Đặc điểm dễ nhận thấy nguồn vốn hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, nặng về huy động vốn từ trong dân cư (chiếm tới 70% – 80% lợi nhuận thu được của mỗi ngân hàng
[1]). Nếu để phá sản một ngân hàng, người dân gửi tiền vào ngân hàng đó sẽ phải gánh chịu hậu quả kèm theo nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Ngoài ra, nền kinh tế cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, tạo ra hiệu ứng
“Đôminô” với các ngân hàng khác, nếu người dân mất lòng tin, đồng loạt đi rút tiền. Do đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải gánh trọng trách là “
người cho vay cuối cùng” nhằm mục đích quản lý, duy trì sự bình ổn của hệ thống ngân hàng và sự bình ổn của cả nền kinh tế.
Tuy nhiên, NHNN không thể lúc nào cũng phải thực hiện vai trò “
bà đỡ” đối với các ngân hàng hoạt động yếu kém. Giải pháp kiểm soát đặc biệt chỉ hiệu quả đối với từng trường hợp cụ thể. Đã đến lúc phải để các ngân hàng vỡ nợ phá sản theo quy luật của kinh tế thị trường. Chỉ có điều, cho đến nay, các vấn đề pháp lý trong phá sản ngân hàng vẫn còn nhiều bất cập. Hệ thống pháp luật xung quanh việc phá sản ngân hàng còn chưa đồng bộ.
Được sự đồng ý của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã xây dựng Đề án Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016 – 2020, gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mà theo đó, đề ra 10 nhiệm vụ gắn thời gian thực hiện cụ thể của các Bộ, Ngành, Địa phương và các đơn vị liên quan, trong đó có một số nhiệm vụ cần ưu tiên thực hiện ngay trong giai đoạn 2017 - 2018, cụ thể như:
Kiên quyết xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng, lành mạnh hóa thị trường tài chính, đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu một cách hiệu quả và thực chất, áp dụng các biện pháp phá sản đối với các ngân hàng thương mại yếu kém.
Thực tiễn tình trạng nợ xấu, thua lỗ của các NHTM ở nước ta trong thời gian qua cho thấy, việc chưa có ngân hàng nào bị phá sản không phải xuất phát từ chỗ ngân hàng hoạt động hiệu quả mà là tư duy của chúng ta khác với tư duy ở một số quốc gia khác. Cụ thể:
Một là, tư duy “ bao bọc”. Ở đây là sự bao bọc của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với các NHTM, của “
mẹ” đối với các “
con” thông qua việc mua lại, cho sáp nhập, hợp nhất, xử lý theo các biện pháp hành chính nhằm “
cứu” các ngân hàng bị thua lỗ.
Hai là, tư duy trên đã dẫn đến tư duy không chấp nhận rủi ro và tâm lý ỷ lại. Kiểu như “
đứa con” cứ thoải mái trong hoạt động, còn những vấn đề “
hậu sự” đã có “
bà đỡ” lo liệu. Các ngân hàng nên tự chịu trách nhiệm về những thất bại trong kinh doanh của họ, chấp nhận sự phá sản nếu hoạt động không hiệu quả. Việc cho phá sản ngân hàng có tính tích cực là các ngân hàng sẽ cẩn trọng hơn trong hoạt động của mình.
Ba là, người Việt Nam nói riêng và châu Á nói chung có tâm lý chung rất “
dị ứng” với một số vấn đề thực tế trong cuộc sống, như ly hôn, lập di chúc, giải thể, phá sản... Theo nghiên cứu của bà Natalie Martin (giáo sư luật của Đại học New Mexico, công tác tại Viện Phá sản Hoa Kỳ), thì “
Ở Nhật Bản sự sỉ nhục vì bị phá sản lớn đến nỗi người ta có thể tự sát”.
Bốn là, người Việt Nam quan niệm phá sản là kết thúc, là chấm hết sự nghiệp kinh doanh. Nhưng theo bà Natalie Martin thì trên thực tế, luật về phá sản của Hoa Kỳ được xây dựng để sao cho những người thất bại trong kinh doanh được khuyến khích tiếp tục theo đuổi công việc kinh doanh của mình. Và khả năng có thể bắt đầu lại công việc kinh doanh chính là động lực khiến cho một số người Mỹ sẵn sàng chấp nhận rủi ro trong kinh doanh, và đây là điều có lợi cho toàn bộ nền kinh tế
[2].
1.Quy định của pháp luật về phá sản tổ chức tín dụng
Điều 155 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định phá sản tổ chức tín dụng như sau:
“1. Sau khi Ngân hàng Nhà nước có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng vẫn lâm vào tình trạng phá sản, thì tổ chức tín dụng đó phải làm đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản.
