật của nước mà cá nhân có quốc tịch nhưng cá nhân đó là người có nhiều quốc tịch thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước nơi người đó có quốc tịch và cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Nếu người đó có nhiều nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú hoặc nơi cư trú và nơi có quốc tịch khác nhau vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và có mối liên hệ gắn bó nhất. Trường hợp pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật của nước mà cá nhân có quốc tịch nhưng cá nhân đó là người có nhiều quốc tịch, trong đó có quốc tịch Việt Nam thì pháp luật áp dụng là pháp luật Việt Nam.”
Theo quy định trên, người có nhiều quốc tịch thì sẽ áp dụng pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và cư trú trước khi chết; nếu người đó chết tại một quốc gia mà họ không mang quốc tịch thì sẽ áp dụng pháp luật của nước mà họ có quốc tịch và có sự gắn bó nhất về quyền và nghĩa vụ công dân. Điều kiện sống ở nước họ mang quốc tịch và nơi họ gắn bó nhất về quyền và nghĩa vụ là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới tư duy của họ khi tham gia quan hệ TPQT. Điều này đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho chủ thể. Mặt khác, quy định này tạo điều kiện thuận lợi lựa chọn pháp luật áp dụng
Trên thực tế, việc xác định người không có năng lực hành vi dân sự, bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng như việc xác định một người mất tích hoặc đã chết là những việc cần thiết và cũng thường gặp trong quan hệ dân sự nói chung và quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói riêng. Để giải quyết vấn đề này, pháp luật Việt Nam quy định tại khoản 3 Điều 674 và Điều 675[1] BLDS năm 2015. Theo đó, áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch vì vấn đề này liên quan trực tiếp đến nhân thân của người đó. Nhà làm luật quy định như vậy là vì các quyền và nghĩa vụ công dân gắn liền với việc tuyên bố người không có năng lực hành vi dân sự, bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng như việc xác định một người mất tích hoặc đã chết sẽ do nước nơi ngươi đó có quốc tịch quy định. Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam cũng đưa ra một quy định việc xác định các vấn đề nói trên đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật Việt Nam, nhằm bảo đảm sự quản lý nhà nước đối với người nước ngoài cư trú trên lãnh thổ Việt Nam.
Bà là, năng lực dân sự của pháp nhân nước ngoài
Điều 676 BLDS năm 2015, quy định:
1. Quốc tịch của pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân thành lập.
2. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân; tên gọi của pháp nhân; đại diện theo pháp luật của pháp nhân; việc tổ chức, tổ chức lại, giải thể pháp nhân; quan hệ giữa pháp nhân với thành viên của pháp nhân; trách nhiệm của pháp nhân và thành viên của pháp nhân đối với các nghĩa vụ của pháp nhân được xác định theo pháp luật của nước mà pháp nhân có quốc tịch, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.
3. Trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam.”
Nghiên cứu quy phạm này cho thấy, khi xem xét vấn đề năng lực pháp luật của pháp nhân nước ngoài phải căn cứ vào pháp luật của nước mà nơi đó pháp nhân đó thành lập. So với quy định tại Điều 765 BLDS năm 2005, khoản 1 Điều 676 BLDS năm 2015 đã xác lập“nguyên tắc” xác định quốc tịch của pháp nhân tùy thuộc vào pháp luật nơi thành lập của pháp nhân đó, tức là sử dụng hệ thuộc Luật quốc tịch của pháp nhân, không phụ thuộc vào nơi đặt trụ sở chính hay nơi kinh doanh chính của pháp nhân đó. Đây là điều kiện thuận lợi cho các công ty xuyên quốc gia mở rộng thị trường tại Việt Nam.
