Hiến pháp năm 2013 có những quy định nhằm tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; trên cơ sở đó, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã cụ thể hóa về quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt (người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã); người bị tạm giữ, bị can và bị cáo tại các Điều 58, 59, 60 và 61 của Bộ luật.
1. Quy định về quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt (Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
Hiến pháp năm 2013 quy định không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Để khắc phục quy định tại Điều 81 BLTTHS năm 2003 về bắt người trong trường hợp khẩn cấp, đồng thời phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, cũng như để tạo điều kiện cho người bị bắt có cơ sở bảo vệ mình, BLTTHS năm 2015 bổ sung một số điều luật mới nhằm xác định tư cách tham gia tố tụng của “người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và người bị bắt”. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt là người bị nghi phạm tội vì vậy lời khai ban đầu của họ có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định lý do họ bị giữ, bị bắt và góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Việc BLTTHS quy định rõ địa vị pháp lý của họ với tư cách là người tham gia tố tụng góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự và hạn chế oan, sai trong quá trình giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, Điều 4 BLTTHS năm 2015 khi giải thích thuận ngữ người bị buộc tội, không nói đến người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp mà chỉ nói đến người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Mặc dù vậy, tác giả cho rằng người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là người bị buộc tội. Giữ người trong trường hợp khẩn cấp dù với thời hạn tối đa là 12 giờ, nhưng xét dưới góc độ lý luận thì họ cũng là người bị buộc tội. Theo điểm g, khoản 1 Điều 58 BLTTHS năm 2015 thì người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa. Quy định này là cần thiết và có ý nghĩa đối với việc bảo đảm quyền con người, quyền cá nhân của người bị giữ trong tố tụng hình sự.
Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã có quyền
: được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định truy nã; được biết lý do mình bị giữ, bị bắt, được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.
Có ý kiến cho rằng, Điều 10 BLTTHS năm 2003 đã quy định về quyền này; theo đó, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội; tại các Điều 48, 49, 50 quy định:
“Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai khi đưa ra ý kiến”. Và tương tự như vậy, đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt có quyền trình bày lời khai, đưa ra ý kiến hoặc chứng minh sự vô tội của mình được quy định là quyền mà không phải là nghĩa vụ của họ. Do đó, họ có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền này. Tuy nhiên, do xác định đây là một trong những quyền quan trọng của người bị buộc tội, cần được quy định rõ hơn, cụ thể hơn, nhằm tạo sự nhận thức thống nhất trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng, BLTTHS năm 2015 quy định, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt có quyền
“không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Quy định này phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam là thành viên.
Ngoài ra, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt còn có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá; tự bào chữa, nhờ người bào chữa; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có nhiệm vụ, quyền hạn trong việc bắt.
2. Quy định về quyền của người bị tạm giữ (Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. So với quy định về người bị tạm giữ trong BLTTHS năm 2003, về cơ bản, quy định về người bị tạm giữ trong BLTTHS năm 2015 không có sự khác biệt lớn, nhưng như đã phân tích ở trên, người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp trong BLTTHS năm 2003 nay được gọi là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Do vậy, BLTTHS năm 2015 quy định, người bị tạm giữ gồm: Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.
Để tạo điều kiện cho người bị tạm giữ tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, ngoài các quyền đã được quy định trong BLTTHS năm 2003 như:
Được biết lý do mình bị tạm giữ; được giải thích quyền và nghĩa vụ; được trình bày lời khai, được tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa; được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. BLTTHS năm 2015 quy định bổ sung các quyền
: Được nhận quyết định tạm giữ, quyết định ra hạn tạm giữ, quyết định phê chuẩn quyết định ra hạn tạm giữ và các quyết định tố tụng khác; được đưa ra chứng cứ, được trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; được trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá.
3. Quy định về quyền của bị can (Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Bị can theo quy định của BLTTHS năm 2003 là người đã bị khởi tố về hình sự, nhưng Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có sự thay đổi nhận thức về chủ thể của tội phạm không chỉ là cá nhân mà còn là pháp nhân. Sự thay đổi của Luật hình sự (luật nội dung) kéo theo sự thay đổi của luật tố tụng hình sự (luật hình thức). Hay nói cách khác, quy định của BLTTHS cần phải được thay đổi cho phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự. Do vậy, khái niệm bị can được hiểu rộng hơn là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân và theo quy định của BLTTHS.