“2. Khi nhận được yêu cầu mở thủ tục phá sản tổ chức tín dụng theo quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản và áp dụng ngay thủ tục thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật về phá sản.”
Luật Phá sản năm 2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 thay thế Luật phá sản năm 2014, mà theo đó, Điều 98 của Luật này quy định về quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, như sau:
“Sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng vẫn mất khả năng thanh toán thì những người sau đây có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản:
1. Người quy định tại các khoản 1[3], 2[4], 5[5] và 6[6] Điều 5 của Luật này;
2. Tổ chức tín dụng có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; trường hợp tổ chức tín dụng không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với tổ chức tín dụng đó.”
Chủ nợ là người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, tuy nhiên, nghiên cứu qui định phá sản đối với tổ chức tín dụng, không riêng gì nước ta, mà pháp luật của nhiều nước trên thế giới qui định có sự hạn chế tối đa đối với các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này. Bởi đây là lĩnh vực hoạt động có tính chất nhạy cảm, dễ gây ảnh hưởng dây truyền đến hệ thống ngân hàng – tín dụng. Trước khi có Luật phá sản năm 2014, việc xử lí tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng phá sản được thực hiện theo Nghị định số 05/2010/NĐ-CP ngày 18/01/2010 của Chính phủ quy định về việc áp dụng Luật Phá sản đối với các tổ chức tín dụng (TCTD). Mà theo đó, tại Điều 3 của Nghị định này, có quy định về điều kiện xác định TCTD lâm vào tình trạng phá sản
“Tổ chức tín dụng không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu, sau khi Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán hoặc chấm dứt áp dụng kiểm soát đặc biệt thì được coi là lâm vào tình trạng phá sản.”
Những người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản gồm: Chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần của TCTD; người lao động làm việc trong TCTD; chủ sở hữu của TCTD nhà nước, cổ đông của TCTD cổ phần. Trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, nếu nhận thấy TCTD lâm vào tình trạng phá sản, NHNN và các cơ quan có liên quan theo quy định của pháp luật có nhiệm vụ thông báo bằng văn bản cho những người nêu trên biết để họ xem xét việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Cơ quan thông báo phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông báo đó. Ngoài ra, đại diện hợp pháp của TCTD có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi nhận thấy tổ chức mình lâm vào tình trạng phá sản. Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản khi có đủ 2 điều kiện: i) NHNN đã có văn bản về việc không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán của TCTD; ii) TCTD vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, có trường hợp TCTD đủ điều kiện mở thủ tục phá sản, nghĩa là TCTD đó đã thật sự “
chết lâm sàn”, nhưng đại diện hợp pháp của TCTD đó vẫn không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Đây là trở ngại, khó khăn để tiến hành thủ tục Tòa án tuyên bố phá sản đối với TCTD đó. Khắc phục hạn chế này, Điều 98 Luật Phá sản năm 2014, bổ sung quy định:
“Tổ chức tín dụng có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; trường hợp tổ chức tín dụng không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với tổ chức tín dụng đó.”
2.Mức bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng
Người gửi tiền ở các ngân hàng hoặc TCTD, đều phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Có nghĩa là khi một ngân hàng nào đó, giải thể, sáp nhập hoặc nộp đơn xin phá sản thì khách hàng gửi tiền tại TCTD đó đều được bảo hiểm tiền gửi chi trả số tiền được bảo hiểm nhất định. Điểm 29 mục VI Thông tư 03/2006/TT-NHNN ngày 25/4/2006 của Ngân hàng Nhà nước về việc hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 về bảo hiểm tiền gửi và Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP, có quy định: “
Mức tiền tối đa mà một người gửi tiền tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi được Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chi trả là 50 triệu đồng (gồm cả gốc và lãi) và được xác định như sau:
a) Toàn bộ số dư các khoản tiền gửi (gồm cả gốc và lãi) của một cá nhân hoặc một tổ chức đủ tiêu chuẩn được bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi được cộng gộp lại để xác định số tiền chi trả bảo hiểm tiền gửi;
b) Khoản tiền gửi được bảo hiểm của các đồng chủ tài khoản (bao gồm: nhiều cá nhân, một hoặc nhiều cá nhân và tổ chức, nhiều tổ chức) được coi là khoản tiền gửi của một người gửi tiền và mức chi trả bảo hiểm tiền gửi tối đa (cả gốc và lãi) là 50 triệu đồng, sẽ được chia theo tỷ lệ bằng nhau cho các đồng chủ tài khoản (trừ trường hợp các đồng chủ tài khoản có các cam kết và thoả thuận khác phù hợp với quy định của pháp luật về sử dụng tài khoản).