Khi hoạt động với tư cách pháp nhân nước ngoài ở một quốc gia nào đó, ngoài việc tuân thủ quy định xác định địa vị pháp lý về nhân thân do pháp luật của nước mà pháp nhân mang quốc tịch, thì pháp nhân đó còn phải tuân theo pháp luật của nước sở tại. Khoản 3 Điều 676 BLDS năm 2015 quy định rõ đối với pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân đó được xác định theo pháp luật Việt Nam, như Điều 4[2] BLDS năm 2015; Điều 5[3] Luật Thương mại năm 2005; … Như vậy, quy định tại Điều 676 BLDS năm 2015 là hoàn toàn hợp lý, vừa tạo điều kiện thuận tiện, dễ dàng cho các pháp nhân nước ngoài trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam, vừa đảm bảo tính hiệu lực về lãnh thổ của pháp luật Việt Nam,
Thứ hai, quy phạm xung đột quy định trong BLDS năm 2015 điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
Một là, quy phạm xung động về quyền sở hữu tài sản
Mặc dù vẫn còn tồn tại nhiều sự khác biệt, nhưng TPQT của hầu hết các nước trên thế giới đều thống nhất sử dụng hệ thuộc luật nơi có tài sản để giải quyết xung đột. Luật nơi có tài sản không những quy định nội dung của quyền sở hữu mà còn ấn định các điều kiện phát sinh, chấm dứt và dịch chuyển quyền sở hữu. Điều 678 BLDS năm 2015 cũng dựa trên nguyên tắc chung phổ biến này để đặt ra quy phạm giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản, cụ thể:
1. Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Theo quy định này, việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản sẽ do luật nơi có tài sản điều chỉnh, bất luận đối tượng của quyền sở hữu là động sản hay bất động sản. Tuy nhiên, vẫn tồn tại trường hợp ngoại lệ được quy định tại khoản 2 Điều luật này, đó là, quyền sở hữu đối với động sản trên đường vận chuyển. Pháp luật Việt Nam áp dụng hệ thuộc luật của nước do các bên thỏa thuận được chuyển đến, quy định còn được gọi là luật của người mua. Người mua sẽ giữ thế chủ động hơn trong quan hệ giao dịch. Đây là quy định mà không nhiều quốc gia quy định nhưng nó lại phù hợp với Việt Nam, bởi lẽ, nước ta hàng năm có tỉ lệ nhập siêu tương đối cao[4], nếu quy định lựa chọn luật nước người bán để áp dụng sẽ gây nhiều bất lợi cho cá nhân, cơ quan tổ chức trong nước.
Quan niệm về “động sản” và “bất động sản” thật ra không được hiểu một cách thống nhất trong pháp luật của nhiều quốc gia hiện nay. Thuật ngữ “bất động sản” và “động sản” đã được ghi nhận và sử dụng rộng rãi trong hầu hết các bộ luật theo hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới. Nhiều nước, như: Pháp, Đức, Nhật Bản,… đều coi “bất động sản” là đất đai và những tài sản gắn liền trên đất không tách rời với đất đai. Nhưng ở Nga lại quy định “bất động sản” là “mảnh đất” chứ không phải là “đất đai” nói chung.
+Điều 520 Bộ luật Dân sự (Pháp) quy định: Mùa màng chưa gặt, trái cây chưa bứt khỏi cây là “bất động sản”, nếu bứt khỏi cây được coi là động sản”;  Luật Dân sự của Nhật Bản cũng quan niệm về “bất động sản” tương tự quy định này của Pháp.
+ Điều 100 Luật Dân sự (Thái Lan) lại quy định “bất động sản là đất đai và những vật gắn liền với đất đai hoặc hợp thành một hệ thống thống nhất với đất đai, bao gồm cả những quyền gắn với việc sở hữu đất đai…”.
Như vậy, “bất động sản” là một thuật ngữ rộng để chỉ các tài sản như đất đai và công trình xây dựng dùng cho các mục đích cư trú, giải trí, nông nghiệp, công nghiệp, kinh doanh và thương mại…
Từ sự quan niệm khác nhau đó, dễ phát sinh xung đột về định danh tài sản. Xung đột ở đây là do pháp luật của một nước quy định tài sản này là “động sản”, nhưng nước khác lại quy định đó là “bất động sản”. Điều này gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật giải quyết xung đột về sở hữu tài sản. Do đó, tiền đề đầu tiên để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài là phải xác đinh áp dụng pháp luật nước nào để định danh tài sản. Pháp luật của đa số các nước và các điều ước quốc tế thường ghi nhận là luật nơi có tài sản là hệ thuộc luật để giải quyết xung đột về định danh tài sản. Điều 677 BLDS năm 2015 có quy định “Việc phân biệt tài sản là động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản”.
Hai là, quy phạm xung đột về thừa kế
Điều 680 BLDS năm 2015 quy định:
“1.Thừa kế được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết.
2.Việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó”.
Như vậy, đối với di sản thừa kế là động sản, TPQT Việt Nam áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch. Điều này có nghĩa là luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài mà di sản để lại thừa kế là động sản là luật của nước mà người để lại di sản có quốc tịch ngay trước khi chết. Pháp luật Việt Nam sẽ áp dụng đối với các quan hệ thừa kế mà công dân Việt Nam là người để lại di sản thừa kế là động sản bất kể quan hệ này xảy ra ở đâu và di sản đang hiện diện ở nước nào.
Riêng đối với thừa kế theo luật mà di sản thừa kế là bất động sản, TPQT Việt Nam áp dụng nguyên tắc Luật nơi có vật. Điều này có nghĩa là công dân Việt Nam để lại di sản thừa kế là bất động sản thì pháp luật Việt Nam không có cơ hội áp dụng nếu bất động sản không hiện diện ở Việt Nam và ngược lại, pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng khi công dân nước ngoài để lại di sản thừa kế là bất động sản trên lãnh thổ Việt Nam. Giải pháp này phù hợp với bản chất của các quan hệ pháp luật có liên quan đến bất động sản và được quy định trong nhiều văn bản pháp luật Việt Nam và được nhiều người đồng tình.
Đây là quy phạm xung đột của TPQT Việt Nam. Pháp luật Việt Nam chỉ có cơ hội áp dụng khi quan hệ thừa kế diễn ra tại Việt Nam hoặc tranh chấp quan hệ thừa kế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam. Điều này có nghĩa, khi công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài để lại di sản thừa kế là động sản hoặc vụ việc thừa kế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nước ngoài, thì pháp luật Việt Nam sẽ khó có cơ hội áp dụng vì TPQT nhiều nước áp dụng nguyên tắc Luật nơi cư trú để xác định luật áp dụng trong trường hợp này. Ngoại trừ một số nước đã ký kết hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam thì nguyên tắc Luật quốc tịch sẽ được áp dụng theo nội dung của các hiệp định này (ví dụ: Điều 39 Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Liên bang Nga; Điều 34 Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Mông Cổ; Điều 36 Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và CHDCND Lào, …), những trường hợp khác sẽ phải áp dụng TPQT của nước mà quan hệ thừa kế diễn ra hoặc nước có Tòa án giải quyết vụ việc. Với một số lượng lớn các nước áp dụng nguyên tắc Luật nơi cư trú thì pháp luật Việt Nam sẽ ít có cơ hội áp dụng đối với các quan hệ thừa kế do người Việt Nam cư trú ở nước ngoài tham gia hoặc do Tòa án nước ngoài giải quyết. Như vậy, việc áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch “dường như” tạo cơ hội cho pháp luật Việt Nam được áp dụng nhiều, nhưng thực tiễn cho thấy, không phải trong trường hợp nào quy định này cũng đạt được mục đích đề ra, vì mấy lý do sau:
Một là, thực tế, nhiều người Việt Nam cư trú ở nước ngoài, có quốc tịch nước ngoài và không còn quốc tịch Việt Nam, nhưng đã trở về Việt Nam sinh sống, cũng như người nước ngoài sang Việt Nam làm việc, sinh sống và có tài sản và bất động sản tại Việt Nam ngày càng nhiều, thì việc áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch để xác định luật áp dụng cho quan hệ thừa kế theo luật như quy định của BLDS năm 2015 sẽ loại bỏ khả năng áp dụng pháp luật Việt Nam trong nhiều trường hợp, kể cả trường hợp vụ việc tranh chấp do Tòa án Việt Nam giải quyết. Rõ ràng, nếu Tòa án Việt Nam giải quyết, áp dụng nguyên tắc của TPQT Việt Nam, sẽ dẫn đến pháp luật áp dụng là pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch, kể cả khi di sản thừa kế đó đang tồn tại tại Việt Nam. Như vậy, trong trường hợp này, quy phạm xung đột của Việt Nam đã vô tình loại bỏ cơ hội áp dụng pháp luật Việt Nam.
