Việc áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước trong lĩnh vực thương mại được thông qua nhiều hoạt động khác nhau như: Xem xét cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cấp giấy phép thành lập và hoạt động, hay cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể; giải quyết tranh chấp trong thương mại; giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã… Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp thương mại tại toà án.
1. Tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án
Trong quá trình tiến hành hoạt động thương mại, các bên tham gia (chủ yếu là các thương nhân - tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh) khó tránh khỏi những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ cụ thể. Khi có tranh chấp xảy ra, để đảm bảo quyền lợi của mình các bên đều muốn giải quyết tranh chấp nhanh chóng, thuận lợi, có hiệu quả và không ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh của mình. Theo quy định tại Điều 317 Luật Thương mại năm 2005 (viết tắt LTM), các hình thức giải quyết tranh chấp, là:
-Thương lượng giữa các bên.
-Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải.
-Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án.
Có thể thấy, đây cũng là các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại phổ biến ở các nước trên thế giới. So với các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại khác, giải quyết tranh chấp thương mại tại toà án có một số ưu điểm và một số hạn chế sau:
*Về ưu điểm
+Việc dựa vào cơ quan tài phán là toà án kinh tế để giải quyết các tranh chấp kinh tế có những ưu điểm nhất định. Trước hết phải kể đến, toà án là cơ quan nhân danh nhà nước để giải quyết tranh chấp, do đó phán quyết của toà án được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Cơ quan thi hành án là một cơ quan chuyên trách và có đầy đủ bộ máy, phương tiện để thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật. Đăc điểm này được có thể coi là yếu tố hấp dẫn nhất khiến các bên tranh chấp thường tìm đến phương thức giải quyết tranh chấp tại toà án.
+Khi giải quyết tranh chấp tại toà án, việc giải quyết có thể qua nhiều cấp xét xử, vì thế nguyên tắc nhiều cấp xét xử bảo đảm cho quyết định của toà án được chính xác, công bằng, khách quan và đúng với pháp luật.
+Ngoài ra, ta còn thấy thẩm quyền giải quyết của toà án được mở rộng đến tất cả các ngành kinh tế. Chính vì thế, khi xảy ra tranh chấp, người ta thường nghĩ đến toà án như là nơi bao quát giải quyết mọi vấn đề.
+Với điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại toà án thấp hơn rất nhiều so với việc nhờ đến các tổ chức trọng tài thương mại hay trọng tài quốc tế.
*Về hạn chế: Tuy toà án là cơ quan tài phán có sức mạnh cưỡng chế giúp đôi bên có thể giải quyết tranh chấp một cách triệt để, nhưng phương thức giải quyết tranh chấp này cũng bộc lộ ra nhiều hạn chế:
+Đầu tiên, khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng toà án, các bên phải nắm rõ đươc bản chất, vì việc giải quyết tranh chấp của toà án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định mang tính hình thức của pháp luật tố tụng, và đặc điểm này đôi khi có thể gây trở ngại cho các bên tranh chấp vì tính chất của hoạt động kinh doanh, thương mại đòi hỏi mọi thủ tục phải rất linh hoạt và mềm dẻo.
+Một điều bất lợi nữa của toà án, đó là nguyên tắc xét xử công khai. Điều này xuất phát từ bản chất của hoạt động xét xử là bảo vệ pháp chế và duy trì công lý đã được pháp luật quy định, xã hội thừa nhận. Mặt khác, hoạt động xét xử công khai của toà án còn có tác dụng răn đe, cảnh cáo những hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, để giữ bí mật nhà nước hoặc bí mật nghề nghiệp theo yêu cầu chính đáng của đương sư, toà án có thể xử kín nhưng phải tuyên án công khai. Các doanh nghiệp làm ăn trên thương trường đều không muốn mang dấu đen phải ra toà để giải quyết tranh chấp, nó có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ, cho nên khuyết điểm này có thể coi là lớn nhất.