Nếu một trong các đồng chủ tài khoản nêu trên có các khoản tiền gửi khác được bảo hiểm tại cùng một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi thì các khoản tiền đó sẽ được cộng với phần được chi trả bảo hiểm theo tài khoản đồng sở hữu để xác định mức chi trả bảo hiểm cho tổ chức, cá nhân đó;
c) Người gửi tiền có tổng số tiền gửi được bảo hiểm (gồm cả gốc và lãi) tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bằng hoặc nhỏ hơn 50 triệu đồng sẽ được Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chi trả toàn bộ số tiền gửi. Người gửi tiền có tổng số tiền gửi được bảo hiểm (gồm cả gốc và lãi) lớn hơn 50 triệu đồng thì phần vượt trên 50 triệu đồng sẽ được trả trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phù hợp với quy định của pháp luật về giải thể, phá sản;
d) Trường hợp người gửi tiền có nghĩa vụ trả nợ đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, số tiền gửi được bảo hiểm của người gửi tiền đó sẽ là số tiền chênh lệch giữa số tiền gửi và số tiền mà người gửi tiền còn nợ tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.”
Ví dụ khách hàng gửi tiết kiệm 100 triệu đồng tại NHTM A, trong trường hợp ngân hàng mất khả năng thanh toán dẫn đến không có khả năng chi trả, chấm dứt hoạt động, bảo hiểm tiền gửi sẽ chi trả cho người gửi tiền 50 triệu đồng, số còn lại cùng với lãi ở ngân hàng sẽ được giải quyết theo quy định của Luật Phá sản năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2014). Đối với trường hợp ngân hàng giải thể, không tiếp tục hoạt động, ngân hàng sẽ phải thực hiện mọi nghĩa vụ cho khách hàng trước khi giải thể. Còn trong trường hợp ngân hàng được một ngân hàng khác mua lại hay sáp nhập thì ngân hàng trong tương lai sẽ tiếp quản, giải quyết các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng cũ.
Với quy định trên, người gửi tiền có thể “
lách” được sự giới hạn 50 triệu trên tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, bằng cách chia nhỏ khoản tiền của họ và đem gửi tại các ngân hàng khác nhau, để sao cho tổng tiền gửi và lãi phát sinh tại mỗi ngân hàng là không quá 50 triệu. Tuy nhiên, trên thực tế đã có bao nhiêu người gửi tiền đã làm điều này?
Tại sao Nhà nước lại quy định mức chi trả tối đa tiền gửi được bảo hiểm là 50 triệu đồng? Mà không là 70 triệu hay mức cao hơn? Quy định này xuất phát từ hai lý do sau:
Một là, số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bao gồm tiền gốc và tiền lãi, tối đa bằng hạn mức trả tiền bảo hiểm quy định.
Hai là, hạn mức chi trả tiền bảo hiểm thể hiện chính sách của Nhà nước, được xây dựng trong từng thời kỳ và việc xác định hạn mức cần đảm bảo đồng thời 2 nguyên tắc:
i) Hạn mức cần đủ cao để duy trì niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng;
ii) Hạn mức cần đủ thấp để những người gửi tiền quy mô lớn không chủ quan với các hoạt động ngân hàng thiếu an toàn và rủi ro, qua đó kiểm soát và điều tiết rủi ro đạo đức, tránh tình trạng mạo hiểm trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Ngoài ra, việc xác định hạn mức tối đa bảo hiểm tiền gửi cần tính tới các yếu tố có liên quan như: Thu nhập GDP bình quân đầu người, lạm phát, tỷ giá, lòng tin của người dân vào hệ thống tài chính; tỷ lệ % người gửi tiền được bảo vệ toàn bộ tính trên tổng số người gửi tiền; mức độ rủi ro của hệ thống ngân hàng và tổng thể nền kinh tế.