Hai là, trong trường hợp người để lại thừa kế có nhiều quốc tịch thì áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch sẽ khó khăn trong việc xác định luật nước nào sẽ được áp dụng. Tất nhiên, không bàn đến trường hợp …quốc tịch “ngay” trước khi chết. Ở đây, có quan điểm cho rằng, trong trường hợp này có thể vận dụng nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 672 BLDS  năm 2015. Tuy nhiên, đây cũng là một quy phạm xung đột của TPQT Việt Nam và cũng chỉ áp dụng được khi trong số các quốc tịch của người để lại di sản thừa kế có một quốc tịch là Việt Nam. Như vậy, trong trường hợp người nước ngoài có nhiều quốc tịch nhưng không có quốc tịch Việt Nam, cư trú và có di sản thừa kế là động sản tại Việt Nam thì pháp luật Việt Nam cũng khó có cơ hội được áp dụng.
Những phân tích trên cho thấy, việc áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch như quy định của BLDS năm 2015 để xác định luật áp dụng cho quan hệ thừa kế theo luật có di sản thừa kế là động sản sẽ dẫn đến khả năng loại bỏ việc áp dụng pháp luật Việt Nam trong nhiều trường hợp, kể cả khi Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc hoặc di sản đang tồn tại ở Việt Nam. Theo khoản 1 Điều 680 BLDS năm 2015, thì pháp luật được áp dụng là pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết. Nghĩa là không có trường hợp ngoại lệ. Điều này rõ ràng không đảm bảo được mục đích điều chỉnh của quy phạm pháp luật trong nhiều trường hợp.
Ba là, quy phạm xung đột về hợp đồng
Theo khoản 1 Điều 683 BLDS năm 2015, quy định: “Các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều này. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng.”
Qua nghiên cứu, người viết thấy rằng, một số vấn đề của quy định vừa nêu cần được làm rõ. Cụ thể:
1. Các bên có quyền lựa chọn luật áp dụng cho một phần của hợp đồng không?
Nói cách khác, các bên có quyền lựa chọn nhiều hệ thống pháp luật điều chỉnh một quan hệ hợp đồng hay không? Thực tiễn cho thấy có những hợp đồng có yếu tố nước ngoài , như: hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, có nội dung rất dài và bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Chính vì vậy, đôi khi phát sinh nhu cầu thực tế là các bên cần thỏa thuận chọn nhiều hệ thống pháp luật và một hệ thống pháp luật chỉ áp dụng điều chỉnh một phần của hợp đồng. Thậm chí ngay cả khi thỏa thuận chọn luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng vẫn có trường hợp các bên lựa chọn nhiều luật áp dụng cho hợp đồng để phòng ngừa tình huống một hệ thống pháp luật không điều chỉnh hết các vấn đề của hợp đồng. BLDS năm 2015 không có quy định về vấn đề này, nhưng một số văn bản pháp luật chuyên ngành lại quy định hợp đồng có thể được chi phối bởi hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Ví dụ, khoản 1 Điều 17 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, năm 2006 có quy định : “Hợp đồng cung ứng lao động phải phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước tiếp nhận lao động…”. Như vậy, Hợp đồng cung ứng lao động đồng thời chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận lao động.
