Để hoàn thiện pháp luật về phòng chống tham nhũng (PCTN) cần phải nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến nó. Trong thực tế, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về PCTN, nhưng các yếu tố ảnh hưởng lớn nhất và cơ bản nhất là: Cơ chế quản lý kinh tế; cơ chế tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước; chế độ chính trị và vai trò của đảng cầm quyền; ý thức pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về PCTN; yếu tố văn hóa, truyền thống dân tộc và hợp tác quốc tế về PCTN. Cụ thể:
Một là, về cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý kinh tế là hệ thống các chính sách, pháp luật của Nhà nước quy định về quản lý và điều hành nền kinh tế. Cơ chế quản lý kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát sinh, thay đổi, chấm dứt nhiều quan hệ xã hội trong đó có các hành vi tham nhũng. Lịch sử đã chứng minh rằng, để phát triển kinh tế thì cần phải có những cơ chế quản lý kinh tế phù hợp và năng động. Trong thế kỷ XX, nhiều quốc gia trên thế giới đã chọn lựa cơ chế thị trường trong phát triển kinh tế. Cơ chế thị trường là động lực của sự phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia nhưng bản thân nó cũng nảy sinh những mặt trái đó là xu hướng tối đa hoá lợi nhuận bằng mọi giá, nên đã làm cho sự phát triển thiếu bền vững. Cũng do cơ chế thị trường nên dẫn đến nhiều chuẩn mực đạo đức, thuần phong mỹ tục trong xã hội bị đảo lộn, xâm hại, do sức ép của việc kiếm tiền và xuất hiện tâm lý mọi việc đều có thể mua bán hoặc trao đổi bằng lợi ích vật chất, phi vật chất khác, điều này đã tác động không nhỏ làm cho tham nhũng trở nên ngày càng trầm trọng hơn.
Ở nước ta, cơ chế thị trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Đây là môi trường để những quan hệ kinh tế vận động, phát triển một cách linh hoạt theo phương thức tự do cạnh tranh trong kinh doanh nên đã phát huy được năng lực, thế mạnh của các chủ thể tham gia quan hệ kinh tế, và cơ chế thị trường cũng làm cho các nguồn lực trong xã hội được huy động một cách tối đa, với sự tham gia rất tích cực của các chủ thể trong nền kinh tế và tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội theo nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, do những mặt trái của cơ chế thị trường nên đã nảy sinh tham nhũng ở nhiều nơi, nhất là ở những lĩnh vực mà pháp luật còn quy định thiếu chặt chẽ và sự quản lý của Nhà nước còn bộc lộ yếu kém, buông lỏng hoặc không đủ khả năng để theo kịp sự vận động của cơ chế thị trường. Vì vậy, trong quá trình hoàn thiện pháp luật về PCTN cần dự liệu tối đa được các dạng của hành vi tham nhũng sẽ nảy sinh trong cơ chế thị trường để xây dựng các quy định của pháp luật vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ kinh tế phát triển nhưng cũng vừa đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng một cách nhanh chóng, kịp thời và triệt để.
Hai là, về cơ chế tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Tham nhũng là sự lạm dụng quyền lực nhà nước để phục vụ lợi ích cá nhân, do đó, việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước là một trong những yếu tố tác động đến thực trạng tham nhũng. Những quốc gia được tổ chức theo mô hình phân quyền, hay nói cách khác, quyền lực được phân chia theo các nhánh theo hướng “có sự kiềm chế, đối trọng lẫn nhau” thì sẽ giảm rõ sự lạm quyền và đây chính là điều kiện để hạn chế tham nhũng. Đối với các quốc gia được tổ chức theo hình thức tập quyền, hay nói cách khác, quyền lực nhà nước được tập trung vào một nhánh quyền lực nào đó thì sẽ rất dễ xảy ra tình trạng lạm quyền và tất nhiên, tham nhũng sẽ có cơ hội phát triển hơn. Vì thế, cần xuất phát từ cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước để thiết kế hệ thống các quy định kiểm soát quyền lực phù hợp nhằm hạn chế phát sinh tham nhũng và có đủ được để phát hiện, xử lý tham nhũng một cách có hiệu quả.
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 ghi rõ:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân…
2.Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức.