Tuy nhiên, khách hàng gửi tiền vẫn chưa thật sự an tâm, vì theo thông lệ quốc tế, quỹ bảo hiểm tiền gửi/Tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm thường là 2,5% - 3% nhưng tỷ lệ này ở Việt Nam vào khoảng 1%, được nhìn nhận là tỉ lệ khá thấp so với các nước khác. Hơn nữa, mức chi trả bảo hiểm 50 triệu đồng/một người gửi tiền được quy định vào năm 2005 (năm 2005, thu nhập GDP bình quân đầu người trên 10,0 triệu đồng, tương đương khoảng 640 USD
[7]), trong khi mức thu nhập bình quân đầu người năm 2016 ước tính 2.200 USD (xấp xỉ 50 triệu đồng) cao hơn bình quân thu nhập người 45,7 triệu đồng năm 2015 (tương đương 2.019 USD), như vậy, rõ ràng đến nay mức bảo hiểm tiền gửi 50 triệu đồng như trên là không còn phù hợp với tình tình tăng trưởng kinh tế của nước ta. Hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi thấp, phần nào sẽ làm giảm hiệu quả chính sách bảo hiểm cũng như ảnh hưởng đến niềm tin công chúng đối với hệ thống tài chính, ngân hàng. Nghị định 89/1999/NĐ-CP trước đây đã quy định hạn mức chi trả tối đa tiền gửi được bảo hiểm là 30 triệu, Nghị định số 109/2005/NĐ-CP đã sửa đổi và quy định nâng lên mức 50 triệu đồng. Việc nâng cao quyền lợi người gửi tiền trong đó có việc nâng cao hạn mức chi trả luôn luôn là những động thái giúp củng cố niềm tin cho người gửi tiền vào hệ thống tài chính quốc gia, góp phần giảm thiểu lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Trước sự bất cập cũng như vai trò ngày càng lớn của bảo hiểm tiền gửi trong xu thế hội nhập toàn cầu, khi cơn bão tài chính thế giới để lại không ít bài học cho nền kinh tế quốc tế, đòi hỏi phải có các giải pháp nâng cao hơn nữa hoạt động bảo hiểm tiền gửi trong thời gian tới, mà theo đó cần nâng mức bảo hiểm tiền gửi tối đa lên 04 lần so với mức hiện tại, có như vậy mới tạo được lòng tin của người dân đối với hệ thống ngân hàng, lành mạnh hóa thị trường tài chính.
Mặt khác, Quốc hội xem xét cần thiết ban hành Luật Bảo hiểm tiền gửi, nhằm tạo hành lang pháp lý để hoạt động của bảo hiểm tiền gửi phát huy tối đa vai trò bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, góp phần đảm bảo cho hệ thống tài chính phát triển an toàn và bền vững. Đồng thời, mở rộng hơn nữa đối tượng tiền gửi được bảo hiểm. Theo quy định hiện hành, tiền gửi được bảo hiểm là VND của cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, các doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, trừ các trường hợp: Tiền gửi của người gửi tiền là cổ đồng sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó; tiền gửi của người gửi tiền là thành viên của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc) và Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc) của tổ chức tham gia BHTG đó; tiền gửi dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền; tiền mua các giấy tờ có giá, trừ một số giấy tờ có giá theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Việc mở rộng hơn nữa đối tượng tiền gửi được bảo hiểm là hoàn toàn chính đáng. Điều này phù hợp với đòi hỏi thực tiễn là luật pháp cần bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Mặt khác, hiện nay chỉ có tiền gửi của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng được bảo hiểm, chưa mở rộng tới các tổ chức tài chính có chức năng đặc thù khác như công ty bảo hiểm nhân thọ, công ty nhận ủy thác đầu tư chứng khoán v.v..., tức là vẫn còn một bộ phận người gửi tiền nằm ngoài phạm vi hoạt động của bảo hiểm tiền gửi, lợi ích hợp pháp của bộ phận này chưa được bảo vệ. Tính an toàn của cả hệ thống sẽ bị hạn chế.
3.Phá sản ngân hàng yếu kém trong tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế đất nước là tất yếu khách quan
Trong kinh doanh, mọi doanh nghiệp đều bình đẳng, NHTM cũng là một doanh nghiệp, vì vậy việc kinh doanh thua lỗ dẫn đến chấm dứt hoạt động là việc bình thường. Bởi lúc kinh tế khó khăn, hàng nghìn doanh nghiệp thua lỗ phá sản, còn nhiều ngân hàng lại báo cáo lãi hàng nghìn tỷ đồng !?. Sau đó, các ngân hàng yếu kém lại được Nhà nước đứng ra bảo đảm tính thanh khoản là điều vô lý, dù bảo đảm bằng nguồn tiền nào đi nữa thì cũng là tiền đóng thuế của dân. Ai cũng biết, lĩnh vực ngân hàng rất nhạy cảm, nếu để ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến người gửi tiền, gây bất ổn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, khi ngân hàng phá sản thì người gửi tiền vẫn được xem là một chủ nợ và được phân chia tài sản còn lại của ngân hàng.
Việc phá sản của ngân hàng cũng là chuyện bình thường. Chính sách tiền tệ là vì lợi ích của hàng trăm nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, chứ không phải vì lợi ích của vài chục ngân hàng. Nếu không cho ngân hàng phá sản thì sẽ không có kinh tế thị trường đúng nghĩa của nó. Cho nên, ngân hàng nào làm tốt thì tồn tại, nếu không tốt, không sáp nhập, thì mạnh dạn cho phá sản. Người dân cũng phải lựa chọn ngân hàng tốt, hoạt động có hiệu quả, tạo được lòng tin, để gửi tài sản của mình vào đó.