Tham khảo Công ước Rome 1980 về luật áp dụng cho nghĩa vụ hợp đồng và Quy tắc Rome I, tại Điều 3 của cả hai văn bản đều quy định:“Bằng thỏa thuận của mình, các bên có thể chọn luật áp dụng cho toàn bộ hoặc chỉ một phần của hợp đồng”. Thực tiễn các nước cũng như Việt Nam cho thấy hiện tượng này thường xuyên xảy ra. Quan điểm này được các chuyên gia châu Âu về tư pháp quốc tế chấp nhận và đã được ghi nhận tại văn bản pháp luật của nhiều quốc gia. Vì vậy, cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu ban hành văn bản thống nhất áp dụng nội dung vấn đề đã nêu, theo hướng các bên được chọn luật áp dụng cho một phần hoặc toàn bộ hợp đồng và quyền được lựa chọn nhiều hệ thống pháp luật khác nhau áp dụng cho một quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
2. Nếu trong hợp đồng các bên có thỏa thuận lựa chọn một hệ thống pháp luật không có mối quan hệ thực chất với hợp đồng để áp dụng hay không?
Chẳng hạn, trong hợp đồng giữa một doanh nghiệp Việt Nam và một doanh nghiệp Đan Mạch, các bên có thỏa thuận: Trong trường hợp nếu hợp đồng không chỉ rõ thì luật thực chất của Pháp sẽ điều chỉnh. Thực tế cho thấy, cũng không ít trường hợp, các bên lựa chọn một hệ thống pháp luật không có liên quan gì đến hợp đồng.Về vấn đề này, theo quy định tại Điều 683 BLDS năm 2015, trường hợp các bên không có thỏa thuận về pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng. Tham khảo pháp luật các nước cho thấy, có nhiều cách giải quyết khác nhau. Pháp luật Mỹ yêu cầu luật được lựa chọn phải có mối quan hệ thực chất với hợp đồng, trong khi Điều 2 Công ước Rome và Điều 2 Quy tắc Rome I không đòi hỏi một mối liên hệ thực chất hay liên hệ khác với luật được lựa chọn. Quan điểm này cũng được một số nhà nghiên cứu pháp luật Việt Nam thừa nhận. vì mấy lý do sau:
i) Đảm bảo tôn trọng tối đa quyền tự thỏa thuận của các bên, đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của hợp đồng;
ii) Việc cho thỏa thuận lựa chọn pháp luật của nước thứ ba như một giải pháp trung gian sẽ giúp cho các bên thực hiện hợp đồng dễ dàng hơn trong trường hợp bên Việt Nam không muốn áp dụng luật của bên nước ngoài và bên nước ngoài không muốn áp dụng luật Việt Nam;
iii) Phù hợp với nguyên tắc các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn nhiều hệ thống pháp luật áp dụng cho một quan hệ hợp đồng như đã phân tích ở trên;
iv) Phù hợp với thông lệ quốc tế khi các bên còn được phép thỏa thuận lựa chọn tập quán thương mại quốc tế hay những nguyên tắc của hợp đồng thương mại quốc tế đã được thừa nhận rộng rãi (Ví dụ: Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế).
Thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế cũng cho thấy, các bên thường có xu hướng lựa chọn một hệ thống pháp luật không có mối liên hệ thực chất với hợp đồng hoặc lựa chọn tập quán thương mại quốc tế để điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Vì vậy, theo người viết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần hướng dẫn quy định trên thật rõ ràng hơn, theo hướng chấp nhận các bên được quyền lựa chọn một hệ thống pháp luật không có mối liên hệ thực chất với hợp đồng để điều chỉnh hợp đồng.
Bốn là, quy phạm xung đột về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Theo khoản 1 Điều 687 BLDS năm 2015, quy định:“Các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. Trường hợp không có thỏa thuận thì pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả của sự kiện gây thiệt hại được áp dụng.”  Vấn đề đặt ra, thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng giải quyết bồi thường thiệt hại phát sinh có yếu tố nước ngoài, tại thời điểm nào được chấp nhận? Trược khi thiệt hại xảy ra hay sau khi có thiệt hại xảy ra trên thực tế? Nghiên cứu nội dung quy định này trong Luật TPQT của Trung Quốc, mà theo đó, Điều 44 Luật này: “Nếu các bên đã lựa chọn theo thỏa thuận pháp luật điều chỉnh sau khi có hành vi trái pháp luật, thỏa thuận này được áp dụng”. Tương tự như vậy, Liên minh châu Âu cũng có quy định về xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo hướng ghi nhận quyền lựa chọn pháp luật cho các bên. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 14 Nghị định số 864/2007, quy định các bên có thể lựa chọn pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ ngoài hợp đồng bằng một thỏa thuận sau khi xảy ra sự kiện gây thiệt hại.
