Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách ở Việt Nam hiện nay

15/09/2015
 

Từ sau Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lầm thứ VI, cùng với việc đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân nhằm “thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân”, “vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để góp phần thực hiện các mục tiêu trên, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã quan tâm chỉ đạo: “…Cần phải mở rộng loại hình tư vấn pháp luật phổ thông, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân dân nhằm góp phần nâng cao ý thức pháp luật và ứng xử pháp luật của công dân trong quan hệ đời sống hàng ngày…; cần nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ tư vấn dịch vụ không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tiếp tục khẳng định cần “tổ chức hình thức  tư vấn pháp luật cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho người nghèo được hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí…”.

Với tính chất là hoạt động bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý cung cấp dịch vụ pháp lý (tư vấn pháp luật; tham gia tố tụng để đại diện, bào chữa; đại diện ngoài tố tụng, kiến nghị, hòa giải) miễn phí cho người nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật, nhằm giúp họ bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.         

Thực tiễn tư pháp và bảo đảm quyền con người trên thế giới đã cho thấy, hoạt động trợ giúp pháp lý có tầm đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm và hiện thực hóa các quyền con người. Ở Việt Nam thì điều này càng cần thiết, nhất là trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà người nghèo, người dân cư trú ở vùng sâu, vùng xa và đối tượng chính sách chiếm một tỷ lệ tương đối lớn.

1. Pháp luật quốc tế và quốc gia về quyền được trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách

Quyền được trợ giúp pháp lý hay quyền tiếp cận trợ giúp pháp lý là một quyền cơ bản trong hệ thống quyền con người nói chung, là một quyền cụ thể của quyền tiếp cận tư pháp (hay quyền tiếp cận công lý). Nội hàm của nó là những yêu sách chính đáng của cá nhân hoặc nhóm người nhất định về việc được tiếp cận hệ thống dịch vụ tư vấn pháp lý miễn phí dựa trên quy định của pháp luật. Quyền được trợ giúp pháp lý khác với hoạt động trợ giúp pháp lý ở chỗ, đó là phạm trù để chỉ khả năng và năng lực của chủ thể thụ hưởng sự trợ giúp pháp lý được pháp luật bảo đảm; trong khi đó, hoạt động trợ giúp pháp lý chỉ hệ thống và cách thức cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý. Chủ thể của quyền trợ giúp pháp lý là cá nhân, còn chủ thể của hoạt động trợ giúp pháp lý là nhà nước và xã hội. Hoạt động trợ giúp pháp lý có hiệu quả hay không tùy thuộc vào cơ chế thực thi nó và việc xây dựng các kế hoạch, chương trình hành động dựa trên quyền và lợi ích của đối tượng thụ hưởng làm xuất phát điểm, đồng thời làm phương tiện và mục đích cho toàn bộ hoạt động trợ giúp pháp lý.

Quyền tiếp cận tư pháp nói chung và quyền tiếp cận trợ giúp pháp lý nói riêng được quy định tại một số công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia và là thành viên như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966), Công ước chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW), Công ước quốc tế về quyền trẻ em…

Quyền được trợ giúp pháp lý được ghi nhận đầy đủ trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Khoản 1, Điều 14 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội được tôn trọng và bảo đảm”. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (Bộ luật TTHS), Chương IV về người tham gia tố tụng có những quy định về bảo đảm quyền được TGPL của công dân. Chẳng hạn, Khoản 2, Điều 57 của Bộ luật TTHS quy định quyền được có người bào chữa; Điều 62 nhấn mạnh rằng cơ quan, người tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này. Đặc biệt, Bộ luật TTHS đã có quy định về việc các cơ quan tố tụng cần phải bảo đảm quyền được TGPL cho những đối tượng cụ thể, như người bị khởi tố, xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật Hình sự, người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hay thể chất. Chẳng hạn, Khoản 2, Điều 305 của Bộ luật khẳng định “trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình”. Với sự ra đời của Luật Trợ giúp pháp lý và Luật Luật sư năm 2006, quyền tiếp cận trợ giúp pháp lý được nêu trong các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên một lần nữa đã được nội luật hoá và được bảo đảm tương đối đầy đủ trong hệ thống pháp luật quốc gia. 

 Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị, đã đặc biệt nhấn mạnh đến việc tăng cường vai trò và chất lượng của hệ thống tư pháp trong việc bảo đảm quyền con người ở nước ta. Chiến lược này cũng chú trọng vào việc tăng cường năng lực của cán bộ tư pháp, xây dựng nền tư pháp độc lập, vững mạnh và nâng cao vai trò của luật sư như là một điều kiện quan trọng cho việc bảo đảm tốt quyền tiếp cận công lý và trợ giúp pháp lý của người dân.

2. Thực trạng bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách

Trong những năm qua, hoạt động trợ giúp pháp lý và việc bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý đã đạt những thành tựu đáng kể, góp phần tích cực vào việc cải thiện và thúc đẩy việc thụ hưởng các quyền con người và quyền công dân của người dân. Kết quả đáng khích lệ của hoạt động trợ giúp pháp lý phản ánh tinh thần của chiến lược cải cách tư pháp, quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật và đặc biệt từ hệ quả của sự ra đời của Luật Trợ giúp pháp lý và Luật Luật sư. Theo số liệu báo cáo tổng kết 8 năm triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý của Cục trợ giúp pháp lý - Bộ Tư pháp, cả nước đã có trên 980 nghìn lượt người nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn khác trong xã hội được hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý. Trong số các đối tượng chính sách được trợ giúp pháp lý, có tới hơn một nửa là người nghèo, điều này cũng phản ánh tương đối sát thực tiễn người nghèo cần được trợ giúp pháp lý. Ngoài ra, trong số những đối tượng nhận trợ giúp pháp lý, có tới hơn 40% là phụ nữ đã phản ánh thực tế phụ nữ là một trong những đối tượng cần phải được đặc biệt quan tâm và ưu tiên trong hoạt động cung cấp trợ giúp pháp lý.

Hoạt động trợ giúp pháp lý trong thời gian qua đã góp phần đáng kể vào việc thụ hưởng quyền tiếp cận công lý và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của những người nghèo, đối tượng chính sách, người dân tộc thiểu số, trẻ em và phụ nữ. Nó góp phần quan trọng trong việc đưa pháp luật vào cuộc sống, nhất là ở địa phương, và tới những đối tượng yếu thế, thiệt thòi trong xã hội, nhờ đó họ nâng cao được nhận thức về pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ dân sự và hình sự có liên quan. Hoạt động trợ giúp pháp lý đã làm thay đổi nhận thức và hành vi của cán bộ, công chức và người dân về pháp luật cũng như quyền và nghĩa vụ liên quan của cán bộ, công chức đối với nhân dân. Theo ý nghĩa đó, trợ giúp pháp lý tăng cường việc bảo đảm và hiện thực hoá các quyền con người và quyền công dân của các cá nhân.

Cùng với sự ra đời của Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Luật sư và các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật đã góp phần tích cực vào cải thiện nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức thực thi pháp luật cũng như việc nâng cao vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của những người tham gia hoạt động tố tụng và các Trợ giúp viên pháp lý, các cộng tác viên đối với việc bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của đối tượng thụ hưởng. Bên cạnh những thành tựu nói trên, việc bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của người nghèo và đối tượng chính sách vẫn còn nhiều bất cập.