3 .Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.”
Với việc tổ chức quyền lực này đã tạo ra sự bảo đảm quyền lực nhà nước được thực hiện một cách dân chủ, tập trung, đồng thời, tạo nên sức mạnh tổng hợp và bảo đảm việc thực hiện quyền lực được chính xác, thuận lợi. Chính cách thức tổ chức quyền lực này cũng đã tạo ra sự đồng thuận hơn trong đề xuất chính sách và triển khai các biện pháp đấu tranh PCTN. Tuy nhiên, sự tập trung, thống nhất quyền lực đã làm nảy sinh những bất cập trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Để phát hiện được các hành vi lợi dụng sự tập trung, thống nhất đó nhằm tham nhũng là một vấn đề không đơn giản hoặc nếu có phát hiện ra được thì cũng rất khó xử lý hoặc có xử lý thì cũng khó có thể nghiêm minh, kịp thời. Do vậy, để PCTN một cách hiệu quả trong điều kiện tổ chức quyền lực nhà nước tập trung, thống nhất là một vấn đề khó khăn, đòi hỏi phải có sự quyết tâm chính trị rất cao và nhất thiết phải sử dụng các biện pháp kiểm soát quyền lực nhà nước phù hợp, mạnh mẽ nhằm phát hiện, xử lý được sự lạm dụng quyền lực nhà nước để tham nhũng. Vì thế, trong quá trình hoàn thiện pháp luật về PCTN cần phải quan tâm đến hoàn thiện các quy định về tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó phải xây dựng được các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả và tổ chức được các cơ quan đủ năng lực, sức mạnh phát hiện, xử lý sự lạm quyền, lợi dụng quyền lực nhà nước để vụ lợi, tham nhũng. Điều đó đòi hỏi bất cứ một nhánh quyền lực nhà nước nào, bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lực hoặc được trao quyền lực nhà nước nào cũng phải được tổ chức, hoạt động một cách công khai, minh bạch (trừ những vấn đề mang tính cơ mật quốc gia) để Nhân dân và các nhánh quyền lực khác, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thể giám sát được việc thực hiện quyền lực nhà nước. Đồng thời, phải thường xuyên kiểm tra việc thực hiện quyền lực nhà nước để phát hiện, xử lý kịp thời các trường hợp lợi dụng quyền lực để phục vụ lợi ích cá nhân, có như vậy mới hạn chế được tham nhũng nảy sinh cũng như phát hiện, xử lý được các hành vi tham nhũng.
Ba là, chế độ chính trị và vai trò của đảng cầm quyền. Trong xã hội mặc dù Nhà nước là cơ quan quản lý nhưng việc đề ra các chủ trương, đường lối và quyết định vấn đề nhân sự cao cấp trong bộ máy của các cơ quan nhà nước lại phụ thuộc khá nhiều vào chế độ chính trị và vai trò của đảng cầm quyền. Ở các quốc gia phát triển, cơ chế đảng cầm quyền gắn liền với cơ chế tổ chức vận hành quyền lực nhà nước. Đảng cầm quyền mặc dù không trực tiếp ra quyết định về quản lý nhà nước nhưng thông qua việc thực hiện quyền lực chính trị, quyền lực của đảng cầm quyền chi phối quyền lực nhà nước. Thông qua vai trò lãnh đạo của mình, những người trong đảng cầm quyền đã thực hiện quyền lực nhà nước một cách gián tiếp nhưng có tính khả thi rất cao và tất nhiên sẽ không tránh khỏi sự lợi dụng quyền lực để tham nhũng. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp, đảng cầm quyền có thể can thiệp được vào quá trình thực hiện các biện pháp về phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng. Nếu như đảng cầm quyền có sự quyết tâm và đề ra được những biện pháp mạnh mẽ trong PCTN thì Nhà nước mới có điều kiện để minh bạch các hoạt động. Nhất là xây dựng được cơ chế phòng ngừa và cương quyết, nghiêm túc trong chỉ đạo xử lý các vụ việc tham nhũng, không kể người có hành vi tham nhũng là ai, đang nắm giữ bất kỳ cương vị nào thì mới hy vọng nạn tham nhũng được ngăn chặn và đẩy lùi. Ngược lại, nếu đảng cầm quyền đồng loã, bao che tham nhũng, thờ ơ với việc phát hiện và xử lý tham nhũng thì nó sẽ là căn bệnh ngày càng nghiêm trọng. Chính ý chí và sự quyết tâm của đảng cầm quyền sẽ được các cơ quan quyền lực nhà nước thể chế hoá thành pháp luật về PCTN, đồng thời, tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về PCTN khi được ban hành.