Để tạo điều kiện cho các bên trong việc xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ của họ và để tôn trọng quyền định đoạt của họ, thiết nghĩ cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất nhận thức và áp dụng theo hướng, ghi nhận thời điểm lựa chọn pháp luật, chỉ chấp nhận cho các bên lựa chọn pháp luật sau khi có sự kiện gây thiệt hại, điều này phù hợp với pháp luật các nước,  không chấp nhận thỏa thuận nói chung và thỏa thuận lựa chọn pháp luật khi chưa có sự kiện gây thiệt hại xảy ra.
Năm là, quy phạm xung đột trong sở hữu trí tuệ
Khác với quy định của BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 quy định quy phạm xung đột quyền sử hữu trí tuệ “gói gọn” tại Điều 679, mà theo đó “Quyền sở hữu trí tuệ được xác định theo pháp luật của nước nơi đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được yêu cầu bảo hộ”. Theo quy định tại Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ (Luật SHTT) năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), thì đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, gồm:
1. Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá.
2. Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.
3. Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch.”
1. Quyền tác giả có yếu tố nước ngoài
Theo quy định tại Điều 679 BLDS năm 2015, có thể chia làm hai trường hợp:
+Trường hợp thứ nhất: Có điều ước quốc tế điều chỉnh, như: Công ước Bécnơ; Hiệp định TRIMs, Hiệp định Việt Nam – Hoa Kỳ; Hiệp định giữa Việt Nam – Thụy Sỹ; Hiệp định khung Việt Nam – ASEAN;
+Trường hợp thứ hai: Nếu không thuộc trường hợp thứ nhất, mà người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài sẽ được bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam nếu họ có tác phẩm lần đầu tiên được công bố tại Việt Nam hoặc lần đầu tiên được sáng tạo ở Việt Nam.
Đối với tác giả là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài có tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học lần đầu tiên được công bố, phổ biến tại Việt Nam hoặc được sáng tạo và thể hiện dưới hình thức nhất định tại Việt Nam đều được Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền tác giả (trừ trường hợp tác phẩm không được Nhà nước bảo hộ). Tác giả là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài được bảo hộ quyền tác giả theo quy định của pháp luật Việt Nam có các quyền tác giả được quy định tại Luật SHTT năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Quyền tác giả đối với tác phẩm bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.
+Các quyền nhân thân, bao gồm: Đặt tên cho tác phẩm; Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho phép người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
+Các quyền tài sản, bao gồm: Làm tác phẩm phái sinh; Biểu diễn tác phẩm trước công chúng; Sao chép tác phẩm; Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
Như vậy, tác giả người nước ngoài sẽ được hưởng quyền tài sản và quyền nhân thân trong lĩnh vực quyền tác giả như tác giả là công dân Việt Nam. Đối với tác phẩm công trình của người nước ngoài được công bố, sử dụng ở Việt Nam dựa trên cơ sở những điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia thì chế độ bảo hộ quyền tác giả sẽ được xác định theo Điều ước và theo pháp luật Việt Nam.
+Bảo hộ quyền tác giả theo quy định của Công ước Berne
Đối tượng bảo hộ của Công ước Berne là các tác phẩm văn học, nghệ thuật  và khoa học được liệt kê khá đầy đủ và toàn diện tại Điều 2, bao gồm: Tất cả các sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật, bất kỳ được biểu hiện theo phương thức hay dưới hình thức nào, chẳng hạn như sách, tập in nhỏ và các bản viết khác, các bài giảng, bài phát biểu, bài thuyết giáo và các tác phẩm cùng loại; các tác phẩm kịch hay nhạc kịch, các tác phẩm hoạt cảnh và kịch câm, các bản nhạc có lời hay không lời, các tác phẩm điện ảnh  và các tác phẩm được diễn tả bằng một kĩ thuật tương tự với điện ảnh...Công ước bảo hộ các tác phẩm được biểu hiện theo phương thức hay hình thức nào. Đồng thời, Công ước cũng quy định mở cho các quốc gia thành viên quyền quyết định không bảo hộ các tác phẩm nói chung hoặc những thể loại khác cụ thể nào đó, trong khi các tác phẩm ấy chưa được ấn định trên một hình thái vật chất.
