Quá trình theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong hoạt động nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng thời gian qua cho thấy, liên quan đến khía cạnh pháp lý của biện pháp bảo lãnh vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện trên nền tảng các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 .
1. Một số vụ việc phát sinh trong thực tiễn
a) Nội hàm của một số cụm từ trong quan hệ bảo lãnh chưa được giải thích cụ thể, rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật nên dẫn đến cách hiểu, áp dụng thiếu thống nhất, đồng bộ.
Ngân hàng TMCP VA có phát hành chứng thư bảo lãnh cho Ngân hàng QĐ - Chi nhánh Bắc Sài Gòn nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ tài chính của Công ty CP Thương mại dịch vụ xây dựng TT (sau đây gọi là công ty TT) tại Ngân hàng TMCP QĐ - Chi nhánh Bắc Sài Gòn theo Hợp đồng số 122 ngày 20/12/2010 (sau đây gọi là hợp đồng số 122) giữa Công ty TT và Tổng công ty VTQĐ - Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh. Trong chứng thư có nêu Ngân hàng TMCP VA
“cam kết chi trả vô điều kiện” cho Ngân hàng TMCP QĐ ngay khi nhận được văn bản yêu cầu thanh toán nếu Công ty TT không thực hiện nghĩa vụ tài chính phát sinh tại Ngân hàng TMCP QĐ theo Hợp đồng đại lý số 122. Tuy nhiên, Ngân hàng TMCP VA
“nghi ngờ” Công ty TT không phát sinh nghĩa vụ trên thực tế đối với Ngân hàng TMCP QĐ. Trong trường hợp này, Ngân hàng TMCP VA phải thực hiện nghĩa vụ tài chính ngay khi Ngân hàng TMCP QĐ - Chi nhánh Bắc Sài Gòn yêu cầu hay ngược lại Ngân hàng TMCP VA có quyền yêu cầu Ngân hàng TMCP QĐ phải xuất trình được các chứng từ chứng minh nghĩa vụ của Công ty TT đã phát sinh và chỉ thực hiện nghĩa vụ tài chính sau khi Ngân hàng TMCP QĐ xuất trình các chứng từ này.
Ví dụ nêu trên cho thấy, một trong các nguyên nhân chính dẫn đến tranh chấp là do các bên trong quan hệ bảo lãnh đã có cách hiểu khác nhau về nội hàm của cụm từ
“cam kết chi trả vô điều kiện” . Nếu thỏa thuận như vậy thì Ngân hàng TMCP VA có được quyền yêu cầu Ngân hàng TMCP QĐ xuất trình các tài liệu chứng minh không? Việc yêu cầu xuất trình các tài liệu chứng minh trước khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh có vi phạm thỏa thuận không? Theo chúng tôi, vấn đề nêu trên nếu không được quy định cụ thể, rõ ràng thì sẽ tiếp tục dẫn đến cách hiểu và áp dụng pháp luật thiếu thống nhất giữa các bên trong quan hệ bảo lãnh.
b) Nhận diện chưa chính xác bản chất pháp lý của quan hệ bảo lãnh và quan hệ thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác (bên thế chấp và bên vay là 02 chủ thể độc lập) khi giải quyết tranh chấp.
Theo nội dung Bản án sơ thẩm số 26/2011/KT-ST ngày 05/8/2011 và Bản án sơ thẩm số 48/2011/KDTM-ST ngày 22/9/2011 của TAND tỉnh Quảng Ngãi thì một trong những lý do dẫn đến hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba bị tuyên vô hiệu là có
sự nhầm lẫn về hình thức hợp đồng, cụ thể là theo các bản án nêu trên thì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba thực chất phải là
quan hệ bảo lãnh. Do đó, các bên
phải ký kết hợp đồng bảo lãnh, chứ không phải hợp đồng thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba. Việc các bên ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba là
không đúng với tính chất của giao dịch dân sự có biện pháp bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh, không đúng với quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (Điều 122), hình thức giao dịch dân sự (Điều 124), hình thức bảo lãnh (Điều 362)
[1].
Về vấn đề này, theo quy định tại Điều 342 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì
“thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp”. Do vậy, chủ sở hữu tài sản có thể
dùng tài sản để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của chính mình (bên thế chấp đồng thời là bên có nghĩa vụ) hoặc để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người khác (bên thế chấp và bên có nghĩa vụ là 02 chủ thể khác nhau). Trong khi đó, Điều 361 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Mặt khác, trong các quy định về chuyển quyền sử dụng đất tại Phần thứ năm của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Đất đai năm 2013 không có khái niệm
“bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất”.