Theo quy định tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013: Đảng Cộng sản Việt Nam – đại biều trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Luật PCTN và nhiều văn bản quy phạm pháp luật về PCTN được ban hành; hệ thống các cơ quan chuyên trách PCTN cũng được hình thành. Công tác PCTN đã thu được những kết quả khả quan, đặc biệt đã triển khai cơ bản các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, phát hiện, xử lý được nhiều vụ án tham nhũng. Có thể khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nhân tố quan trọng quyết định kết quả của công tác PCTN. Tuy nhiên, vẫn còn một số bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, không những không tham gia tích cực vào đấu tranh PCTN mà còn tham gia, giúp sức hoặc dung dưỡng, bao che hành vi tham nhũng. Trong quá trình lãnh đạo, một số cấp uỷ Đảng cũng chưa quan tâm đúng mức đến công tác PCTN hoặc còn tỏ ra thiếu kiên quyết trong xử lý tham nhũng, do đó, kết quả PCTN đạt được chưa toàn diện, có một số mặt công tác trong PCTN chưa đáp ứng được yêu cầu, tình hình tham nhũng có chuyển biến nhưng còn chậm.
Bốn là, ý thức pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội. Sự thể hiện tập trung của ý thức pháp luật là hệ tư tưởng pháp luật, có nghĩa là hệ thống các quan điểm pháp luật dựa trên những lập trường khoa học và xã hội nhất định. Ý thức pháp luật có 3 nội dung sau: i) Sự hiểu biết về pháp luật; ii)Thái độ đối với pháp luật; iii) Khả năng thực hiện và áp dụng pháp luật. Thông qua ý thức pháp luật của mình, các chủ thể có thẩm quyền áp đặt hay tác động đến quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về PCTN hay nói cách khác, cho ra đời những quy định về PCTN thể hiện được những tư tưởng, quan điểm của họ. Nếu các chủ thể đó đại diện cho giai cấp tiến bộ thì sẽ có những quy định về PCTN nhằm bảo đảm lợi ích chung cho xã hội, mà trước hết là lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong xã hội. Ngược lại, nếu các chủ thể đó có tư tưởng lạc hậu, cá nhân chủ nghĩa, cộng với thói tham lam, ích kỷ, thì sự tác động của họ vào các quy định của pháp luật về PCTN sẽ có xu hướng thiên lệch để bảo vệ những lợi ích riêng của họ, khi đó, pháp luật PCTN khó có thể trừng phạt thích đáng đối với những kẻ tham nhũng.
Năm là, về yếu tố văn hoá, lịch sử truyền thống dân tộc.
Văn hoá là sản phẩm tinh hoa của con người, là yếu tố quyết định các xử sự của con người và gắn bó với con người. Văn hóa được hiểu là toàn bộ những hoạt động sáng tạo và những giá trị của nhân dân một nước, một dân tộc về mặt sản xuất vật chất và tinh thần trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Yếu tố văn hoá thường chi phối và ảnh hưởng đến pháp luật, có sự tác động đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về PCTN nói riêng, trong đó nhiều quy phạm pháp luật được xác lập dựa trên cơ sở nền tảng của văn hoá. Mối quan hệ giữa pháp luật về PCTN với các yếu tố văn hoá được thể hiện ở chỗ pháp luật về PCTN là cơ sở pháp lý quan trọng để nuôi dưỡng các yếu tố văn hoá phát triển lành mạnh và là công cụ để bảo vệ những chuẩn mực đạo đức.