Về quyền được bảo hộ, Công ước quy định các quyền độc quyền của tác giả bao gồm quyền sao chép, quyền phân phối, quyền dịch, quyền phóng tác, quyền biểu diễn công cộng, quyền kể lại trước công chúng, quyền phát song, quyền truyền thông tới công chúng, quyền bán lại tác phẩm nghệ thuật gốc. Các quyền này là quyền kinh tế của tác giả, do tác giả trực tiếp thực hiện hoặc cho phép các tổ chức, cá nhân khác thực hiện.
Các nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả cho người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài theo quy định của Công ước Berne
i). Nguyên tắc đối xử quốc gia, là nguyên tắc đặt ra cho các quốc gia thành viên thực hiện bảo hộ tác phẩm có nguồn gốc từ các quốc gia thành viên khác tương tự như sự bảo hộ tác phẩm của công dân quốc gia mình. Sự bảo hộ đó không thấp hơn sự bảo hộ đối với công dân thuộc quốc gia mình. Nguyên tắc này đặt ra sự bình đẳng trong đối xử với công dân và pháp nhân của các quốc gia thành viên.
ii). Nguyên tắc bảo hộ tự động, đây là nguyên tắc đặc thù trong lĩnh vực quyền tác giả, theo đó quyền tác giả phát sinh ngay khi tác phẩm định hình dưới dạng vật chất nhất định không lệ thuộc vào bất cứ thủ tục nào như đăng ký cấp giấy chứng nhận, nộp lưu chiểu...
iii). Nguyên tắc bảo hộ độc lập, được quy định tại khoản 1 Điều 5 Công ước, theo đó được hiểu là việc được hưởng và thực hiện các quyền theo Công ước độc lập với những gì được hưởng tại nước xuất xử của tác phẩm. Nguyên tắc được thể hiện ở chỗ, một tác phẩm được bảo hộ không phụ thuộc vào việc tác phẩm đó có được bảo hộ hay không tại quốc gia gốc của nó. Nói cách khác, một tác phẩm dù có hay không được bảo hộ ở quốc gia gốc nhưng nó vẫn có thể được bảo hộ ở các quốc gia khác là thành viên của Liên hiệp với quy chế pháp lý theo về bảo hộ quyền tác giả ở quốc gia này.
Tuy nhiên, ngoại lệ của nguyên tắc này được quy định tại khoản 8 Điều 7 Công ước. Theo đó, về nguyên tắc thì thời hạn bảo hộ của quốc gia sở tại đối với tác phẩm không chịu ảnh hưởng bởi thời hạn bảo hộ của quốc gia gốc, nhưng trên thực tế nếu thời hạn bảo hộ ở quốc gia gốc đã hết thì quốc gia thành viên có quyền từ chối bảo hộ tác phẩm khác mặc dù theo pháp luật của nước này vẫn còn thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm đó. Công ước Berne quy một công thức chung về thời hạn bảo hộ cho một tác phẩm tại Điều 7, đó là, bảo hộ cả đời tác giả cộng thêm 50 năm sau khi tác giả chết. Theo tinh thần này của Công ước, thời hạn bảo hộ quyền tác giả được quy định tương tự tại Điều 27 Luật SHTT năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
+Bảo hộ quyền tác giả theo quy định của Hiệp định TRIPs
Hiệp định đưa ra các điều khoản chung và các nguyên tắc cơ bản , đặc biệt là cam kết đối xử quốc gia mà theo đó các công dân của các nước thành viên phải được đối xử không kém ưu đãi hơn so với công dân của các nước thành viên đó về vấn đề quyền SHTT nói chung và quyền tác giả nói riêng. Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc cũng được đưa ra, đây là một điều khoản mới trong thỏa thuận SHTT quốc tế, theo đó, bất kì thuận lợi nào mà một thành viên dành cho các công dân của một thành viên khác cũng phải được ngay lập tức và vô điều kiện áp dụng cho công dân của tất cả các thành viên khác ngay cả khi sự đối xử này ưu đãi hơn đối xử mà thành viên đó dành cho chình công dân nước mình.