+Mặc dù nguyên tắc xét xử nhiều cấp đảm bảo cho quyết định của toà án là chính xác, công bằng. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng sẽ khiến cho vụ việc có thể bị kéo dài, xử đi xử lại nhiều lần gây bất lợi cho đương sự, nhất là những tranh chấp kinh tế có giá trị lớn đòi hỏi phải giải quyết nhanh chóng, dứt điểm. Việc dây dưa, kéo dài vụ việc sẽ gây căng thẳng tâm lý, làm mất thời giờ, tiền bạc của doanh nghiệp và có khi phải bỏ lỡ một cách đáng tiếc các cơ hội kinh doanh.
+Khả năng tác động của các bên trong quá trình tố tụng rất hạn chế, đôi lúc nó không thể hiện được hết nguyện vọng của các bên tranh chấp.
Thông thường, hình thức giải quyết tranh chấp thương mại thông qua toà án được lựa chọn khi việc áp dụng cơ chế thương lượng hoặc hoà giải không có hiệu quả và các bên tranh chấp không có thoả thuận giải quyết tranh chấp tại trọng tài.
Theo Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011 – viết tắt BLTTDS), các tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án, bao gồm:
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
5. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Mặc dù BLTTDS không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương mại” mà sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về kinh doanh thương mại” nhưng thông qua nội dung của các tranh chấp về kinh doanh, thương mại được liệt kê tại Điều 30 thực chất là các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại theo quy định của LTM. Mặt khác, căn cứ vào khái niệm hoạt động thương mại quy định tại khoản 1 Điều 3 LTM 2005:“Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.” và khái niệm kinh doanh quy định tại khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014:“Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.”, có thể thấy nội hàm của khái niệm hoạt động thương mại và hoạt động kinh doanh là giống nhau. Do vậy, theo tác giả nhà làm luật chỉ cần quy định tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền của toà án bao gồm những tranh chấp nào là đủ.
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, gồm có: Mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; kí gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn kĩ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; đầu tư tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
- Tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Như vậy, căn cứ vào Điều 30 BLTTDS, các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án có những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, đó là những mâu thuẫn bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại. Cụ thể, đó là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
- Thứ hai, những tranh chấp đó phát sinh chủ yếu giữa các thương nhân, đặc biệt là những tranh chấp phát sinh từ hoạt động mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý… thăm dò khai thác đều được coi là tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án khi những tranh chấp này phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
2. Thực trạng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Toà án và kiến nghị.
Toà án là cơ quan tài phán của nhà nước tiến hành áp dụng pháp luật trong trường hợp xảy ra tranh chấp thương mại phát sinh trong hoạt động thương mại giữa các chủ thể mà họ không tự giải quyết được với nhau và một bên làm đơn khởi kiện yêu cầu sự can thiệp của toà án để bảo vệ quyền lợi của mình. Toà án chỉ giải quyết tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền của mình theo quy định tại Điều 30 BLTTDS và giữa các bên không có thoả thuận về việc giải quyết tranh chấp đó bằng con đường trong tài. Ngoài ra thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại tại toà án còn được phân định theo cấp toà án, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Khi giải quyết tranh chấp thương mại, toà án có thẩm quyền áp dụng pháp luật sẽ đóng vai trò là bên thứ ba, là cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp được yêu cầu. Trong quá trình giải quyết tranh chấp trên cơ sở áp dụng pháp luật hiện hành, toà án có thẩm quyền sẽ nhân danh quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để ra bản án hoặc quyết định có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp và tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện. Bản án, quyết định của toà án được cơ quan thi hành án của Nhà nước bảo đảm thi hành.