Pháp luật cũng ghi nhận những giá trị lịch sử truyền thống tốt đẹp, những ứng xử hay trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, pháp luật là cơ sở pháp lý, là chuẩn mực để góp phần vào việc phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các trường hợp lợi dụng văn hóa ứng xử để thực hiện các hành vi tham nhũng. Mặt khác, việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc của dân tộc cũng sẽ góp phần đẩy lùi tệ nạn tham nhũng và bản thân những yếu tố văn hoá này cũng tác động trực tiếp đến pháp luật nói chung và pháp luật về PCTN nói riêng. Vì vậy, trong quá trình hoàn thiện pháp luật về PCTN cũng cần chú ý các yếu tố văn hóa để xây dựng các quy định làm sao vừa phát huy, bảo vệ được những giá trị văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời, loại bỏ, ngăn chặn sự xâm nhập các luồng văn hóa độc hại và xử lý những trường hợp lợi dụng các ứng xử văn hóa để vụ lợi, tham nhũng.
Sáu là, hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng.
Tham nhũng ngày nay là mối quan tâm của tất cả các quốc gia trên thế giới và trên thực tế có nhiều quốc gia đã chung tay vì một thế giới không tham nhũng, trong đó, có hơn 150 quốc gia đã tham gia phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Chống tham nhũng, một trong những bản công ước quan trọng đối với việc xây dựng các quy định phòng ngừa tham nhũng, phát hiện, xử lý tham nhũng, tổ chức cơ quan PCTN, phát huy vai trò, trách nhiệm của công dân, tổ chức trong PCTN trong hệ thống pháp luật quốc gia, góp phần vào việc PCTN ở mỗi quốc gia và trên thế giới. Trong phạm vi hẹp hơn, một số quốc gia đã có sự liên kết để cùng nhau thoả thuận xây dựng các điều ước quốc tế hay các chương trình hợp tác quốc tế đa phương, song phương về PCTN.
Đối với Việt Nam, việc tham gia và thúc đẩy các quan hệ hợp tác về PCTN là nội dung được Nhà nước ta quan tâm. Việt Nam đã ký kết và phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Chống tham nhũng. Sau đó, đã nghiên cứu xây dựng, ban hành kế hoạch thực hiện Công ước với những lộ trình cụ thể, trong đó, chỉ rõ những nội dung cần nghiên cứu để nội luật hoá Công ước. Ngoài ra, Việt Nam cũng đàm phán ký kết các Thoả thuận hợp tác quốc tế về PCTN và tham gia nhiều diễn đàn, hội nghị quốc tế đa phương về PCTN.
2. Một số yêu cầu hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng hiện nay.
Việc hoàn thiện pháp luật về PCTN ở Việt Nam hiện nay, theo quan điểm nghiên cứu của tác giả cần xuất phát từ những yêu cầu sau:
Thứ nhất, pháp luật về PCTN phải đáp ứng yêu cầu xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng.
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng đã được Đảng ta xác định trong nhiều văn kiện và nghị quyết, nó là vừa nhiệm vụ vừa là mục tiêu trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Đảng xác định cần phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của đảng viên, cán bộ, công chức và nhân dân về công tác PCTN; đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, giữ vững được sức lan tỏa của phong trào tự tu dưỡng, rèn luyện, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tệ tham nhũng, lãng phí trong Đảng, trong xã hội. Trường hợp có dấu hiệu vi phạm, không được dung túng, bao che tham nhũng, lãng phí. Hạn chế thấp nhất việc xử lý nội bộ bằng hình thức “rút kinh nghiệm sâu sắc”. Thực tế, các vụ tham nhũng xảy ra nhiều nhưng đến tòa án thì án tham nhũng còn rất ít. Nhiều vụ việc khi được phát hiện thì chỉ xử lý bằng hình thức kiểm điểm, rút kinh nghiệm hoặc thuyên chuyển công tác… Việc tự kiểm tra, phát hiện tham nhũng trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị còn rất yếu.
PCTN ngày nay trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm và có tính cấp bách, là một trong những điều kiện để xây dựng và chỉnh đốn Đảng. PCTN có hiệu quả cũng góp phần nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, đó cũng là một trong những lý do để Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN. Việc ban hành và tổ chức thực hiện tốt các quy định của pháp luật về PCTN cũng là điều kiện thuận lợi để làm trong sạch đội ngũ và nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng.
