Quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình là một trong những quyền dân sự của công dân. Đó là một trong những quyền cơ bản không thể thiếu của công dân và đã được quy định cụ thể trong pháp luật Việt Nam. Vậy trong tố tụng dân sự thì ai sẽ có quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự?. Qua bài viết chúng tôi sẽ tìm hiểu và làm rõ hơn về vấn đề này.
Trong tố tụng dân sự, ngoài người đại diện của đương sự còn có người khác được đương sự nhờ (yêu cầu) tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Người này có thể là luật sư hoặc người khác là công dân Việt Nam. Tuy vậy, Tòa án chỉ chấp nhận người được nhờ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Người tham gia tố tụng này được gọi là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng có đủ các điều kiện do pháp luật quy định được đương sự yêu cầu tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Việc tham gia tố tụng vào vụ việc dân sự của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không những có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trước tòa án mà còn có ý nghĩa cả đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của tòa án. Vì vậy, pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam đã quy định cụ thể việc tham gia tố tụng của họ.
Theo quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 quy định về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự như sau:
“1 . Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và được tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
2. Những người sau đây được tòa án chấp nhận làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:
a) Luật sư tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật về luật sư:
b) Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, chưa bị kết án hoặc bị kết án nhưng đã được xóa án tích. Không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục và quản lý hành chính; không phải là cán bộ, công chức trong các ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an.
3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhiều đương sự trong cùng vụ án, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của những người đó không đối lập nhau. Nhiều người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể cùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một đương sự trong vụ án.”
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng một cách độc lập. Như các chủ thể khác, họ cũng có các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Theo Điều 64 BLTTDS năm 2005 quy định quyền, nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự như sau:
“1. Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng dân sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm nếu Tòa án xét thấy cần thiết.”
Việc tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự từ khi khởi kiện có ý nghĩa trợ giúp ban đầu đối với đương sự. Việc người bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự được quyền có mặt trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng dân sự có ý nghĩa quan trọng vì khi đó đương sự sẽ ổn định về mặt tâm lý hơn khi trả lời các câu hỏi do kiểm sát viên đưa ra. Ngoài ra, với sự am hiểu pháp luật của mình, người bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự còn có thể giúp đương sự nhìn ra những điểm sơ hở, thiếu chặt chẽ trong biên bản lời khai giúp đương sự khai lại, giải thích lại đúng với sự thật của vụ án.
Sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự còn bảo đảm cho những hoạt động này được tiến hành đầy đủ và tuân thủ theo pháp luật hơn. Với sự có mặt của người bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự, những người tiến hành tố tụng sẽ thận trọng hơn và làm việc đúng pháp luật.
“2. Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho tòa án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.”
Khi thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự, người bảo vệ phải căn cứ vào các chứng cứ, tình tiết có liên quan đến vụ án, các tài liệu thu thập được từ phía cơ quan điều tra. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào những chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra thu thập được thì người bảo vệ sẽ không nắm bắt được những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Vì vậy, pháp luật cho phép người bào chữa được tự mình thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. Điều này tạo điều kiện cho người bảo vệ tiếp xúc với vụ án vừa ở mức độ khái quát hơn, cụ thể chuyên sâu hơn. Người bảo vệ có thể sử dụng những gì thu thập được để thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hiệu quả hơn
Thông qua việc đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự, người bảo vệ sẽ nắm được nội dung của vụ án, biết chính xác người được bảo vệ bị khởi kiện về vấn đề gì. Từ đó, người bảo vệ sẽ hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của mình. Ngoài ra, đọc hồ sơ, tài liệu của vụ án còn giúp người bảo vệ có điều kiện phát hiện những sai lầm, thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra.
“3. Tham gia việc hòa giải, tham gia phiên tòa hoặc có văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.”
“4. Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.”
Theo quy định của luật TTDS thì một trong những chủ thể có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng khác là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Người bảo vệ nếu xét thấy việc tham gia của người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch có thể không khách quan vô tư, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình, có thể dựa vào những căn cứ luật định để đề nghị thay đổi những người này.
“5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của họ.”