2. Kiến nghị, đề xuất
So với Bộ luật Dân sự năm 2005, các quy định về bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự năm 2015 (từ Điều 335 đến Điều 343) đã thể hiện được đầy đủ, sâu sắc hơn bản chất pháp lý của biện pháp bảo đảm đối nhân
[2]. Trên cơ sở đó, để khắc phục vướng mắc, bất cập phát sinh trong thực tiễn, quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết biện pháp bảo lãnh cần nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục quy định về các vấn đề liên quan đến bên bảo lãnh, ví dụ như: Quy định về việc bên bảo lãnh phải viết rõ giá trị tiền cam kết bảo lãnh bằng số và bằng chữ; quy định về việc bên nhận bảo lãnh có nghĩa vụ phải thông tin đối với bên bảo lãnh (
tư vấn hoặc
cảnh báo) về giá trị của nghĩa vụ bảo lãnh, khả năng tài chính của bên được bảo lãnh; quy định cụ thể về một số từ ngữ thường sử dụng trong hợp đồng bảo lãnh (ví dụ: Chi trả vô điều kiện; không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh)…
Thứ hai, quy định cụ thể trường hợp bên nhận bảo lãnh phải yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của mình trước; nếu bên được bảo lãnh không có tài sản thì bên nhận bảo lãnh mới có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Điều này là cần thiết nhằm “phòng ngừa” khả năng bên bảo lãnh chối bỏ trách nhiệm của mình, vì thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp bên bảo lãnh xác định mình là
người có nghĩa vụ thứ hai và
“chỉ” thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi người có nghĩa vụ chính (bên được bảo lãnh) không có khả năng thực hiện.
Thứ ba, quy định việc bên bảo lãnh có quyền viện dẫn tất cả những vi phạm về hình thức và nội dung mà bên được bảo lãnh có thể viện dẫn để không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, vì đây là một yếu tố mấu chốt, thể hiện tính phụ thuộc của biện pháp bảo lãnh đối với nghĩa vụ được bảo lãnh. Bộ luật Dân sự chỉ đề cập đến tình huống pháp lý là người bảo lãnh được viện dẫn việc bù trừ nghĩa vụ, trong khi trên thực tế vẫn còn các trường hợp khác như: có sự nhầm lẫn hoặc nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo lãnh không có hiệu lực...
Thứ tư, quy định về điều kiện đối với bên bảo lãnh, vì khả năng bên bảo lãnh thực hiện đầy đủ, đúng cam kết bảo lãnh là vấn đề đặc biệt quan trọng khi áp dụng biện pháp bảo lãnh. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà pháp luật một số nước (ví dụ: Cộng hòa Pháp, Nhật Bản) quy định
khả năng thanh toán nợ là một trong các điều kiện bắt buộc của bên bảo lãnh.
Thứ năm, quy định cụ thể, rõ ràng về phạm vi trách nhiệm và cách thức xử lý trách nhiệm về tài sản đối với các bên trong trường hợp bảo lãnh (khoản 1 Điều 336 BLDS năm 2015) và trường hợp có thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (khoản 3 Điều 336 BLDS năm 2015)
[3]. Hợp đồng bảo lãnh được các tổ chức tín dụng lựa chọn, áp dụng với nội dung thỏa thuận ngày càng phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể dẫn đến tranh chấp trong quá trình thực hiện. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện chế định bảo lãnh trên cơ sở quy định
“nền” của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 có ý nghĩa thực tiễn, góp phần phát huy vai trò, giá trị của biện pháp bảo lãnh trong giao lưu dân sự, kinh doanh, thương mại./.
Hồ Quang Huy
[1]Trích các trang 10, 11 và 12 của Bản án sơ thẩm số 48/2011/KDTM-ST; trang 5 của Bản án sơ thẩm số 26/2011/KT-ST nêu trên.
[2] Ví dụ: BLDS năm 2015 đã bỏ quy định về xử lý tài sản của bên bảo lãnh (Điều 369 BLDS năm 2005), thay vào đó là quy định về trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh (Điều 342).
[3]Điều 336 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh” (khoản 1) và
“Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh” (khoản 3).