Ngoài những quyền được quy định trong BLTTHS năm 2003:
Được biết lý do mình bị khởi tố; Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ; Nhận quyết định khởi tố bị can, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, bản kết luận điều tra; Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Tự bào chữa, nhờ người bào chữa; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm một số quyền để bị can có những thông tin cần thiết liên quan đến việc bị khởi tố và bảo vệ quyền lợi của mình. Đó là: (1) Quyền
“Được biết lý do mình bị khởi tố”. Bị can cần phải biết họ bị khởi tố về tội gì, và tại sao mình lại bị khởi tố, không có quyền đó thì họ không thể thực hiện được quyền bào chữa của mình. Việc giải thích cho bị can quyền và nghĩa vụ và lý do mình bị khởi tố cũng chính là để bị can nắm bắt được thông tin, chủ động trong việc thực hiện quyền bào chữa của mình. Trách nhiệm giải thích cho bị can trong trường hợp này thuộc về Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát và phải được ghi lại nội dung theo biên bản hỏi cung, đưa vào hồ sơ vụ án, đồng thời giúp bị can biết được các quyền để chống lại khi bị xâm hại đến tính mạng, sức khỏe một cách trái pháp luật. (2) Quyền được
“…trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Đây là một trong những quyền quan trọng của bị can, bị cáo và giải quyết được những bất cập trong các vụ án mà các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng lời khai bất lợi cho bị can, bị cáo hoặc chỉ sử dụng duy nhất lời nhận tội của họ để kết tội khi đưa ra truy tố, xét xử. Như vậy, bị can, bị cáo đều có quyền tự chủ về việc khai báo. Những gì bất lợi, họ có thể không buộc phải khai báo cũng như không buộc phải nhận mình có tội trước cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Khi làm việc với các cơ quan tố tụng, họ có thể không trả lời một số câu hỏi mà họ cho là chống lại họ và cũng không buộc phải khai nhận mình có tội, quy định này nhằm bảo đảm tính minh bạch của pháp luật, tạo sự nhận thức thống nhất trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung. Trên thực tế, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng luôn mong đợi sự hợp tác của người bị buộc tội, nhưng nếu không nhận được sự hợp tác tích cực của người bị buộc tội thì cũng không thể coi đó là tình tiết tăng nặng được. Bộ luật Hình sự cũng không coi người bị buộc tội không trả lời cơ quan, người tiến hành tố tụng những vấn đề bất lợi cho bản thân, không buộc phải nhận tội hay “ngoan cố, không khai báo thành khẩn” là tình tiết tăng nặng. Bị can, bị cáo có quyền khai báo sau khi được giải thích về quyền này. Việc nhận tội của bị can, bị cáo luôn được xem là tình tiết giảm nhẹ trong quyết định hình phạt đối với bị cáo. (3) Quyền được
“Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”. Sau khi đưa ra những chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, để có thể tự gỡ tội cho mình hoặc dùng làm tình tiết giảm nhẹ, bị can có quyền trình bày ý kiến của mình về những vật đó, và nếu cần thiết có thể yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá về tính xác thực, đúng đắn của những vật này. (4) Quyền được
“Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu”. Phải bảo đảm cho bị can xem xét tất cả những tài liệu liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội cũng như việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra để cho bị can biết mình bị buộc tội gì và bằng những chứng cứ nào. Từ đó, bị can có thể thực hiện tốt quyền bào chữa của mình. Bị can được xem xét tài liệu sẽ giúp cho việc khắc phục những thiếu sót và không đầy đủ trong quá trình điều tra cũng như việc tiến hành điều tra được khách quan và toàn diện. Điều này càng làm cho Điều tra viên có trách nhiệm hơn trong quá trình tiến hành điều tra vụ án.
4. Quy định về quyền của bị cáo (Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị tòa án quyết định đưa ra xét xử. Để bị cáo thực hiện tốt hơn quyền bào chữa của mình, BLTTHS năm 2015 ngoài việc sửa đổi khái niệm cho phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, còn quy định bổ sung thêm một số quyền. Theo đó, bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền của bị cáo là pháp nhân đã được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của BLTTHS.
Ngoài những quyền đã được ghi nhận trong BLTTHS năm 2003 như:
Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác; Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; nói lời sau cùng trước khi nghị án; kháng cáo bản án, quyết định của tòa án; quyền xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và các quyền khác theo quy định của pháp luật; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. BLTTHS năm 2015 không chỉ quy định rõ ràng hơn mà còn bổ sung thêm một số quyền như: (1) Quyền được “
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”. Thường thì những chứng cứ, tài liệu, đồ vật này có ý nghĩa gỡ tội cho bị cáo, chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc chứng minh những tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử khi nhận được các chứng cứ, tài liệu, đồ vật do bị cáo cung cấp thì phải tiến hành kiểm tra, đánh giá khách quan để xác định các chứng cứ, tài liệu, đồ vật đó có phải là chứng cứ trong vụ án hay không? và giá trị của nó trong việc xác định sự thật của vụ án. (2) Quyền được
“Trình bày lời khai, …, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”.Tại phiên toà trước Hội đồng xét xử, bị cáo có quyền được trình bày về lời khai của mình, hoặc họ có thể không buộc phải khai báo cũng như không buộc phải nhận mình có tội trước Hội đồng xét xử. (3) Quyền
“Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa”.Việc đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa sẽ làm tăng tính chủ động cho bị cáo, giúp bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình được tốt hơn, việc hỏi cũng như đối chất trực tiếp tại phiên tòa sẽ là căn cứ quan trọng làm cho việc xét xử được khách quan hơn cũng như tăng tính thuyết phục hơn. (4) Quyền được “
Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa”.Để tránh sai sót trong việc ghi chép lại quá trình diễn ra tại phiên tòa, bị cáo có quyền xem biên bản phiên tòa và yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản đó, điều này đồng nghĩa với việc bị cáo đồng ý với quá trình xét xử nếu không có những yêu cầu bổ sung hoặc thay đổi khác. (5) Bị cáo còn có “
Các quyền khác theo quy định của pháp luật”. Những quyền này sẽ được thể hiện rõ sau khi các văn bản hướng dẫn có hiệu lực.
Như vậy, những quy định mới về quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt (người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã); người bị tạm giữ, bị can và bị cáo trong tố tụng hình sự sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử; nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Những quy định mới này đòi hỏi Điều tra viên phải sử dụng các kỹ năng để thu thập những chứng cứ buộc tội và gỡ tội, tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm của người bị buộc tội; Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ ngay từ khi khởi tố điều tra cho đến khi truy tố, xét xử; Thẩm phán chủ toạ phiên toà thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm tính công bằng, đúng đắn, chính xác trong quá trình xét xử. Mọi hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải được đảm bảo thực hiện khách quan, công tâm, đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, bảo đảm việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với người bị buộc tội đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và làm oan người vô tội, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền của người bị buộc tội.
ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải