Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo lập được khuôn khổ pháp lý có hiệu lực cao, tương đối đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, điều chỉnh toàn diện về chứng khoán và thị trường chứng khoán (TTCK). Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho TTCK Việt Nam phát triển lành mạnh, ổn định và vững chắc. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm triển khai thi hành, bên cạnh những kết quả tích cực, Luật chứng khoán đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Những hạn chế này đã ảnh hưởng tới sự phát triển của TTCK Việt Nam. Mặc dù quy mô thị trường đã có sự tăng trưởng vượt bậc nhưng vẫn chưa tương xứng tiềm năng. Chất lượng hàng hóa đầu vào cho TTCK còn hạn chế, tỷ lệ cổ phiếu được giao dịch trên tổng số cổ phiếu niêm yết còn thấp. Thị trường trái phiếu quy mô còn hạn chế, đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp, các tổ chức định mức tín nhiệm chưa phát triển. Số lượng các nhà đầu tư tổ chức đã được thúc đẩy nhưng còn hạn chế, các nhà đầu tư cá nhân vẫn chiếm đa số. Việc triển khai thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vẫn còn những khó khăn, vướng mắc cần có sự phối hợp của các Bộ, ngành. Hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán còn chưa cao. Các hành vi vi phạm trên thị trường ngày càng tinh vi phức tạp, việc kiểm tra các hành vi giao dịch nghi vấn gặp nhiều khó khăn. Để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về mở rộng, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của TTCK, trước yêu cầu mới của thực tiễn quản lý, hội nhập quốc tế, nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại nêu trên trong Luật chứng khoán và quá trình thi hành Luật, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam, cần thiết phải xây dựng Luật chứng khoán mới trên cơ sở phát huy ưu điểm và khắc phục các hạn chế của Luật chứng khoán hiện hành.
1. Định hướng xây dựng Luật chứng khoán (sửa đổi)
- Thể chế hóa đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
- Xây dựng và phát triển TTCK phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, đáp ứng về cơ bản các thông lệ quốc tế, chuẩn mực quốc tế về chứng khoán và TTCK, qua đó giúp hình thành một hệ thống TTCK đồng bộ và thống nhất trong tổng thể thị trường tài chính của đất nước, đáp ứng kịp thời yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế;
- Bảo đảm hài hòa các lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và nhà đầu tư. Xây dựng cơ chế và có những giải pháp để phát huy vai trò TTCK là kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế;
- Phát triển, mở rộng TTCK có tổ chức, thu hẹp thị trường tự do, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường, thúc đẩy thị trường công khai, công bằng, minh bạch, đồng thời đặc biệt coi trọng vấn đề chất lượng và sự an toàn của thị trường;
- Phát triển TTCK theo hướng gắn kết với việc cải cách, sắp xếp khu vực doanh nghiệp nhà nước, tạo động lực cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế cả về năng lực tài chính và quản trị doanh nghiệp;
- Tăng cường thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế, liên kết với các trung tâm chứng khoán khu vực và quốc tế;
- Kế thừa, tiếp tục phát triển và hoàn thiện những quy định pháp luật về chứng khoán còn phù hợp với thực tế và đã có tác động tích cực đối với sự phát triển của TTCK, đồng thời xem xét sửa đổi, bổ sung những quy định đã phát sinh hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực hiện, đáp ứng yêu cầu quản lý;
- Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật; tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên; xác định rõ nội dung, nguyên tắc áp dụng Luật chứng khoán bảo đảm tránh chồng chéo, mâu thuẫn giữa Luật chứng khoán và các luật khác có liên quan;
- Cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong hoạt động chứng khoán, nhưng phải bảo bảo thực hiện có hiệu quả công tác quản lý nhà nước, tăng cường chế độ kiểm tra, giám sát và phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK.
2. Đề xuất chính sách xây dựng Luật chứng khoán (sửa đổi)
2.1. Về thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán
Nhằm củng cố, bảo đảm cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đủ thẩm quyền để kịp thời phát hiện, xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán, thực hiện một cách đầy đủ nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế, góp phần thực thi tốt chức năng quản lý, giám sát và cưỡng chế thực thi về chứng khoán và TTCK, bảo đảm thị trường hoạt động công bằng, hiệu quả và minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư thì việc bổ sung thẩm quyền bảo đảm cho UBCKNN có đủ quyền lực để thực thi tốt các chức năng quản lý, giám sát, thanh tra và cưỡng chế thực thi là cần thiết. Theo đó, cần sửa đổi quy định của Luật chứng khoán theo hướng UBCKNN được trao thêm một số quyền để có thể thực hiện tốt các chức năng quản lý, giám sát, thanh tra và cưỡng chế thực thi, cụ thể là: bổ sung quy định pháp luật khi tiến hành thanh tra, kiểm tra, xác minh vi phạm, UBCKNN có quyền:
(1) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến đối tượng có dấu hiệu vi phạm (như bưu điện cung cấp dữ liệu email, điện thoại, cơ quan thuế cung cấp thông tin về đối tượng nộp thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh cung cấp thông tin về doanh nghiệp, tổ chức tín dụng cung cấp thông tin về giao dịch tài khoản ngân hàng của đối tượng có dấu hiệu vi phạm...);
(2) Yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan đến làm việc để làm rõ hành vi vi phạm;
(3) Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan liên quan (ngân hàng, thuế, đăng ký kinh doanh, công an...) trong phối hợp thực hiện.
Các quy định về thẩm quyền của UBCKNN được quy định cụ thể, chi tiết tại Luật chứng khoán sửa đổi trên cơ sở thống nhất và phù hợp với pháp luật có liên quan như Bộ luật tố tụng hình sự, Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật thanh tra, Luật các tổ chức tín dụng… Trong đó, bảo đảm yêu cầu về bảo mật thông tin, quy định rõ trường hợp áp dụng, thẩm quyền của cơ quan thực thi yêu cầu cũng như thẩm quyền của cơ quan thanh tra, giám sát.
Chính sách nêu trên giúp đạt được mục tiêu đề ra, có nhiều tác động tích cực/lợi ích, cụ thể như sau:
(i) Việc bổ sung thẩm quyền sẽ làm tăng hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK, tăng định mức tín nhiệm của TTCK nói riêng và thị trường tài chính nói chung, đảm bảo môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh qua đó thu hút vốn đầu tư nước ngoài cả gián tiếp và trực tiếp. Chi phí phát sinh rất thấp do việc bổ sung thẩm quyền không làm phát sinh thêm nhân sự, chỉ tăng thêm công việc chủ yếu qua giấy tờ giữa cơ quan quản lý với các bên liên quan và tăng thêm hoạt động quản lý, giám sát, thanh kiểm tra xử lý vi phạm;
(ii) Chính sách này giúp thu được lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp do công tác quản lý của cơ quan quản lý TTCK được nâng cao đã tạo niềm tin cho TTCK, doanh nghiệp tận dụng được cơ hội thu hút vốn đầu tư dài hạn phục vụ sản xuất, kinh doanh; giảm khoản phải chi (nếu có) do phải tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào các vụ tranh chấp, xử lý vi phạm do các hành vi vi phạm trên TTCK gây ra, qua đó, góp phần tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc tăng thẩm quyền cho UBCKNN hầu như không phát sinh chi phí cho doanh nghiệp do tăng thêm rất ít thủ tục hành chính, có thể có chi phí rất thấp liên quan đến bổ sung thêm một số hoạt động cung cấp, trao đổi thông tin với cơ quan quản lý.
(iii) Chính sách giúp thu được lợi ích kinh tế cho người dân do giảm thiểu các thiệt hại trực tiếp từ giao dịch không công bằng trên TTCK. Chính sách không làm phát sinh chi phí đối với người dân;
(iv) Việc tăng thẩm quyền của UBCKNN giúp bảo vệ tài sản của nhà đầu tư, tăng điều kiện được sở hữu tài sản của người dân khi tham gia vào một TTCK an toàn, lành mạnh, công bằng; tăng niềm tin của xã hội vào tính nghiêm minh của pháp luật, vào môi trường đầu tư, kinh doanh;
(v) Chính sách này có thể ảnh hưởng tới quyền riêng tư của một số công dân là đối tượng nghi vấn vi phạm pháp luật từ hoạt động thu thập thông tin liên quan đến nhân thân, giao dịch, mối quan hệ giữa các cá nhân… Tuy nhiên, việc bổ sung thẩm quyền của UBCKNN nhằm tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, nhất là quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến tài sản của tất cả các cá nhân tham gia TTCK (bảo đảm quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, phần vốn góp trong doanh nghiệp… của nhà đầu tư). Giải pháp chính sách có liên quan tới các quy định về bảo mật thông tin khách hàng tại Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng, thẩm quyền triệu tập, buộc tổ chức, cá nhân đến làm việc thuộc cơ quan Tòa án, công an… quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, việc tăng cường năng lực giám sát, thanh tra của UBCKNN vẫn đảm bảo phù hợp với Hiến pháp và các Luật có liên quan; đáp ứng được các nguyên tắc của IOSCO
[1] về năng lực, thẩm quyền thanh tra, cưỡng chế thực thi của UBCKNN.
Ở các nước trên thế giới, cơ quan quản lý TTCK có đầy đủ quyền lực để có thể thực hiện tốt các chức năng quản lý, giám sát, thanh tra và cưỡng chế thực thi. Một số nước, cơ quan quản lý TTCK có quyền triệu tập cá nhân lấy lời chứng (Úc, Mỹ, Pháp, Nhật, Israel…); chủ động, xin lệnh hoặc theo lệnh của tòa án yêu cầu các cơ quan, tổ chức phối hợp trong việc xác minh, làm rõ, thu thập thông tin, kể cả thông tin (qua điện thoại) (Úc, Mỹ, Nhật, Áo, Pháp); khám hoặc xin lệnh của tòa án để thực hiện khám xét tại cơ sở kinh doanh, tại nơi ở và thu giữ tài liệu, vật chứng liên quan (Nhật, Israel, Pháp…).