Đối tượng được bảo hộ bao gồm các tác phẩm thuộc lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học (chương trình máy tính, cơ sở dữ liệu). Tuy nhiên, không phải bất kỳ tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật nào cũng được bảo hộ. Để được bảo hộ, tác phẩm phải là nguyên tác (ý tưởng trong tác phẩm không nhất thiết phải là mới nhưng loại hình biểu hiện phải là nguyên bản sáng tạo của tác giả)
Nội dung bảo hộ của Hiệp định TRIPs cũng bao gồm các nội dung được quy định tại Công ước Berne như đã trình bày.
Thời hạn bảo hộ, trừ tác phẩm nhiếp ảnh và tác phẩm nghệ thuật ứng dụng, nếu thời hạn bảo hộ tác phẩm không được tính theo đời người, Hiệp định TRIPs quy định thời hạn bảo hộ tối thiều đối với quyền tác giả. Thời hạn bảo hộ đó không được dưới năm mươi năm kể từ khi kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm được công bố một cách hợp pháp, hoặc năm mươi năm tính từ khi kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm được sáng tạo nếu tác phẩm này không được công bố một cách hợp pháp trong vòng ba mươi năm kể từ ngày tạo ra tác phẩm
2. Quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng có yếu tố nước ngoài
Quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng cũng là một quyền trong SHTT. Việc bảo hộ này không chỉ nhằm tạo ra hình lang pháp lý đảm bảo các quyền nhân thân và quyền tài sản của các nhà sáng tạo đối với các kết quả của sự sáng tạo đó, khích lệ thương mại trung thực từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới. Bên cạnh đó, các đối tượng sở hữu công nghiệp, giống cây trồng không được pháp luật Việt Nam bảo hộ bao gồm: các đối tượng trái với lợi ích xã hội, trật tự công cộng, nguyên tắc nhân đạo và những đối tượng khác mà pháp luật về SHTT quy định là không bảo hộ.
 
Phạm Thị Hồng Đào 
 
[1] Điều 675. Xác định cá nhân mất tích hoặc chết
1. Việc xác định một cá nhân mất tích hoặc chết tuân theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch vào thời điểm trước khi có tin tức cuối cùng về người đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Việc xác định tại Việt Nam một cá nhân mất tích hoặc chết theo pháp luật Việt Nam.
 
[2] Điều 4. Áp dụng Bộ luật dân sự
1. Bộ luật này là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự.
2. Luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này.
3. Trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm khoản 2 Điều này thì quy định của Bộ luật này được áp dụng.
4. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật này và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.
 
[3] Điều 5. Áp dụng điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế
1. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
2. Các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
 
[4] Tính chung cả năm 2015, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 165,65 tỷ USD; tăng 12% so với năm 2014. Trong đó, nhập khẩu của khối FDI đạt 97,26 tỷ USD; tăng 15,5% so với năm trước. Tính riêng tháng 12/2015 cả nước nhập siêu khoảng 570 triệu USD; thâm hụt thương mại cả năm 2015 ước đạt 3,54 tỷ USD, bằng 2% kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, năm 2015 cán cân thương mại cả nước thâm hụt 3,2 tỷ USD, đánh dấu nhập siêu quay trở lại sau 3 năm liên tiếp xuất siêu. Kim ngạch nhập khẩu (KNNK) hàng hóa năm 2016 của VN ước đạt 173,3 tỷ USD, tăng 4,6% so với năm 2015. Trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 102,2 tỷ USD, tăng 5,1%, khu vực kinh tế trong nước chỉ đạt 50 tỷ USD [ http://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/nha-p-sieu-toi-hon-3-ty-usd-mu-ng-hay-lo-20151228164656594.chn - cập nhật ngày 9/6/2017]