Có lẽ việc cho phá sản các NHTM yếu kém là điều chưa có tiền lệ ở Viêt Nam, chính vì vậy, xoay quanh vấn đề này còn có những ý kiến trái chiều nhau. Cụ thể:
+Quan điểm thứ nhất cho rằng: Phá sản ngân hàng yếu kém là chưa phải lúc dù chỉ là thí điểm và về lâu dài định hướng này phải gắn liền với việc đảm bảo 100% tiền gởi của người dân. Luật Phá sản năm 2014 bị điểm rất thấp trong các báo cáo
Doing Business của Ngân hàng Thế giới (World Bank) vì quy trình xử lý tốn rất nhiều thời gian, việc xếp hạng đó mới chỉ là cho doanh nghiệp bình thường, chứ chưa nói tới tổ chức tín dụng vốn phức tạp và nhạy cảm hơn nhiều. NHTM, kể cả những ngân hàng tốt đều dựa chủ yếu vào tiền gửi. Vì thế, củng cố lòng tin, hành vi của người gửi tiền, của công chúng nói chung trong bối cảnh hiện nay là rất quan trọng để giữ an toàn hệ thống.
Vì vậy, ý tưởng cho thí điểm phá sản các ngân hàng yếu kém cũng khẳng định chỉ cho phá sản theo nguyên tắc bảo đảm được quyền lợi của người gửi tiền và sự ổn định của hệ thống tài chính, đề án yêu cầu rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về sáp nhập, hợp nhất, mua lại, phá sản, giải thể,… đối với việc tổ chức lại hệ thống tín dụng. Để làm được điều đó, cần nhiều thời gian để xử lý một khối lượng công việc khổng lồ, nếu không muốn nói là “
một núi công việc”, như minh bạch hóa thông tin, tăng cường truyền thông, chuẩn bị quy trình sửa đổi, bổ sung các luật có liên quan bảo đảm tính đồng bộ,… Trong khi đó, nguyên nhân của nợ xấu chính là con nợ không trả được, thậm chí không chịu trả nợ mà quy định của pháp luật hiện hành chưa xử lý triệt để vấn đề vướng mắc này. Hậu quả là gây ra tình trạng ách tắc tài chính, gây tai họa cho cả nền kinh tế. Trong khi đó, quy định về mua bán nợ cũng đang rất bất cập. Nghị định số 69/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ về Điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ, đặt ra điều kiện quá cao, như phải có các mức vốn pháp định 5 tỉ đồng đối với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ môi giới mua bán nợ, tư vấn mua bán nợ; 100 tỉ đồng đối với doanh nghiệp kinh doanh hoạt động mua bán nợ và 500 tỉ đồng đối với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch nợ (các điều 5, 6, 7, 8 Nghị định này).
Mặt khác, vướng mắc của việc xử lý nợ xấu chủ yếu nằm trong các đạo luật, nên muốn tháo gỡ thì phải sửa luật. Chẳng hạn như khi Luật Đất đai năm 2003 quy định được bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất thì Bộ luật Dân sự năm 2005 không cho phép, đến khi Luật Đất đai năm 2013 bỏ quy định được bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, thì Bộ luật Dân sự năm 2015 lại cho phép. Các quy định của Luật Đất đai năm 2013 trong vấn đề phát mãi tài sản bảo đảm còn chưa tạo ra được cơ chế thuận lợi, khiến cho việc phát mãi tài sản bảo đảm gặp nhiều khó khăn.
+Quan điểm thứ hai: Đồng tình với phương án cho phá sản ngân hàng yếu kém, dù chỉ là thí điểm thực hiện chủ trương này, bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất, về mặt cơ sở pháp lý, được quy định tại Chương VIII Thủ tục phá sản tổ chức tín dụng (từ Điều 97 đến Điều 104) Luật Phá sản năm 2014; Điều 155 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 cũng có quy định vấn đề này
.Như vậy, NHTM vẫn thuộc đối tượng phá sản và việc phá sản của ngân hàng cũng là chuyện bình thường như mọi loại hình doanh nghiệp khác.