2.2. Về hàng hóa trên thị trường chứng khoán
Để tăng cung hàng hóa cho TTCK, cải thiện chất lượng nguồn cung; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình huy động vốn thông qua việc phát hành chứng khoán, TTCK cần đa dạng hóa các sản phẩm chứng khoán được chào bán, nâng cao điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng và xác định điều kiện chào bán phù hợp cho từng loại chứng khoán. Đồng thời, nâng cao chất lượng công ty đại chúng thông qua việc nâng cao tiêu chí công ty đại chúng. Theo đó, Luật chứng khoán cần sửa đổi các quy định sau:
(i) Sửa đổi các quy định về chào bán chứng khoán theo hướng xác định điều kiện phát hành phù hợp với từng loại sản phẩm (chứng khoán nợ, chứng khoán vốn, chứng khoán phái sinh) và nâng cao điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng. Cụ thể, sửa đổi quy định tiêu chí phân biệt chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ theo hướng gắn với đối tượng phát hành; bổ sung một số điều kiện cụ thể đối với chào bán cổ phiếu và trái phiếu: đối với cổ phiếu, giới hạn về tổng giá trị đợt phát hành so với tổng giá trị cổ phiếu đang lưu hành (không phát hành quá số lượng cổ phiếu đang lưu hành), khoảng cách giữa các đợt phát hành thêm (tối thiểu 1 năm), trừ một số trường hợp đặc biệt như doanh nghiệp thành lập mới thuộc lĩnh vực ưu tiên đầu tư của Chính phủ về cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin…; đối với trái phiếu, giới hạn khối lượng trái phiếu doanh nghiệp được phát hành theo tỷ lệ so với vốn chủ sở hữu, hệ số khả năng thanh toán của doanh nghiệp phát hành, yêu cầu về định mức tín nhiệm...;
(ii) Sửa đổi quy định về khái niệm công ty đại chúng để thống nhất và rõ ràng về đối tượng quản lý, đồng thời tương thích với việc hủy công ty đại chúng khi không còn đáp ứng điều kiện là công ty đại chúng, không bị ràng buộc bởi điều kiện về niêm yết hay điều kiện về chào bán ra công chúng, nâng cao điều kiện về vốn điều lệ và số lượng nhà đầu tư sở hữu cổ phiếu của công ty, cụ thể là công ty đại chúng là công ty cổ phần có cổ phiếu được ít nhất hai trăm nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ 50 tỷ đồng Việt Nam trở lên
[2].
Chính sách này có nhiều tác động tích cực như sau:
(i) Tăng thu cho ngân sách nhà nước từ thu hút đầu tư nước ngoài do tạo dựng niềm tin của TTCK Việt Nam, thu được lợi ích về kinh tế liên quan đến lệ phí chào bán chứng khoán. Thu được lợi ích kinh tế do các công ty đại chúng được kiểm soát chặt chẽ, đầy đủ hơn. Việc nâng điều kiện công ty đại chúng bảo đảm những doanh nghiệp này là doanh nghiệp có khả năng đóng góp ổn định cho ngân sách nhà nước. Nhà nước có thể bị ảnh hưởng lợi ích kinh tế do nâng cao điều kiện vốn điều lệ đã góp của doanh nghiệp dẫn đến giảm số lượng công ty đại chúng, giảm nguồn phí đóng góp cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều công ty đại chúng quy mô nhỏ hoạt động kém hiệu quả, không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng góp phí quản lý công ty đại chúng cho ngân sách nhà nước, đồng thời, cơ quan quản lý không thể kiểm soát được tất cả các doanh nghiệp nhỏ nên thất thu một khoản phí cho ngân sách nhà nước. Sau khi nâng điều kiện, các doanh nghiệp đáp ứng điều kiện mới là những doanh nghiệp hoạt động tốt nên khả năng đóng góp ổn định cho ngân sách nhà nước;
(ii) Thu được lợi ích về kinh tế cho doanh nghiệp do huy động vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận nguồn vốn cổ phần với chi phí rẻ hơn vốn vay từ ngân hàng thương mại. Nhiều doanh nghiệp không còn là công ty đại chúng không phải thực hiện các nghĩa vụ liên quan đến công ty đại chúng (phí quản lý công ty đại chúng, chi phí báo cáo, công bố thông tin, phí lưu ký, quản trị công ty đại chúng…), tập trung phát triển doanh nghiệp theo quản trị của Luật doanh nghiệp;
(iii) Cơ chế giám sát hoạt động huy động vốn qua chào bán của doanh nghiệp chặt chẽ và cơ quan nhà nước có thẩm quyền thống nhất, các thông tin về chào bán, về công ty đại chúng được minh bạch làm cơ sở nhà đầu tư ra quyết định đầu tư đúng đắn và đem lại lợi ích tốt nhất, tài sản đầu tư của người dân vào doanh nghiệp được bảo đảm.
(iv) Gia tăng cơ hội có việc làm bởi khi doanh nghiệp huy động được vốn từ nền kinh tế sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất, kinh doanh. Tăng niềm tin của xã hội vào tính nghiêm minh của pháp luật, vào môi trường đầu tư, kinh doanh.
(v) Giải pháp chính sách không ảnh hưởng tới quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp; thống nhất với Luật doanh nghiệp và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, nhất là các văn bản quy phạm pháp luật về cổ phần hóa, sắp xếp, đổi mới DNNN; đồng thời, tương thích, phù hợp với Cam kết WTO, BTA Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định khung ASEAN, TTP (chưa có hiệu lực).
Trên thế giới, cơ chế quản lý hoạt động chào bán chứng khoán ở các nước có 2 xu hướng: Một là, chế độ quản lý dựa trên chất lượng; Hai là, chế độ quản lý dựa trên công bố thông tin. Tuy nhiên, việc áp dụng cơ chế quản lý dựa trên công bố thông tin hiệu quả đối với TTCK Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là chưa khả thi do chưa có cơ sở nhà đầu tư chuyên nghiệp đủ mạnh, tình hình quản trị công ty của các công ty đại chúng chưa đáp ứng các thông lệ và nguyên tắc quản trị công ty tốt, chuẩn mực kế toán – kiểm toán Việt Nam chưa hoàn toàn phù hợp với chuẩn mực quốc tế, sự phát triển và tính tuân thủ của các chủ thể tham gia TTCK chưa đồng đều. Vì vậy, chính sách phù hợp với Việt Nam vẫn là chế độ kết hợp giữa quản lý dựa trên chất lượng và yêu cầu về công bố thông tin.
Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng hàng hóa trên TTCK, giải pháp nâng điều kiện công ty đại chúng về vốn, về số lượng cổ đông qua đó để nâng cao chất lượng hàng hóa trên TTCK là phù hợp với thông lệ quốc tế. Tiêu chí để xác định công ty đại chúng dựa trên yếu tố vốn, quy mô cổ đông hoặc theo hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng.
Ở Anh và nhiều nước theo hệ luật của Anh, công ty nội bộ được phân biệt với công ty đại chúng trên phương diện vốn. Luật công ty 2006 của Anh, công ty đại chúng cần số vốn tối thiểu 50.000 bảng Anh, được huy động vốn và giao dịch cổ phần không hạn chế, số cổ đông tham gia không giới hạn và có tối thiểu hai thành viên quản trị thường trực
. Theo pháp luật Trung Quốc, công ty đại chúng
là công ty phát hành chứng khoán cho trên 200 người xác định. Ngoài cách phân biệt dựa trên yếu tố vốn hay quy mô cổ đông, nhiều quốc gia định nghĩa công ty đại chúng theo hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng như Ba Lan, Bungari.
2.3. Về thị trường giao dịch chứng khoán
Nhằm phát triển thị trường giao dịch chứng khoán ổn định, vững chắc, mở rộng TTCK có tổ chức, thu hẹp thị trường tự do với cấu trúc hoàn chỉnh với nhiều cấp độ, đồng bộ về các yếu tố cung - cầu; tăng quy mô và chất lượng hoạt động, đa dạng hóa các sản phẩm nghiệp vụ; nâng cao hiệu quả công tác giám sát giao dịch chứng khoán, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và cải thiện niềm tin của thị trường, thị trường chứng khoán cần tái cấu trúc mô hình tổ chức, đa dạng hóa sản phẩm giao dịch, phương thức giao dịch, sản phẩm nghiệp vụ của Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK). Đồng thời, hoàn thiện hệ thống giám sát giao dịch cho thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam. Theo đó, Luật chứng khoán cần sửa đổi các quy định sau:
(i) Sửa đổi các quy định hiện hành về mô hình tổ chức, hoạt động của SGDCK. SGDCK Việt Nam sẽ hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn với mô hình công ty mẹ, công ty con (holding company), có phân định các khu vực thị trường như thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường chứng khoán phái sinh, do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, Bộ Tài chính là đại diện chủ sở hữu nhà nước tại SGDCK. SGDCK là doanh nghiệp đặc thù, không hoàn toàn vì mục tiêu lợi nhuận. Bộ máy quản lý, điều hành của SGDCK được tổ chức phù hợp với Luật Doanh nghiệp và các văn bản có liên quan, do Bộ trưởng Bộ Tài chính phê chuẩn sau khi có ý kiến của Chủ tịch UBCKNN. Luật chứng khoán cũng sẽ có các quy định khung về niêm yết, giao dịch chứng khoán trên SGDCK sau khi tổ chức lại, về thị trường OTC, về thị trường giao dịch chứng khoán phái sinh.
(ii) Hoàn thiện cơ chế giám sát giao dịch chứng khoán theo 3 cấp giám sát như thông lệ quốc tế (cấp 1: công ty chứng khoán thành viên; cấp 2: SGDCK, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (TTLKCK); cấp 3: UBCKNN). Theo đó, Luật bổ sung quy định công ty chứng khoán là cấp giám sát thứ nhất, quy định công ty chứng khoán phải xây dựng cho mình bộ tiêu chí giám sát giao dịch chứng khoán, thẩm quyền cho SGDCK trong việc quản lý, giám sát, xử lý vi phạm đối với thành viên giao dịch của SGDCK, thẩm quyền cho TTLKCK trong việc quản lý, giám sát, xử lý vi phạm đối với thành viên lưu ký.
Giải pháp này đem lại nhiều tác động tích cực, cụ thể như sau:
(i) Việc tổ chức lại thị trường giao dịch chứng khoán theo hướng SGDCK Việt Nam sẽ hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn với mô hình công ty mẹ, công ty con sẽ mang lại những tác động tích cực cho nền kinh tế đất nước bởi mô hình công ty mẹ, công ty con có những điểm ưu việt hơn so với mô hình công ty đơn nhất, thể hiện cụ thể như sau:
Một là, việc mở rộng hoạt động thông qua thành lập công ty con cho phép huy động, thu hút được nguồn lực vốn từ xã hội, dần tiếp cận xu thế hoạt động của thế giới là đa dạng hóa thành viên tại công ty, mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động, tranh thủ cơ hội đầu tư, phân tán rủi ro của doanh nghiệp; tạo điều kiện sắp xếp lại lao động, kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy quản lý, điều hành, hình thành công ty hiện đại, có tiềm lực kinh tế, khắc phục hạn chế về vốn của từng công ty riêng lẻ, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Hai là, địa vị pháp lý của công ty mẹ, công ty con có tính độc lập, do đó các công ty con phát huy được khả năng sáng tạo, tính chủ động trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, vẫn đảm bảo quyền quyết định, kiểm soát của công ty mẹ đối với hoạt động của công ty con.