Một trong những bất cập, hạn chế của việc bảo đảm quyền được được trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách là hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa có những văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết, cụ thể về tiêu chí thụ hưởng quyền được trợ giúp pháp lý của các đối tượng được nêu trong Điều 10 của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006. Hơn nữa, đối tượng được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật còn hạn chế và chưa phản ánh đầy đủ tinh thần nhân văn, nhân đạo của pháp luật nước ta cũng như của việc thực thi nghĩa vụ của Việt Nam đối với chuẩn mực quốc tế về quyền con người được thể hiện trong các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Chẳng hạn, Luật Trợ giúp pháp lý chỉ thừa nhận quyền được  trợ giúp pháp lý cho đối tượng là trẻ em không nơi nương tựa, chứ chưa phải là trẻ em nói chung, cũng như đối tượng là người nghèo mà chưa có những quy định mở rộng cho những đối tượng có thu nhập thấp hoặc những người thất nghiệp, vô gia cư... Trong khi đó, pháp luật quốc tế quy định rằng, trẻ em là đối tượng đặc biệt cần phải được bảo vệ và có quyền được tiếp cận tư pháp và được trợ giúp pháp lý miễn phí. Điều 40 (khoản b, đoạn ii) của Công ước quốc tế về quyền trẻ em cũng khẳng định, bất cứ trẻ em nào bị khởi tố là đã vi phạm pháp luật hình sự đều có quyền được trợ giúp về pháp lý hoặc sự trợ giúp thích hợp khác cho sự biện hộ của mình. Điều 14 (khoản 3, đoạn d) của Công ước quốc tế về quyền dân sự - chính trị năm 1966 quy định trong quá trình xét xử với một tội hình sự, mỗi người đều có quyền được tự bào chữa hoặc nhờ sự giúp đỡ về pháp lý do mình lựa chọn, được nhận sự trợ giúp pháp lý mà người ấy không phải trả tiền nếu không có đủ điều kiện chi trả. Thực tiễn tư pháp ở các quốc gia châu Âu và Toà án châu Âu cũng cho thấy, đối tượng thụ hưởng được trợ giúp pháp lý không chỉ là những người không có khả năng chi trả trong các vụ án hình sự, trong quá trình tố tụng hình sự, mà còn cả cho những vụ án dân sự - trong quá trình tố tụng dân sự. Thực tiễn này đặt ra kinh nghiệm cho hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam dựa trên cách tiếp cận quyền. Bên cạnh đó, ở Việt Nam, đối tượng được trợ giúp pháp lý hiện nay chưa bao hàm những người cũng được coi là yếu thế và dễ bị tổn thương nhất trong xã hội và chiếm số lượng khá lớn là phụ nữ ở nông thôn. Nhiều vụ án dân sự, hình sự liên quan đến quyền và lợi ích của nhóm đối tượng này đã xảy ra, nhưng không phải tất cả họ đều có thể có quyền được trợ giúp pháp lý.

Trong bất kỳ một xã hội văn minh, dân chủ nào, luật sư đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động tố tụng và bảo đảm quyền con người. Tuy nhiên, vai trò của luật sư ở Việt Nam còn rất khiêm tốn. Cùng với sự thiếu hụt về số lượng là chất lượng của đội ngũ luật sư. Theo số liệu thống kê mới đây của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, hiện cả nước mới chỉ có hơn 4.000 luật sư trên tổng số 90 triệu dân, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. So sánh với các quốc gia phát triển như Vương quốc Anh, tỷ lệ luật sư trên số dân là 1/430; Hoa Kỳ là 1/300 dân. Trong khi đó, tỉ lệ của Việt Nam là 1/25.000 dân, chỉ xấp xỉ bằng 1/60 so với Vương quốc Anh. So với những quốc gia trong khu vực, tỷ lệ luật sư trên người dân của nước ta vẫn là rất thấp. Quốc gia láng giềng Trung Quốc có tỉ lệ luật sư trên số dân là 1/12.000, Hàn Quốc là 1/4.400 và Nhật Bản là 1/5.500 dân. Sự thiếu hụt đội ngũ luật sư ở nước ta đã ảnh hưởng đến việc bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của người dân. Ngoài ra, hệ thống giáo dục pháp luật và nghề luật nước ta trong những năm qua chưa thực sự chú trọng đến việc đào tạo kỹ năng hành nghề và trang bị tri thức pháp luật quốc tế và quốc gia về quyền con người. Hệ quả là đội ngũ luật sư - những người tham gia trực tiếp vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân còn hiểu rất mơ hồ và thiếu sâu sắc về quyền con người. Đó là chưa kể đến những luật sư thiếu nhiệt tình, thiếu đạo đức trong hoạt động nghề nghiệp của mình.

 Hiện nay chúng ta vẫn chưa có các luật sư công có trách nhiệm tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý và cung cấp các dịch vụ tư vấn pháp lý miễn phí. Mặc dù pháp luật khuyến khích sự tham gia tự nguyện, tích cực và chủ động đối với hoạt động trợ giúp pháp lý, nhưng thực tiễn cho thấy sự tham gia ở mức độ rất hạn chế của đội ngũ luật sư vào hoạt động trợ giúp pháp lý.  Điều này cũng có thể giải thích là do sự thiếu hụt đội ngũ luật sư nói chung cũng như sự vắng bóng của đội ngũ luật sư công nói riêng trong hệ thống tư pháp Việt Nam. Thêm nữa, phần lớn các luật sư tập trung chủ yếu ở hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trong khi nhu cầu được trợ giúp pháp lý lại chủ yếu nằm ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa..