Thứ hai, trong kinh doanh mọi doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật. Bản thân NHTM cũng là một doanh nghiệp, vì vậy việc kinh doanh thua lỗ dẫn đến chấm dứt hoạt động là việc bình thường. Hiện nay, người thành lập NHTM thì cũng như người thành lập doanh nghiệp thì tại sao khi kinh doanh có lãi thì họ được hưởng, trong khi họ khó khăn thì Nhà nước lại đứng ra đảm bảo tính thanh khoản cho họ? Việc bơm tiền cho NHTM với bất kỳ lý do nào cũng cần phải xem xét một cách kỹ lưỡng. Vì dù là tiền của Chính phủ, của NHNN bỏ ra hay của ngân hàng có vốn Nhà nước như là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV) hay bất kỳ ngân hàng nào thì cũng là tiền của nhân dân, của doanh nghiệp từ việc đóng thuế. Việc bơm tiền vào các NHTM, cộng đồng doanh nghiệp và người dân có quyền đặt câu hỏi tại sao Nhà nước không bơm tiền giúp họ lúc họ đang khó khăn, trong khi lợi ích mà họ mang lại cho nền kinh tế hay cho xã hội từ việc giải quyết việc làm, đóng thuế…không thua bất kỳ một ngân hàng nào?
Thứ ba, nếu cho rằng ngân hàng là một lĩnh vực nhạy cảm, nếu để ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến người gửi tiền, gây bất ổn cho nền kinh tế. Người viết cho rằng đều này cần phải xem xét lại. Bởi vì, hoạt động gửi tiền của tổ chức, cá nhân bản chất là một hợp đồng dân sự được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự. Vì vậy, việc rủi ro trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng trong điều kiện hoàn cảnh có thay đổi là hoàn toàn có thể xảy ra. Bản thân người gửi tiền, họ cũng đã có hưởng lợi ích nhất định từ việc gửi tiền và họ hoàn toàn có quyền lựa chọn ngân hàng khi gửi tiền, ngoài ra họ còn được bảo hiểm tiền gửi. Đồng thời, khi giải quyết phá sản ngân hàng thì họ vẫn được xem là một chủ nợ và được phân chia tài sản còn lại của ngân hàng tùy theo trường hợp cụ thể.
Thứ tư, nếu việc tiếp tục không để cho các ngân hàng kinh doanh thua lỗ phá sản sẽ tạo ra một tiền lệ xấu. Đã đến lúc cần nhận thức lại vấn đề này, thay đổi quan niệm đã thành lập được ngân hàng thì không thể phá sản được. Chính vì vậy, có hiện tượng tranh nhau thành lập hàng loạt ngân hàng, mở hàng loạt chi nhánh, phòng giao dịch để thực hiện hoạt động kinh doanh vì đây là một lĩnh vực siêu lợi nhuận trong khi việc kiểm soát rủi ro, nợ xấu, tính thanh khoản lại không được quan tâm đúng mức đến khi họ rơi vào tình trạng khó khăn thì được Nhà nước giúp họ “
tái sinh”.
Thứ năm, trên thế giới, việc phá sản ngân hàng là một quy luật tự nhiên, họ xem việc phá sản ngân hàng là một việc bình thường như những doanh nghiệp khác ngay cả ở Mỹ vừa rồi hàng loạt ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật chung của việc kinh doanh. Hàng loạt ngân hàng trên thế giới có quy mô lớn hơn rất nhiều so với các ngân hàng ở Việt Nam thì cũng có thể phá sản nhưng ở Việt Nam thì việc phá sản ngân hàng chưa có tiền lệ!. Không nên vì sự yếu kém của những người quản lý trong một số ngân hàng mà để cả xã hội phải gánh chịu gây bất bình đẳng trong việc quản lý điều hành doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, tất cả đều chịu sự chi phối mãnh liệt của quy luật cạnh tranh ,việc thành lập, phá sản là một quy luật tự nhiên trong kinh doanh. Vì vậy, việc phá sản những ngân hàng yếu kém là một quy luật tất yếu khách quan của xã hội, phù hợp với quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Người dân, các doanh nghiệp hoàn toàn chia sẽ những khó khăn chung của đất nước. Trong thời gian sắp tới, ngoài việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thông qua hình thức hợp nhất, sáp nhập cũng sẽ mạnh dạn cho những ngân hàng yếu kém phá sản.
Người viết đồng tình với quan điểm thứ hai, vì: Trên thực tế, đây không phải lần đầu tiên ý tưởng cho phá sản các ngân hàng yếu kém được nêu ra. Trước đó, các chuyên gia kinh tế đã không ít lần kiến nghị phải có các giải pháp mạnh tay mới có thể ngăn chặn được tình trạng các ông chủ lập ngân hàng rồi rút vốn cho vay các công ty sân sau, đến lúc thua lỗ lại nhờ sự giải cứu của NHNN. Việc cho phá sản ngân hàng yếu kém, hoạt động không hiệu quả sẽ mang lại một số hệ quả tích cực.