Việc giải quyết tranh chấp thương mại tại toà án được tiến hành theo thủ tục tố tụng toà án quy định trong pháp luật tố tụng dân sự. Một trong những điểm đặc thù khi giải quyết tranh chấp thương mại tại toà án là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Chương II BLTTDS, từ Điều 3 đến Điều 24 trong đó có nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 12). Do đó, bên cạnh pháp luật về thủ tục tố tụng, pháp luật nội dung là nguồn luật quan trọng để toà án áp dụng khi xét xử tranh chấp đưa đến toà án nói chung và tranh chấp thương mại nói riêng. Dựa vào nội dung các tranh chấp thương mại mà toà án có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại Điều 30 BLTTDS, có thể thấy, các văn bản pháp luật chủ yếu mà toà án thường dùng làm căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền của mình là: Bộ luật Dân sự năm 2005; Luật Thương mại năm 2005; Luật kinh doanh bất động sản năm 2014; Luật chứng khoán năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2010); Luật Du lịch năm 2005; Luật Dược năm 2005; Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005; Luật Xây dựng năm 2014; Luật Doanh nghiệp năm 2014; Luật Đầu tư năm 2014; Luật Đầu tư công năm 2014; Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010).
Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại tại toà án có thể rút ra những vướng mắc chủ yếu hiện nay mà toà án nhân dân các cấp gặp phải trong việc áp dụng pháp luật, đó là, còn lúng túng trong việc áp dụng quy định của BLDS và các luật chuyên ngành khi giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại. Tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án theo quy định tại Điều 30 BLTTDS rất đa dạng, phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế. Trong đó, việc giải quyết tranh chấp vừa có thể áp dụng BLDS vừa có thể áp dụng các luật chuyên ngành khác. Hiện tượng này thường nảy sinh khi giải quyết các tranh chấp sau:
+Các tranh chấp về hợp đồng mua bán, được quy định trong BLDS về hợp đồng mua bán tài sản và quy định trong LTM về hợp đồng mua bán hàng hoá.
+Các tranh chấp về hợp đồng dịch vụ, được quy định trong BLDS về hợp đồng dịch vụ và được quy định trong LTM về hợp đồng cung ứng dịch vụ.
+Các tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm được quy định trong BLDS và trong Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010).
Ngoài ra, việc áp dụng quy định của luật chuyên ngành, hay BLDS của một số toà chưa thống nhất như: Có toà áp dụng quy định của BLDS, có toà áp dụng quy định của luật chuyên ngành, có nơi áp dụng đồng thời quy định của BLDS và quy định của luật chuyên ngành. Vấn đề này, theo nguyên tắc áp dụng LTM và pháp luật có liên quan trong việc điều chỉnh hoạt động thương mại được quy định rất rõ tại Điều 4 LTM về áp dụng LTM và pháp luật có liên quan:
“1. Hoạt động thương mại phải tuân theo Luật thương mại và pháp luật có liên quan.
2. Hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó.
3. Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự.”
Hoạt động thương mại phải tuân theo LTM, vì LTM là luật “riêng” áp dụng cho hoạt động thương mại. Hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó. Đối với những vấn đề điều chỉnh hoạt động thương mại không được quy định trong luật thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của bộ luật dân sự. Ví dụ, đối với các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng đại lý bảo hiểm thì trước tiên phải áp dụng các quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng đại lý bảo hiểm được quy đinh trong Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010), những vấn đề gì mà Luật Kinh doanh bảo hiểm không quy định thì áp dụng LTM, những vấn đề gì mà LTM không quy định thì áp dụng BLDS.