Trợ giúp pháp lý là hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí (mặc dù ngân sách cho hoạt động được nhà nước chi trả), nhưng chất lượng của loại hình dịch vụ này chưa thực sự bảo đảm và đạt kết quả tốt. Chẳng hạn, trong các vụ việc đại diện và bào chữa cho những người tham gia tố tụng thuộc đối tượng thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý, chưa có được sự đại diện và bào chữa của các luật sư hoặc bào chữa viên có kinh nghiệm. Điều này hạn chế khả năng tiếp cận công lý và quyền tiếp cận công lý của người được thụ hưởng được trợ giúp pháp lý .

Là hệ quả tất yếu của quá trình đô thị hoá và nền kinh tế thị trường, ở các thành phố lớn ngày càng có nhiều người lao động nhập cư đến từ các địa phương lân cận. Theo con số chưa đầy đủ của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, tại những thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, có đến hàng trăm nghìn người lao động nhập cư đang làm việc và tìm việc trong các khu vực kinh tế khác nhau. Họ thường là đối tượng bị thiệt thòi và phải chịu đựng những điều kiện lao động khắc nghiệt, hay gặp rắc rối về việc chi trả, bồi thường phát sinh trong quan hệ lao động. Rõ ràng, người lao động nhập cư là nhóm người chịu thiệt thòi mới trong quá trình phát triển. Bên cạnh đó là khoảng nửa triệu công dân Việt Nam đang lao động ở nước ngoài ở trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ nhiều khi bị lạm dụng, bị vi phạm bởi những nhà tuyển dụng, người chủ lao động trong khi hiểu biết về pháp luật của họ rất hạn chế, nhất là pháp luật của nước sở tại. Không ít lao động này vì điều kiện lao động hà khắc mà tự ý đơn phương từ bỏ hợp đồng lao đồng và trôi nổi trên thị trường lao động bất hợp pháp nên họ càng dễ dàng bị lợi dụng và vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp. Họ thực chất cũng thuộc nhóm yếu thế trong xã hội, hơn nữa là nhóm người thiểu số trong xã hội ấy. Tuy nhiên, họ vẫn không là đối tượng được trợ giúp pháp lý.

Đối với các nhóm xã hội dễ bị tổn thương như: phụ nữ, trẻ em, người tàn tật, những người thiểu số, quyền được tiếp cận tư pháp nói chung và quyền được trợ giúp pháp lý nói riêng đóng vai trò quan trọng trong việc thụ hưởng quyền con người trên thực tế. Việc bảo vệ những nhóm người dễ bị tổn thương này sẽ không thể có hiệu quả và đầy đủ nếu nhận thức về quyền cũng như cơ chế trợ giúp không có tính thực thi cao. Kinh nghiệm của các địa phương trong những năm qua đã cho thấy rõ điều này. Tuy nhiên, trong hoạt động được trợ giúp pháp lý, các Trung tâm trợ giúp pháp lý ở một số địa phương chưa hoạt động có hiệu quả vì đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý và cộng tác viên chưa thực sự nắm vững pháp luật nói chung và quyền con người nói riêng.

3. Một số đề xuất bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách

Thứ nhất, hoạt động tư pháp nói chung và trợ giúp pháp lý nói riêng cần phải được xây dựng dựa trên việc định hướng về quyền hay tiếp cận dựa trên quyền. Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền trong hoạt động trợ giúp pháp lý đòi hỏi các cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý và các cơ quan công vụ tham gia vào hoạt động này phải thay đổi nhận thức, hành vi và kỹ năng thực hành được trợ giúp pháp lý. Điều đó đặt ra yêu cầu đào tạo một cách có hệ thống tri thức về cách tiếp cận dựa trên quyền và về quyền con người cho chủ thể thực hiện được trợ giúp pháp lý. Trợ giúp pháp lý được thực thi dựa trên việc định hướng vào các giá trị thụ hưởng về quyền tiếp cận công lý và quyền được trợ giúp pháp lý của người dân.

Thứ hai, quyền tiếp cận công lý và quyền được trợ giúp pháp lý của người dân sẽ không thể được đảm bảo hiệu quả nếu thiếu vắng sự nhận thức tương đối đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của chính người dân. Chừng nào người dân còn mơ hồ về quyền của mình, chừng đó không tránh khỏi những hạn chế tất yếu của người dân trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nếu như người dân không biết mình có những quyền gì và để thực hiện được quyền cần phải làm gì, họ sẽ vẫn chưa thể tiếp cận được với hệ thống được trợ giúp pháp lý và tư pháp.