Thứ hai, pháp luật về PCTN phải đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN sẽ là một yếu tố hết sức quan trọng đối với PCTN. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đang được hiện thực hoá trong thực tiễn hoạt động của bộ máy nhà nước và các thiết chế xã hội. Điều quan trọng cần được nhấn mạnh khi nói về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam chính là sự vận dụng về cơ bản toàn bộ các tiêu chí của Nhà nước pháp quyền nói chung và những giá trị riêng của một nhà Nước pháp quyền XHCN, trong đó, yêu cầu quan trọng nhất là phải xây dựng được hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Pháp luật là thước đo, là chuẩn mực bắt buộc mọi người phải tuân theo; mọi tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật; tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước dựa trên cơ sở của pháp luật; pháp luật không chỉ chú trọng bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý mà còn đặc biệt chú trọng đến sự bình đẳng, công bằng xã hội, chống lại mọi sự phân biệt giàu nghèo, sự thống trị của chủ nghĩa tự do cực đoan. Trong công tác PCTN, pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng để nhận diện tham nhũng; tạo lập khuôn khổ pháp lý để phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan PCTN; phát huy vai trò, trách nhiệm của công dân, tổ chức trong PCTN; hợp tác quốc tế về PCTN. Cụ thể:
Một là, việc tổ chức quyền lực của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có tính đặc thù và không giống như các nhà nước pháp quyền khác, theo đó, quyền lực nhà nước là thống nhất và có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân lập ra để quản lý xã hội, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, vì nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, phục vụ Nhân dân; pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải thể hiện được ý chí của Nhân dân. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với hoàn thiện pháp luật về PCTN là cần bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Với quy định này là sự bổ sung một nguyên tắc mới về tổ chức quyền lực nhà nước, đó là, quyền lực nhà nước là thống nhất, không chỉ được phân công, phối hợp mà còn có sự kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ðây là một trong những nguyên tắc nền tảng về tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Vì nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nên nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu. Mặt khác, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (sửa đổi, bổ sung năm 2011) cũng nhấn mạnh kiểm soát quyền lực nhà nước là một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Do vậy, để kiểm soát được tốt quyền lực nhà nước đòi hỏi phải hình thành cơ chế bao gồm kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên trong bộ máy nhà nước, đó là sự kiểm soát giữa quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp và trong nội bộ mỗi cơ quan thực hiện quyền đó và sự kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên ngoài bao gồm kiểm soát của nhân dân thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Để có cơ sở pháp lý thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước, Hiến pháp sửa đổi đã thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong tất cả các chương, đặc biệt là trong các chương về Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Trong các chương này của Hiến pháp năm 2013 đã có những sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh để làm rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan. Ðó là cơ sở để hình thành cơ chế để Nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước mà mình đã trao.
Hai là, hoàn thiện pháp luật về PCTN phải trên cơ sở yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Mà theo đó, “Sớm ban hành Luật chống tham nhũng, thực hiện nguyên tắc người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng của cán bộ do mình trực tiếp quản lý trong khi thi hành công vụ.”. Và đồng thời, pháp luật về PCTN phải bảo đảm được tính thống nhất với các quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nhất là không được chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định khác, đồng thời, gắn kết với các quy định khác tạo thành sự đồng bộ, hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật Việt Nam và bảo đảm phù hợp với thực tiễn để đi vào cuộc sống.
Thứ ba, pháp luật về PCTN phải đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trườngđịnh hướng XHCN và bảo đảm dân chủ, công bằng xã hội.
Kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một kiểu KTTT mới trong lịch sử phát triển của KTTT. Phát triển KTTT định hướng XHCN là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của nhân loại, phát huy vai trò tích cực của KTTT trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải tiến kỹ thuật - công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Hiện nay chúng ta đang xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của KTTT để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. Trong quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN, chắc chắn sẽ gặp phải nhiều trở ngại, trong đó có thể thấy KTTT là cơ hội để nảy sinh tham nhũng và cũng là mảnh đất màu mỡ để tham nhũng phát triển. Do đó, bên cạnh phát huy những mặt tích cực của cơ chế thị trường thì cũng cần phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của KTTT, nhất là các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí. Để phòng ngừa tham nhũng nảy sinh từ quá trình phát triển KTTT thì trước hết cần phải xác định rõ các yếu tố của nền KTTT, các quan hệ phát sinh, tồn tại trong nền KTTT, từ đó tìm ra những quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong nền KTTT. Các quy định của pháp luật đòi hỏi phải phù hợp, chặt chẽ, tạo điều kiện để các quan hệ lành mạnh phát triển và hạn chế, kìm hãm sự nẩy sinh những hiện tượng tiêu cực, lợi dụng cơ chế thị trường để tham nhũng. Chính các yêu cầu của phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta đã và đang đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về PCTN nói riêng.