Luật TTTM vẫn còn có những quy định liên quan đến vấn đề hủy phán quyết của trọng tài chưa cụ thể, rõ ràng, dẫn đến việc hiểu và áp dụng không thống nhất và tòa án có thể dễ dàng hủy phán quyết trọng tài, đặc biệt với căn cứ hủy do vi phạm thủ tục tố tụng trọng tài. Quy định về căn cứ hủy quyết định trọng tài có phạm vi quá rộng so với quy định của pháp luật về trọng tài của các nước, quy tắc tố tụng của các thiết chế trọng tài quốc tế, là nguy cơ rủi ro tiềm ẩn cho các doanh nghiệp khi lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh doanh. Để cải thiện tình trạng trên, ngày 20 tháng 03 năm 2014, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2014 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật TTTM có hiệu lực ngày 01 tháng 07 năm 2014 (viết tắt Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP) nhằm giải quyết một số vấn đề còn chưa rõ của Luật TTTM như phân định thẩm quyền giữa trọng tài và tòa án, việc hỗ trợ và giám sát của tòa án đối với hoạt động trọng tài nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, các vấn đề về thỏa thuận trọng tài hay làm rõ các căn cứ hủy phán quyết trọng tài, đặc biệt là khái niệm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Gần đây nhất, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn 246/TANDTC-KT ngày 25 tháng 07 năm 2014 về việc giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài. Công văn này đã hướng dẫn cụ thể về nghĩa vụ chứng minh của bên phải thi hành phán quyết trọng tài; việc xác định luật áp dụng cho tố tụng trọng tài, luật áp dụng để xác định năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài, căn cứ xác định giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài và một số vấn đề khác liên quan đến việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam quy định tại Chương XIX BLTTDS. Công văn cũng nhấn mạnh rằng khi xem xét việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài Hội đồng xét đơn không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà chỉ kiểm tra, đối chiếu quyết định của Trọng tài nước ngoài, các giấy tờ, tài liệu kèm theo với các quy định của BLTTDS, các quy định khác của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt nam ký kết hoặc gia nhập có liên quan để giải quyết. Mặc dù mới có hiệu lực trong thời gian ngắn nên thực tiễn áp dụng của các văn bản hướng dẫn nêu trên còn cần phải được kiểm chứng, tuy nhiên có thể thấy nội dung xuyên suốt của các văn bản này đã thể hiện tinh thần ủng hộ hoạt động trọng tài của Tòa án Nhân dân tối cao. Hơn nữa, Công văn 246 cũng nhận được sự ủng hộ rất tích cực từ các luật sư, trọng tài viên, cộng đồng các doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư nước ngoài và được coi là một dấu hiệu đáng mừng để cải thiện những ấn tượng xấu trước đây trong việc hủy phán quyết trọng tài trong nước và không công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài như trước đây.Bên cạnh đó, trong quá trình soạn thảo trước đây cũng như tổng kết thực tiễn thi hành Luật TTTM hiện nay cũng còn có một số ý kiến về việc phải tuân thủ Điều 3 Công ước New York năm 1958 về việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài mà Việt nam là một thành viên ký kết trong đó có yêu cầu các quốc gia thành viên: Không được đặt các điều kiện về căn bản nặng hơn hoặc các phí hay chi phí cao hơn cho việc công nhận và thi hành các quyết định trọng tài mà Công ước này áp dụng tới so với việc công nhận và thi hành các quyết định trọng tài trong nước. Tuy nhiên ở Việt Nam, việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài không nằm trong Luật trọng tài mà lại được quy định trong BLTTDS do đó tạo nên những khuôn khổ pháp lý khác nhau giữa phán quyết của trọng tài trong nước và phán quyết trọng tài nước ngoài. Do đó, chúng tôi cho rằng cần nghiên cứu xem xét việc chuyển nội dung phần công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài vào Luật TTTM mại để nhằm tạo sự thống nhất xuyên suốt trong cơ chế pháp lý đối với trọng tài. Điều này cũng phù hợp với Luật mẫu của Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên Hiệp Quốc (UNCITRAL) về Trọng tài thương mại quốc tế cũng như pháp luật về trọng tài của các nước trên thế giới (ví dụ như Mục 31 Luật Trọng tài Quốc tế Singapore-IAA, Điều 35 Pháp lệnh Trọng tài của Hồng Kông, vv..)
Tóm lại: Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp thương mại tại toà án là một hoạt động rất phức tạp. Để toà án áp dụng pháp luật có hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp thương mại đảm bảo quyền lợi của các đương sự đòi hỏi thẩm phán phải trau dồi chuyên môn, nâng cao trình độ nghiệp vụ. Mặt khác việc áp dụng pháp luật có tốt hay không phụ thuộc rất lớn ở bản thân các quy định pháp luật của nhà nước. Do đó, pháp luật thương mại ngày càng phải hoàn thiện tạo điều kiện cho toà án có cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng để giải quyết các tranh chấp thương mại ngày càng phổ biến trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Phạm Thị Hồng Đào