Thứ nhất, người gửi tiền sẽ phải cân nhắc, lựa chọn kỹ hơn địa chỉ mình muốn gửi tiền vào. Thay vì chỉ nhắm đến các ngân hàng có mức lãi suất cao thì nay họ cũng phải quan tâm đến yếu tố an toàn cho khoản tiền của mình. Điều này sẽ góp phần làm giảm hiện tượng chạy đua lãi suất huy động trong hệ thống. Các ngân hàng có chất lượng tốt, quản trị minh bạch, thanh khoản dồi dào sẽ không phải chạy theo các ngân hàng nhỏ trong việc nâng lãi suất huy động để giữ chân người gửi tiền, từ đó họ có thể cắt giảm lãi suất cho vay nhờ nguồn tiền huy động có chi phí thấp.
Thứ hai, quan trọng hơn, các ông chủ ngân hàng kinh doanh thiếu minh bạch sẽ không dễ để huy động nguồn vốn rồi cho vay các dự án sau như trước. Qua đó, nợ xấu phát sinh do cho vay không đúng mục đích sẽ được hạn chế, NHNN cũng không phải can thiệp, giải cứu các ngân hàng làm ăn thua lỗ đến mức âm vốn chủ sở hữu nữa.
Dù rằng có một số lo ngại vì từ trước tới nay Việt Nam chưa cho ngân hàng phá sản nhưng theo quan điểm người viết cho rằng việc thí điểm này cần làm từng bước một và cần có sự chuẩn bị kỹ, đặc biệt là ở công tác truyền thông để người gửi tiền dần quen với việc phải chịu trách nhiệm với chính khoản tiền của mình, tránh tâm lý bị sốc khi có sự cố. Bên cạnh đó, cũng cần phải xem xét nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi lên mức cao hơn, như trên đã đề cập nhằm đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người gửi tiền.
4. Kinh nghiệm của một số quốc gia về phá sản ngân hàng yếu kém
Trước khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007, nhiều quốc gia đã có phương pháp đặc thù trong việc cho các ngân hàng yếu kém phá sản. Theo đó, quá trình này được tiến hành qua các công ty luật theo hai cách.
+Cách thứ nhất, Quản tài viên (thường là kế toán viên công chứng, luật sư) sẽ được chỉ định thanh lý tài sản của ngân hàng để tối đa hóa số tiền thu được từ thanh lý tài sản cho chủ nợ, theo thứ tự ưu tiên thanh toán khi phá sản công ty.
+Cách thứ hai, Người thanh lý tài sản sẽ tập trung vào việc bán toàn bộ hay phần lớn ngân hàng như một thực thể, điển hình là trường hợp của Lehman Brothers, Barings Banks ở Mỹ và Northern Rock ở Anh.
Việc một quốc gia thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi sẽ đem đến các thay đổi quan trọng, cả trên khía cạnh chi trả cho người gửi tiền một số tiền nhất định và liệu cơ quan bảo hiểm tiền gửi có đủ quyền để yêu cầu ngân hàng thực hiện phá sản theo cách thứ hai ở trên hay không. Nếu cơ quan bảo hiểm tiền gửi có quyền này, họ có thể yêu cầu thực hiện phá sản ngân hàng sớm hơn để giảm thiểu số tiền phải thanh toán từ nguồn bảo hiểm tiền gửi.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tạo ra một khái niệm mới về ngân hàng, đó là
“quá lớn để có thể sụp đổ”. Điều này xảy ra khi ngân hàng trung ương và chính phủ của một quốc gia lo lắng rằng sự sụp đổ của một ngân hàng lớn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự tồn tại của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế quốc gia đó. Do vậy, chính phủ của nhiều nước đã can thiệp và hỗ trợ các ngân hàng nhằm ổn định hoạt động và đảm bảo sự tồn tại của hệ thống.
Các cơ quan chịu trách nhiệm quản lý tài chính của quốc gia và các nhà lập pháp trên thế giới đã bắt đầu thực hiện khái niệm về “
Kế hoạch giải quyết và phục hồi - RRP” để đối phó với tư duy “
quá lớn để có thể sụp đổ”. Khái niệm này gồm 2 tầng.
Tầng thứ nhất, cần có kế hoạch để đáp ứng các thách thức bao gồm theo dõi chặt chẽ các thông tin về trạng thái tài chính; có kế hoạch chi tiết đối với loại tài sản sẽ được bán, thanh lý, loại tài sản cần được bảo vệ để đảm bảo lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.