Ba là, khi tổ chức mô hình công ty mẹ là công ty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc công ty cổ phần do Nhà nước nắm cổ phần chi phối sẽ tạo điều kiện cho SGDCK Việt Nam hoạt động không hoàn toàn vì mục tiêu lợi nhuận, Nhà nước có thể kiểm soát để bảo đảm SGDCK Việt Nam thực hiện tốt chức năng tổ chức, điều hành, giám sát an toàn cho TTCK, hỗ trợ cho quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK.
Bốn là, mối liên hệ chặt chẽ giữa công ty mẹ - công ty con trong một tổ hợp giúp cho việc thống nhất định hướng chiến lược hoạt động kinh doanh, tập trung vốn đầu tư những dự án có hiệu quả nhất, nghiên cứu đổi mới công nghệ, nâng cao uy tín doanh nghiệp, khả năng cạnh tranh, góp phần sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước một cách hiệu quả.
Năm là, khắc phục tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty đơn lẻ vì các công ty con đều chịu sự chi phối của công ty mẹ.
Việc tổ chức thống nhất SGDCK Việt Nam cơ bản không gây xáo trộn các hoạt động trên TTCK, dự kiến có lộ trình phân định TTCK theo 03 khu vực riêng biệt: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu và TTCK phái sinh và tận dụng tối đa nguồn lực hiện có.
Bên cạnh đó, việc đa dạng hóa sản phẩm trên TTCK, đặc biệt các sản phẩm giúp phòng ngừa rủi ro còn thu hút thêm vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trung và dài hạn, giúp TTCK thanh khoản hơn, từ đó cải thiện bức tranh của TTCK, hệ thống tài chính và nền kinh tế, cải thiện định mức tín nhiệm quốc gia, hỗ trợ hoạt động huy động và tiết giảm chi phí huy động vốn của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Việc đưa công ty chứng khoán trở thành cấp giám sát thứ nhất bảo đảm hệ thống giám sát giao dịch được triển khai toàn diện, giúp tăng cường, nâng cao hiệu quả thực hiện công tác giám sát giao dịch của cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK.
(ii) Công ty chứng khoán giảm chi cho cơ sở vật chất, thiết bị, tài sản, phí nộp vào ngân sách nhà nước; đồng thời tăng nguồn thu khi khách hàng mở tài khoản nhiều hơn. Doanh nghiệp thu được lợi ích kinh tế, khi TTCK phái sinh hoạt động thì thời gian đầu tư của nhà đầu tư kéo dài hơn, mức độ biến động của TTCK sẽ ít hơn, hoạt động phát hành trên TTCK để huy động vốn phục vụ cho nhu cầu đầu tư sẽ ổn định hơn.
Tác động tích cực đến tiến trình tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán, các tổ chức kinh doanh chứng khoán đủ điều kiện tham gia TTCK phái sinh, sẽ tiếp tục phải nâng cao chất lượng hoạt động, từ đó tạo hiệu ứng lan tỏa, nâng cao chất lượng dịch vụ cho nhà đầu tư trên TTCK.
(iii) Người dân thu được lợi ích kinh tế do hoạt động giám sát giao dịch được tăng cường làm giảm thiểu các hành vi vi phạm, các giao dịch không công bằng trên thị trường, bảo đảm thị trường vận hành an toàn, hiệu quả; đồng thời việc tổ chức lại SGDCK giúp nhà đầu tư không phải phân tán thời gian cho việc theo dõi trong quá trình giao dịch chứng khoán. Bên cạnh đó, TTCK phái sinh ra đời giúp nhà đầu tư có thêm công cụ phòng ngừa rủi ro, yên tâm hơn trong việc bỏ vốn để đầu tư vào TTCK.
(iv) Bảo vệ tài sản của nhà đầu tư, tăng điều kiện được hưởng thụ các dịch vụ tiện ích của người dân trong xã hội bởi tham gia vào một TTCK được giám sát chặt chẽ, thống nhất, ổn định, an toàn, lành mạnh, công bằng. Thúc đẩy quá trình tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư theo hướng gia tăng sự tham gia của các nhà đầu tư tổ chức, các nhà đầu tư chuyên nghiệp, có trình độ hiểu biết về chứng khoán phái sinh. Tăng niềm tin cho TTCK, ổn định môi trường đầu tư, kinh doanh, góp phần ổn định xã hội.
(v) Giải pháp chính sách không ảnh hưởng tới quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp; bảo đảm thống nhất, đồng bộ giữa Luật chứng khoán và Luật doanh nghiệp năm 2014, Bộ luật dân sự năm 2015, Luật đầu tư năm 2014, Luật phí và lệ phí năm 2015, Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014…; phù hợp, tương tích với Cam kết WTO, BTA Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định khung ASEAN, TTP (chưa có hiệu lực), đáp ứng được nguyên tắc của IOSCO; phù hợp với hoạt động của các tổ chức quốc tế mà SGDCK Việt Nam là thành viên.
Đối với bổ sung quy định về giám sát giao dịch chứng khoán, giải pháp này có thể ảnh hưởng tới quyền riêng tư của một số công dân là đối tượng nghi vấn vi phạm pháp luật từ hoạt động thu thập thông tin liên quan đến nhân thân, giao dịch, mối quan hệ giữa cá nhân... Tuy nhiên, việc bổ sung công ty chứng khoán là cấp giám sát thứ nhất hướng tới tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, nhất là quyền và lợi ích liên quan đến tài sản của tất cả các cá nhân tham gia TTCK (đảm bảo được quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, phần vốn góp trong doanh nghiệp.... của nhà đầu tư). Đồng thời, việc đưa công ty chứng khoán trở thành cấp giám sát thứ nhất sẽ tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK, đặc biệt là phát hiện, ngăn ngừa kịp thời các dấu hiệu, hành vi vi phạm các quy định về giám sát giao dịch chứng khoán, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia TTCK.
Trên thế giới, mô hình một Sở giao dịch chứng khoán duy nhất được thành lập từ việc hợp nhất, sáp nhập các Sở giao dịch chứng khoán khác nhau hiện nay có khá nhiều nước đi theo như Hàn Quốc, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất... Riêng các quốc gia như Thái Lan, Malaysia chỉ có một SGDCK duy nhất trong suốt quá trình hoạt động tổ chức giao dịch cho thị trường chứng khoán.
Về mô hình sơ hữu của Sở GDCK, lịch sử phát triển TTCK đã cho thấy mô hình sở hữu của Sở GDCK trải qua 04 hình thức sau: (i) Hình thức sở hữu Nhà nước (chiếm tỷ lệ quyết định hoặc sở hữu toàn bộ vốn điều lệ của Sở) như trường hợp của SGDCK Istabul (Thổ Nhĩ Kỳ), SGDCK Warsawar (Ba Lan); (ii) Hình thức sở hữu thành viên (SGDCK do các CTCK thành viên sở hữu, được tổ chức dưới mô hình công ty TNHH, có HĐQT mà thành phần đa số do các CTCK thành viên cử ra như trường hợp tại SGDCK Thái Lan); (iii) Hình thức công ty cổ phần (SGDCK được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần do các CTCK thành viên, ngân hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm góp vốn thành lập với mục tiêu hoạt động vì lợi nhuận; ví dụ như SGDCK tại Anh, Hồng Kông, Australia, New York, Indonesia…); (iv) Hình thức công ty cổ phần niêm yết (SGDCK được phép phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết trên SGDCK do mình quản lý, ví dụ như SGDCK Philippines, Malaysia…). Đồng thời, hiện nay, trên thế giới có nhiều nước đã quy định SGDCK hoạt động không vì mục đích lợi nhuận như Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…
Đối với thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn hiện nay, việc tiếp tục duy trì mô hình thuộc sở hữu nhà nước là điều cần thiết để bảo đảm mục tiêu hoạt động của SGDCK không hoàn toàn vì mục tiêu lợi nhuận, bên cạnh việc thực hiện cung cấp dịch vụ còn thực hiện chức năng hỗ trợ, phục vụ quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán, bảo đảm duy trì một thị trường công bằng, công khai, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
2.4. Về Trung tâm Lưu ký chứng khoán
Nhằm tăng quy mô và chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ liên quan đến quản lý chứng khoán của nhà đầu tư, đa dạng hóa các sản phẩm nghiệp vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán, từng bước kết nối với các tổ chức lưu ký chứng khoán trong khu vực và trên thế giới, việc hoàn thiện mô hình hoạt động và đa dạng hóa sản phẩm nghiệp vụ của TTLKCK Việt Nam là rất cần thiết. Theo đó, Luật chứng khoán cần sửa đổi các quy định hiện hành về tổ chức và hoạt động nghiệp vụ của TTLKCK theo hướng:
(i) Bổ sung hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý, chức năng nhiệm vụ của TTLKCK như sau: Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty TNHH với mô hình tổng công ty, do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập và Bộ Tài chính là đại diện chủ sở hữu của Nhà nước; là tổ chức duy nhất thực hiện chức năng nhiệm vụ tổ chức và giám sát hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán và thực hiện cơ chế đối tác bù trừ trung tâm; hoạt động theo quy định của Luật chứng khoán, Luật Doanh nghiệp và các quy định của pháp luật khác có liên quan. Với vai trò hỗ trợ cơ quan quản lý Nhà nước trong việc quản lý, giám sát và hỗ trợ hoạt động sau giao dịch, vì vậy cần quy định là doanh nghiệp đặc thù, không hoàn toàn vì mục tiêu lợi nhuận, bộ máy quản lý, điều hành được tổ chức phù hợp theo Luật doanh nghiệp và các văn bản pháp luật có liên quan, do Bộ trưởng Bộ Tài chính phê chuẩn sau khi có ý kiến của Chủ tịch UBCKNN;
(ii) Sửa đổi, bổ sung quy định thành viên của TTLKCK theo hướng thành viên của TTLKCK bao gồm thành viên lưu ký và thành viên bù trừ;
(iii) Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán, trong đó sửa đổi, bổ sung quy định về loại chứng khoán đăng ký tại TTLKCK, cách thức thực hiện đăng ký; thực hiện quyền cho người sở hữu chứng khoán đăng ký tại TTLKCK; quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với giao dịch cầm cố, thế chấp tài sản chứng khoán tại TTLKCK; quy định liên quan đến bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán phái sinh; cơ chế quản trị rủi ro, cung cấp dịch vụ sau giao dịch và hỗ trợ cho các giao dịch xuyên biên giới; cơ chế hỗ trợ thanh toán cho các giao dịch trên TTCK cơ sở và TTCK phái sinh để bảo đảm bao quát, đa dạng hóa các sản phẩm nghiệp vụ của TTLKCK, phù hợp với thực tiễn và đáp ứng yêu cầu phát triển của TTCK.