Người bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự được mời hoặc cử tham gia tố tụng với nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Vì vậy họ có nghĩa vụ phải trợ giúp cho đương sự về mọi mặt về các vấn đề pháp luật. Những vẫn đề này có thể là người bảo vệ giải thích cho đương sự về các quyền của mình, quyền và nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc thực hiện các yêu cầu, nguyện vọng của đương sự nhằm giúp họ cung cấp thêm những tình tiết có liên quan đến vụ án mà có lợi cho họ.
6. Các quyền, nghĩa vụ quy định tại các điểm m, q, r khoản 2 Điều 58:
m) Tranh luận tại phiên tòa;
Tại phiên tòa dân sự, việc tham gia hỏi và tranh luận của người bảo vệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự. Việc bảo vệ có đem lại kết quả tốt hay không cho thân chủ của mình phụ thuộc nhiều vào việc hỏi và tranh luận của người bảo vệ tại phiên tòa.. Người bảo vệ có quyền hỏi các đương sự và những người khác về vấn đề của vụ án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho người được bảo vệ. Khi tranh luận, người bảo vệ phải phân tích, lập luận, đưa ra những lí lẽ bảo vệ cho đương sự của mình.
q) Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành các quyết định của Tòa án trong thời gian giải quyết vụ án;
Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành các quyết định của Tòa án trong thời gian giải quyết vụ án; Đây vừa là quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ. Việc có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án sẽ đảm bảo người bảo vệ luôn theo sát vụ án, có sự trợ giúp kịp thời cho đương sự. Qua việc xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, có thể có thêm những tình tiết mới có ích cho việc bảo vệ.
r) Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa.”
Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự là những người am hiểu về pháp luật, vì vậy trong công việc của mình họ luôn phải tôn trọng sự thật của án và đặc biệt phải tôn trọng pháp luật. Họ chỉ có thể thực hiện chức năng của mình, tìm những tình tiết có lợi cho đương sự dựa trên sự thật của vụ án.
Những hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng:
Thứ nhất, theo qui định tại Điều 63 BLTTDS năm 2005 thì chúng ta dễ dàng xác định những đối tượng nào có thể trở thành người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, quy định này đã bộc lộ một số hạn chế và thiếu sót nhất định cụ thể:
Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, nhưng đang bị khởi tố có được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hay không ?. Nếu căn cứ theo Điều 36 thì được, nhưng thực tế thì hết sức phức tạp và khó để tiến hành các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Chẳng hạn, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, A là bị đơn trong vụ kiện đã nhờ anh của mình là B làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, khi hòa giải không thành Tòa án chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử theo luật định thì B bị khởi tố về tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản và bị tạm giam 2 tháng để điều tra. Như vậy, trong trường hợp này Tòa án còn xác định B là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của A nữa hay không ?
Bên cạnh đó, việc liệt kê các đối tượng là cán bộ, công chức Tòa án, Kiểm sát, Công an không được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là chưa thật phủ hợp. Vấn đề trước hết, việc qui định tại đoạn cuối của điểm b khoản 1 Điều 63 BLTTDS năm 2005 muốn nói đến những đối tượng này đã và đang công tác trong ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an, bởi theo Luật luật sư thì qui định những người đã từng làm thẩm phán, kiểm sát viên thì có quyền...trở thành luật sư. Hơn nữa, việc liệt kê chỉ có cán bộ, công chức trong ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an là chưa bao quát hết, bởi còn một số cán bộ, công chức, nhân viên công tác trong ngành khác ảnh hưởng đến tính khách quan của giải quyết vụ án, chẳng hạn như cơ quan Thi hành án; cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn...
Thứ hai, về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia tố tụng trong giai đoạn nào ?
Theo qui định tại khoản 1, Điều 64 BLTTDS năm 2005 thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được: “ tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình dân sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm nếu Tòa án xét thấy cần thiết.”. Nhưng việc qui định trong giai đoạn tố tụng nào người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia theo qui định của BLTTDS năm 2005 là chưa rõ ràng và chính xác.
Nếu chúng ta dựa vào qui định tại khoản 1, Điều 63 BLTTDS năm 2005 thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào của tố tụng như hòa giải, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, quá trình thu thập chứng cứ, lấy lời khai, đối chất...