Tầng thứ 2, bao gồm việc ban hành các quy trình pháp lý để cơ quan quản lý có cơ sở để quản lý các ngân hàng trong những tình huống này. Thông thường, các quy định này bao gồm 4 hướng giải quyết sau: i) Ngân hàng sẽ được bán cho một bên thứ ba; ii) Được quản lý bởi các công ty quản lý tài sản (hoặc một ngân hàng trung gian) trước khi được bán lại (đối với các ngân hàng có tiềm năng sau khi được xử lý); iii) Được áp dụng biện pháp giảm nợ hoặc xóa nợ (bailed-in) từ trái chủ, theo đó, các khoản nợ bằng trái phiếu có thể được chuyển đổi thành vốn chủ sở hữu, trong các tình huống xấu hơn như trường hợp của Síp, tiền gửi của khách hàng có thể bị “bailed-in” thay vì được áp dụng các quy định về bảo hiểm tiền gửi; iv) Nhận gói cứu trợ từ chính phủ (tạm thời thuộc quyền sở hữu của nhà nước).
Nhìn ngược lại thời gian trước, trong khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, hàng loạt ngân hàng trên thị trường châu Á đã bị phá sản một cách nhanh chóng. Trong nhiều trường hợp, việc đóng cửa ngân hàng đều thuộc các biện pháp đề cập ở trên, chẳng hạn, đa số ngân hàng bị sáp nhập bắt buộc (Hàn Quốc, Indonesia, Malaysia); bị mua lại bởi các đối tác nước ngoài (Thái Lan, Nhật Bản); một số ngân hàng nhận được sự hỗ trợ từ chính phủ và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) thông qua các ngân hàng trung gian, hoặc thông qua các công ty mua bán tài sản (AMC) (Indonesia, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc…)
[8]
5. Việt Nam cần có cơ chế thích hợp để phá sản các ngân hàng yếu kém
Thách thức lớn nhất đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam là việc xây dựng niềm tin của người dân về việc sử dụng ngân hàng. Chính vì vậy, câu hỏi đặt ra không phải là việc liệu một ngân hàng nào đó quá lớn để có thể sụp đổ; mà là hệ thống ngân hàng có đủ mạnh để cho phá sản các ngân hàng yếu kém? Trong tất cả các trường hợp, xây dựng niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng là vấn đề tối quan trọng đối với nền kinh tế.
Việt Nam đã có một ngân hàng cầu nối dưới hình thức công ty mua bán nợ (VAMC) và có thể được sử dụng để mua các ngân hàng yếu kém khi cần thiết. Tuy nhiên, làm thế nào để giải quyết các lợi ích của chủ sở hữu cũng là một nội dung cần được bàn bạc. Mô hình mua ngân hàng giá 0 đồng tương tự như được thực hiện ở Anh và Mỹ cũng là một phần của giải pháp, vì điều này đã giải quyết vấn đề về lợi ích tương lai của cổ đông.
Các giải pháp thay thế khác có thể được xem xét gồm cho phép ngân hàng phá sản thông qua việc chỉ định quản tài viên hoặc bên quản lý và thanh lý tài sản. Vấn đề lo ngại lớn nhất cho những tình huống này là việc bảo vệ khách hàng gửi tiền nhỏ lẻ. Việc cho phá sản các ngân hàng yếu kém có thể được thực hiện một cách dễ dàng mà không sợ đánh mất lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng, do lợi ích của họ đã được bảo vệ.
Tóm lại, Việt Nam hoàn toàn có thể cho phá sản các ngân hàng yếu kém, điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nhưng cần đảm bảo đã cân nhắc kỹ độ tín nhiệm của công chúng vào tổng thể hệ thống ngân hàng và những việc cần làm đối với người gửi tiền nhỏ lẻ.
Chắc chắn đó là nhân tố quan trọng góp phần đảm bảo cho sự phát triển ổn định và lành mạnh của thị trường tài chính Việt Nam.
Lê Văn Sua
[1][1] https://www.sacombank.com.vn/tintuc/Pages/Sacombank-to-chuc-DHDCDTN-2015.aspx
[2] http://www.thesaigontimes.vn/138613/Vi-sao-Viet-Nam-chua-co-ngan-hang-bi-pha-san.html
[3] Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
[4] Người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ trả lương, các khoản nợ khác đến hạn đối với người lao động mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
[5] Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ phần phổ thông trở lên trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công ty cổ phần mất khả năng thanh toán. Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu dưới 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công ty cổ phần mất khả năng thanh toán trong trường hợp Điều lệ công ty quy định.
[6] Thành viên hợp tác xã hoặc người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã thành viên của liên hiệp hợp tác xã có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mất khả năng thanh toán.
[7] http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungchinhsachthanhtuu?categoryId=798&articleId=2939
[8] http://tinnhanhchungkhoan.vn/tien-te/viet-nam-hoan-toan-co-the-cho-pha-san-cac-ngan-hang-yeu-kem-142592.html