Giải pháp này đem lại nhiều tác động tích cực, cụ thể như sau:
(i) Việc tổ chức TTLKCK theo mô hình công ty mẹ, công ty con đem lại nhiều tác động tích cực bởi tính ưu việt của mô hình này so với mô hình công ty đơn nhất. Bên cạnh đó, nguồn thu cho ngân sách nhà nước được gia tăng từ hoạt động giao dịch xuyên biên giới, thu hút đầu tư nước ngoài;
(ii) Doanh nghiệp, người dân thu được lợi ích kinh tế do hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán và các hoạt động sau giao dịch, hoạt động hỗ trợ giao dịch khác được thực hiện an toàn, hiệu quả;
(iii) Tăng điều kiện được sở hữu tài sản của người dân bởi các cơ chế đăng ký, lưu ký, chuyển quyền sở hữu hợp pháp được đảm bảo; bảo đảm môi trường đầu tư, kinh doanh, góp phần ổn định xã hội;
(iv) Giải pháp chính sách không ảnh hưởng tới quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp Giải pháp chính sách không ảnh hưởng tới quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp; bảo đảm thống nhất, đồng bộ giữa Luật chứng khoán và Luật doanh nghiệp năm 2014, Bộ luật dân sự năm 2015, Luật đầu tư năm 2014, Luật phí và lệ phí năm 2015, Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014…; phù hợp, tương tích với Cam kết WTO, BTA Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định khung ASEAN, TTP (chưa có hiệu lực), đáp ứng được nguyên tắc của IOSCO; phù hợp với hoạt động của các tổ chức quốc tế mà TTLKCK Việt Nam là thành viên.
Mô hình tổ chức lưu ký chứng khoán nêu trên đã được một số tổ chức lưu ký, bù trừ chứng khoán lớn trên thế giới sử dụng như: tổ chức Tín thác Lưu ký và Bù trừ Mỹ (Depository Trust and Clearing Coporation - DTCC), tổ chức Lưu ký và Bù trừ Trung Quốc (China Securities Depository and Clearing - CSDC), tổ chức Bù trừ và Lưu ký Đài Loan (Taiwan Depository and Clearing Corporation - TDCC)... Hoạt động lưu ký tập trung của mỗi nước thường được giao cho 01 tổ chức duy nhất thực hiện. Một số nước có nhiều tổ chức lưu ký chứng khoán tập trung nhưng tách riêng để lưu ký cho các loại chứng khoán khác nhau (ví dụ: Tổ chức lưu ký cổ phiếu, Tổ chức lưu ký trái phiếu...). Các nước thường không cho tổ chức nào khác được phép lưu ký chứng khoán tập trung cho cùng một loại chứng khoán đã có tổ chức lưu ký được phép thực hiện. Hiện trong số 23 quốc gia thuộc hiệp hội ACG (Hiệp hội các Tổ chức lưu ký chứng khoán tập trung Châu Á- Thái Bình Dương) chỉ duy nhất Ấn Độ cho phép 2 tổ chức lưu ký tập trung cạnh tranh trực tiếp với nhau).
2.
5. Về thu hút đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Mở cửa thị trường, thu hút đầu tư nước ngoài thông qua tỷ lệ sở hữu nước ngoài (SHNN) của các công ty đại chúng trên TTCK Việt Nam là rất cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam, bảo đảm phát huy nguồn nội lực là chủ yếu gắn với thực hiện cam kết của Việt Nam về mở cửa và hội nhập nền kinh tế; đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư, phát triển hệ thống nhà đầu tư có tổ chức, khuyến khích đầu tư nước ngoài dài hạn. Cụ thể, Luật chứng khoán cần sửa đổi các quy định sau:
(i) Đối với quy định SHNN tại công ty đại chúng, sửa đổi quy định hiện hành theo hướng: Đối với những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện chưa cam kết về tỷ lệ sở hữu nước ngoài hoặc không đưa vào Biểu cam kết của Việt Nam trong WTO và điều ước quốc tế khác, thì chỉ nâng tỷ lệ sở hữu nước ngoài lên
100[u1] % trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành không hạn chế sở hữu nước ngoài.
(ii) Đối với định nghĩa tỷ lệ SHNN tại công ty đại chúng: nghiên cứu bổ sung định nghĩa về tỷ lệ SHNN để bảo đảm thống nhất giữa Luật chứng khoán và Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp. Theo đó, bổ sung định nghĩa theo hướng tỷ lệ SHNN là tổng tỷ lệ sở hữu cổ phần, phần vốn góp có quyền biểu quyết của tất cả nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên tính trên tổng số vốn điều lệ của một công ty đại chúng.
Giải pháp này đem lại nhiều tác động tích cực, cụ thể như sau:
(i) Thu được lợi ích kinh tế cho Nhà nước do thu hút đầu tư nước ngoài để bổ sung nguồn vốn đầu tư trong nước;
(ii) Thu được lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp do thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm lực về tài chính, có khả năng về quản trị công ty tốt, có hệ thống máy móc, thiết bị khoa học công nghệ cao;
(iii) Việc TTCK Việt Nam tạo được sức hấp dẫn với NĐTNN sẽ giúp các doanh nghiệp dễ dàng hơn khi huy động vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng chất lượng sản phẩm và dịch vụ cũng như số lượng việc làm, vì thế gián tiếp nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân;
(iv) Giải pháp chính sách không ảnh hưởng tới quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp; thống nhất, đồng bộ giữa Luật chứng khoán và Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư; phù hợp, tương thích với Cam kết WTO, BTA Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định khung ASEAN, TTP (chưa có hiệu lực).
Hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ trong nước bị ảnh hưởng do cạnh tranh của những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, tùy theo chính sách của quốc gia tùy theo lĩnh vực mà có quy định cụ thể để kiểm soát hoạt động đầu tư (cấm đầu tư, đầu tư theo tỷ lệ, đầu tư có điều kiện, việc sử dụng lao động trong nước…). Đây cũng là động lực giúp doanh nghiệp trong nước tập trung đầu tư về quản trị công ty, máy móc thiết bị kỹ thuật, hệ thống công nghệ thông tin... để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
2.6. Về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán
Nội dung chủ yếu của chính sách là nâng cao chất lượng công bố thông tin (CBTT) trên TTCK, tăng cường tính minh bạch của thị trường chứng khoán Việt Nam nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch của TTCK, tiếp cận với chuẩn mực và thông lệ quốc tế về công bố thông tin trên TTCK, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và niềm tin của thị trường. Để đạt được mục tiêu trên, Luật chứng khoán cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định về công bố thông tin, đối tượng, nội dung công bố thông tin theo hướng:
(i) Quy định cơ chế công bố thông tin của công ty đại chúng dựa trên quy mô vốn và tính đại chúng (không theo tiêu chí niêm yết) nhằm phù hợp với chuẩn mực quốc tế về minh bạch và quản trị công ty; đồng thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nghĩa vụ công bố thông tin của công ty đại chúng;
(ii) Bổ sung, làm rõ trách nhiệm công bố thông tin của các cổ đông lớn/nhà đầu tư sở hữu trên 5% chứng chỉ quỹ đóng, nhóm người có liên quan và các chức danh nội bộ, người có liên quan của người nội bộ của công ty đại chúng/quỹ đại chúng. Đồng thời, bổ sung quy định về chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin đầu vào để xác định vị thế của nhóm nhà đầu tư là cổ đông lớn.
Giải pháp này đem lại nhiều tác động tích cực, cụ thể như sau:
(i) Thu được lợi ích kinh tế cho Nhà nước do TTCK hoạt động minh bạch hơn sẽ cải thiện định mức tín nhiệm quốc gia qua đó tăng thu hút đầu tư nước ngoài.
(ii) Giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn vì thông qua nghĩa vụ minh bạch thông tin, doanh nghiệp cần nỗ lực xây dựng hình ảnh để tạo niềm tin với nhà đầu tư, khách hàng. Ngoài ra, việc CBTT minh bạch cũng giúp doanh nghiệp huy động vốn dễ dàng hơn trên TTCK.
(iii) Thu được lợi ích kinh tế cho người dân do nhận được những thông tin chính xác để quyết định hoạt động đầu tư, không bị thiệt hại do hành vi trục lợi từ hành vi giao dịch nội bộ.
(iv) Bảo vệ tài sản của nhà đầu tư, tăng điều kiện được sở hữu tài sản bởi tham gia vào một TTCK thống nhất, ổn định, an toàn, lành mạnh, công bằng; tăng niềm tin vào TTCK, thu hút đầu tư nước ngoài, ổn định môi trường đầu tư, kinh doanh, góp phần ổn định xã hội.
(v) Giải pháp thực hiện chính sách nêu trên bảo đảm thống nhất, đồng bộ giữa Luật chứng khoán và Luật doanh nghiệp, Luật kế toán về nội dung thông tin công bố. Chính sách hiện tại cơ bản đã đặt ra các yêu cầu phù hợp nguyên tắc của IOSCO.
Khi thi hành chính sách sẽ phát sinh chi phí cho việc nâng cấp, hoàn thiện hệ thống ứng dụng phục vụ CBTT của UBCKNN đối với các đối tượng theo quy định mới. Nguồn đầu tư này được bảo đảm chủ yếu từ ngân sách nước; đồng thời được hỗ trợ, bổ sung từ sự đóng góp từ các đối tượng tham gia TTCK theo tinh thần xã hội hóa. Đối với doanh nghiệp, cơ bản, doanh nghiệp vẫn tận dụng hệ thống công nghệ thông tin, trang thông tin điện tử hiện có của doanh nghiệp mà không phải đầu tư chi phí để thực hiện giải pháp.
Các quốc gia trên thế giới có thể phân loại công bố thông tin công ty đại chúng theo tiêu chí quy mô (như Mỹ, Nhật Bản…) hoặc tiêu chí niêm yết (như Hàn Quốc), tuy nhiên ngày nay cách phân loại công ty đại chúng theo tiêu chí niêm yết không được nhiều thị trường áp dụng bởi cách thức này tạo ra một khoảng cách khá lớn về trách nhiệm công khai thông tin giữa các công ty niêm yết và các công ty không niêm yết, khiến cho nhiều công ty đại chúng “ngại” đưa chứng khoán lên niêm yết tập trung nhằm “né tránh” nghĩa vụ CBTT.
An Nhiên
[1] Tổ chức Quốc tế các ủy ban chứng khoán
[2]Khoản 1 Điều 25 Luật chứng khoán hiện hành quy định:
Công ty đại chúng là công ty cổ phần thuộc một trong ba loại hình sau đây:
a) Công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng;
b) Công ty có cổ phiếu được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán;
c) Công ty có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên.
[u1]Tiếp thu ý kiến Vụ PC Bộ