Nhưng khi qui định về thành phần hòa giải tại Điều 184 BLTTDS năm 2005 xác định thành phần gồm:
1. Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải
2. Thư ký Tòa án ghi biên bản hòa giải
3. Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự.
Như vậy, theo qui định này thì thành phần phiên hòa giải là không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thứ ba, về sự có mặt của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại phiên tòa.Tại điều 203 BLTTDS 2005,mục 2 NQ02/2006/NQ-HĐTP thì:
Nếu vắng mặt lần thứ nhất có lí do chính đáng thì hoãn, không có lí do chính đáng thì vẫn xét xử.
Lí do chính đáng ở đây là gì?
Trong thực tế ít tính đến có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng
Bên cạnh đó,việc quy định trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì tòa án phải hoãn phiên tòa là chưa phù hợp,việc xuất hiện người tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án dân sự là do yêu cầu của đương sự trong vụ kiện,nghĩa là đương sự có quyền thực hiện quyền này hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân đương sự,thậm chí đương sự có quyền thay đổi ý kiến về bất cứ lúc nào.Chẳng hạn,đương sự ở cấp sơ thẩm không có quyền yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình nhưng đến mức phúc thẩm thì họ không yêu cầu mà tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình,thậm chí trong một giai đoạn tố tụng nhất định thì đương sự có quyền thay đổi yêu cầu của mình về việc yêu cầu hay không yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình,và đây là quyền của cá nhân đương sự khi tham gia tố tụng.Cho nên việc có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi tham gia tố tụng.Cho nên việc có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng hay không là phụ thuộc vào yêu cầu của đương sự.
Thứ tư, vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là rất quan trong tuy nhiên số lượng cũng như chất lượng luật sư Việt nam hiện nay còn rất hạn chế về trình độ, hơn nữa vai trò của luật sư trong tố tụng dân sự nhiều khi chưa được tòa án nhìn nhận đúng mực.
Hướng hoàn thiện quy định pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp của đương sự:
Thứ nhất, pháp luật cần quy định cụ thể hơn về trách nhiệm pháp lý đối với các cơ quan, cá nhân, tổ chức nhất là cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo và thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự khi tham gia tố tụng dân sự. Việc tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ với các đương sự mà có ý nghĩa với Tòa án trong quá trình tìm hiểu sự thật khách quan, giải quyết vụ việc.
Thứ hai, Cần có quy định bổ sung sự tham gia của luật sư với tư cách là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong phiên họp dân sự tại Điều 64 Bộ luật tố tụng dân sự.
Thứ ba, Pháp luật cần có những quy định sửa đổi, bổ sung về sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong quá trình hòa giải vụ việc.
Thứ tư, cần nâng cao hơn nữa sự hiểu biết của công dân về vị trí, vai trò, hoạt động của người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự và đương sự trong tố tụng dân sự.
Thứ năm, cần đẩy mạnh sự phát triển số lượng, chất lượng luật sư và đương sự khi tham gia tố tụng dân sự đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, đồng thời nâng cao hiểu biết của công dân trong việc bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự khi tham gia vào quá trình tố tụng dân sự.
Thứ sáu, để nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa và đảm bảo việc giải quyết vụ án đảm bảo khách quan và chính xác thì trong quá trình hoàn thiện BLTTDS 2005 chúng ta cần xem xét việc trao cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự 1 số quyền hạn tố tụng nhất định nữa.Chẳng hạn, quyền đề nghị tòa án xác minh, thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá; Bởi theo Khoản 2 Điều 64 BLTTDS 2005 thì họ có quyền xác minh, thu thập chứng cứ,cung cấp chứng cứ cho tòa án.Vấn đế đặt ra là nếu như họ xác minh, thu thập không được với lý do khách quan nào đó mà chúng ta không quy định cho họ có quyền yêu cầu tòa án thi hành xác minh, thu thập thì có khi không đảm bảo tính chính xác cho việc giải quyết vụ án. Bên cạnh đó, khi có chứng cứ cho rằng bản án hay quyết định của tòa án vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, có sai sót không khách quan trong việc đánh giá chứng cứ thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực.
Minh Nhất