Thứ tư, pháp luật về PCTN phải đáp ứng yêu cầu của việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Tham nhũng thường có mục đích, động cơ chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, xâm hại đến quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân. Những người có chức vụ, quyền hạn sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau để tham nhũng, che dấu hành vi vi phạm, tránh sự kiểm soát phát hiện của cơ quan chức năng và trốn tránh trách nhiệm… Vì vậy, pháp luật về PCTN phải bảo đảm quản lý chặt chẽ, ngăn chặn không để những người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng, chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đồng thời có đủ các cơ chế tích cực nhất để phát hiện và xử lý tham nhũng kịp thời và hiệu quả.
Trong những năm qua, công tác PCTN đã phát huy tác dụng, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân do pháp luật còn có những hạn chế, bất cập, chưa đủ nghiêm minh, nên tham nhũng vẫn còn xảy ra khá phổ biến gây thiệt hại rất lớn về vật chất, quan trọng hơn làm giảm sút lòng tin của người dân vào chế độ. Vì vậy, các quy định của pháp luật PCTN phải hướng tới việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Thứ năm, pháp luật về PCTN phải đáp ứng yêu cầu phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.
Từ thực tiễn cho thấy chỉ có dựa vào sức mạnh của Nhân dân mới xây dựng được chính quyền trong sạch, giữ vững kỷ cương, an ninh, quốc phòng, tạo động lực to lớn phát triển KTXH, trong cuộc đấu tranh CTN cũng vậy, không thể thiếu vai trò của Nhân dân. Phần lớn các vụ việc tham nhũng, tiêu cực được phát hiện xuất phát từ Nhân dân thông qua nhiều hình thức phản ánh khác nhau. Vì lẽ đó, mà trong các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Đảng ta luôn nhất quán chủ trương mang tính chiến lược là phải dựa vào Nhân dân để PCTN. Phát huy vai trò của Nhân dân trong cuộc đấu tranh PCTN là một biện pháp hiệu quả, bởi vì nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước. Trong rất nhiều nghị quyết và trong các bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn đều khẳng định vai trò to lớn của Nhân dân trong cuộc đấu tranh PCTN. Trong thời gian qua chúng ta đã tiến hành một số biện pháp phát huy vai trò của Nhân dân vào công tác PCTN và thực tế đã đạt được hiệu quả như: tổ chức hội nghị cán bộ, công chức hằng năm để tạo điều kiện cán bộ, công chức trực tiếp góp ý, phê bình, xây dựng đơn vị trong sạch, vững mạnh, đoàn kết, qua đó góp phần cảnh báo, răn đe, phòng ngừa làm hạn chế các hành vi tham nhũng có thể xảy ra; tiến hành thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở để nhân dân giám sát quyền lực nhà nước và tham gia đấu tranh PCTN; tổ chức tiếp dân để tiếp thu ý kiến của dân, thông qua đó để thanh tra, kiểm tra và phát hiện, ngăn chặn, khắc phục, xử lý kịp thời các trường hợp tham nhũng; xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước để người dân tự giác nhận trách nhiệm tham gia xây dựng cộng đồng trong sạch; tổ chức các hòm thư góp ý, đường dây nóng để tiếp nhận các phản ánh và xử lý đơn thư tố cáo về tham nhũng, lãng phí của cán bộ, đảng viên; phát huy vai trò của báo chí và các phương tiện truyền thông để tuyên truyền, giáo dục, vận động Nhân dân tham gia tích cực vào công tác PCTN...
Trên thực tế, rất nhiều vụ tham nhũng được phát hiện xuất phát từ tố cáo, phản ánh của Nhân dân, trong đó có những vụ mặc dù được thực hiện bằng thủ đoạn có tinh vi nhưng vẫn không che được tai mắt của Nhân dân. Cục Chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ vừa công bố đường dây nóng tố cáo hành vi tham nhũng, tặng quà trái quy định trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới, sau gần 01 tháng triển khai, cơ quan này đã nhận được 329 cuộc điện thoại và tin nhắn từ 27 địa phương và 12 bộ, ngành. Trong đó, có 160 tin (chiếm gần 50%) phản ánh có sai phạm thuộc chức năng địa phương, bộ, ngành do người dân chưa hiểu quy định về thẩm quyền nên Cục đã giải thích, hướng dẫn cho người dân phản ánh đúng địa chỉ để giải quyết nhanh nhất. Thông tin toàn diện trên các lĩnh vực nhưng chủ yếu vẫn là đất đai, khoáng sản; thuế, ngân hàng, tài chính, công tác cán bộ; hành vi có dấu hiệu mãi lộ, nhận hối lộ của lực lượng công quyền (như cảnh sát, thanh tra giao thông, kiểm lâm, thuế vụ, quản lý thị trường, cán bộ tiếp công dân, hải quan, “chạy” việc làm; xây dựng công trình, dự án, thực hiện chính sách xã hội…) khi trực tiếp xử lý vụ việc. 120 tin (30%) phản ánh có dấu hiệu sai phạm, tham nhũng, tiêu cực của các ngành, địa phương thì Cục ghi nhận và đề nghị cung cấp thêm tài liệu để trực tiếp trao đổi với ngành, địa phương xử lý thông tin. Đặc biệt, 40 tin (trên 15%) có cơ sở về dấu hiệu tham nhũng, trong đó 6 nguồn tin đang xử lý có thể phải đề xuất Tổng Thanh tra Chính phủ xử lý nghiêm.
Từ thực tiễn cho thấy vai trò của Nhân dân đối với công tác PCTN là rất quan trọng. Vì vậy cần phải phát huy vai trò của Nhân dân đối với công tác PCTN và việc hoàn thiện pháp luật về PCTN cần xuất phát từ những yêu cầu phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.
Phạm Thị Hồng Đào
Văn phòng luật sư Thạnh Hưng
10 “đại án”về tham nhũng được chỉ đạo đưa ra xét xử công khai
1. Vụ án tham nhũng tại Vinalines làm thất thoát số tiền hơn 360.257 tỷ đồng.
2. Vụ tham nhũng tại Công ty Cho thuê tài chính II – ALC II (thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Agribank) hành vi của các bị cáo gây ra thiệt hại hơn 531 tỷ đồng.
3. Vụ án kinh tế tại Công ty dệt kim Phương Đông và một chi nhánh Agribank ở TP.HCM, thất thoát gần 1.000 tỷ đồng;
4. Vụ án kinh tế tại Sở quản lý kinh doanh vốn và ngoại tệ thuộc Agribank, số tiền thất thoát gần 500 tỷ đồng;
5. Vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Phương Nam, do thẩm định hồ sơ vay vốn một cách qua loa nên 8 ngân hàng trên địa bàn các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Hậu Giang, đã tiếp tay cho cha con ông Lâm Ngọc Khuân lừa đảo chiếm đoạt nợ gốc lẫn lãi là 1.752 tỉ đồng.
6.Vụ lừa đảo gần 1.000 tỉ đồng tại Ngân hàng Phát triển chi nhánh Đắk Lắk - Đắk Nông (VDB Đắk Lắk - Đắk Nông),
7.Vụ lợi dụng chức vụ quyền hạn tại Ngân hàng TMCP Công thương VN số tiền bị chiếm đoạt là gần 4.000 tỉ đồng.
8. Vụ án kinh tế tại Ngân hàng ACB liên quan đến “bầu” Kiên , tổng số tiền thiệt hại do 7 bị can gây ra trong vụ án này là hơn 1.695 tỉ đồng.
9. Vụ cố ý làm trái, thiếu trách nhiệm xảy ra tại chi nhánh Nam Hà Nội của Agribank, thất thoát gần 3.900 tỷ đồng;
10. Vụ vụ tiêu cực tại Ban quản lý các dự án đường sắt Việt Nam (RPMU), Trần Quang Đông và đồng phạm nhận hối lộ khoảng 11 tỷ đồng.