Thứ ba, để hoạt động trợ giúp pháp lý đạt hiệu quả và thực chất, cần có sự phối hợp hoạt động chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc thụ hưởng quyền được trợ giúp pháp lý sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự phối kết hợp, hợp tác chặt chẽ và đồng bộ giữa đội ngũ làm công tác trợ giúp pháp lý (trợ giúp viên pháp lý, luật sư và cộng tác viên) và các cơ quan tiến hành tố tụng (công an, kiểm sát, toà án).

Thứ tư, cơ chế bảo đảm và thực thi quyền trợ giúp pháp lý của người dân cần phải được đặc biệt chú trọng tới cả hai yếu tố là tự nguyện và bắt buộc trong hoạt động cung cấp trợ giúp pháp lý cho đối tượng thụ hưởng. Bên cạnh phương thức khuyến khích và động viên sự tham gia tự nguyện của các cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp dịch vụ pháp lý tham gia vào hoạt động trợ giúp pháp lý, Nhà nước cần có những chính sách bắt buộc, ví dụ các luật sư cần phải nhận chỉ tiêu trợ giúp pháp lý mỗi năm hoặc theo định kỳ để đảm bảo rằng cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý cho đối tượng thụ hưởng là nghĩa vụ của người luật sư. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia như (Anh, Mỹ và cả Trung Quốc) cho thấy điều này.

Bên cạnh đó, nâng cao nhận thức về quyền con người cho đội ngũ luật sư là tất yếu cần thiết trong chiến lược cải cách hệ thống tư pháp nói chung cũng như chiến lược cải cách hoạt động trợ giúp pháp lý nói riêng. Nhà nước cần đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ luật sư để nhanh chóng đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Đội ngũ luật sư phải được tăng cường về chất lượng và số lượng. Mở rộng quyền và nghĩa vụ của luật sư, đồng thời cần có những cơ chế thực thi thích hợp để tăng cường vai trò của luật sư trong hoạt động cung cấp trợ giúp pháp lý cho người dân.

Thứ năm, trên thực tế, người được trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số cũng tương đối lớn. Rất nhiều người trong số họ không thể nói được tiếng Việt. Để bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của nhóm người này, Nhà nước nên có chính sách đào tạo đội ngũ phiên dịch viên. Đội ngũ phiên dịch viên sẽ giúp cho việc chuyển tải thông điệp của Nhà nước đến người dân và mong muốn của người dân đến các cơ quan nhà nước được tốt hơn, bảo đảm kịp thời quyền và lợi ích của người được trợ giúp pháp lý.

Thứ sáu, đối với người lao động nhập cư, Nhà nước cần có những sự điều chỉnh về hệ thống pháp luật và chính sách nói chung cũng như về cơ chế bảo đảm và thực thi pháp luật về trợ giúp pháp lý nói riêng để trao quyền được trợ giúp pháp lý cho người lao động nhập cư. Một trong những biện pháp bảo đảm thực tiễn đó là hệ thống công đoàn địa phương cần có sự quan tâm đối với nhóm đối tượng lao động nhập cư và tham gia cùng với các cơ quan, tổ chức cung cấp trợ giúp pháp lý khác của Nhà nước và xã hội, giúp họ tiếp cận được với công lý và trợ giúp pháp lý khi xảy ra những tranh chấp lao động hay những vi phạm quyền, lợi ích của người lao động từ giới chủ sử dụng lao động.

Thứ bảy, phải xác định rằng, dù trợ giúp pháp lý là dịch vụ miễn phí cho người nghèo, nhóm dễ bị tổn thương và đối tượng chính sách, thì chất lượng dịch vụ ấy cũng phải ngang bằng với chất lượng dịch vụ pháp lý có thu phí, bởi hoạt động này là nhằm bảo vệ quyền con người cho những đối tượng nhất định. Vì vậy, Nhà nước nên quy định cụ thể về nghĩa vụ cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia trợ giúp pháp lý. Đó là công việc đương nhiên của họ chứ không phải là hoạt động ban ơn.

                                                                   Đoàn Thị Ngọc Hải

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Xem: Văn kiện Đại hội đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI;

2. Xem: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966;

3. Xem: Công ước quốc tế về quyền trẻ em;

4. Xem: Bộ Luật hình sự năm 1999;

5. Xem: Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003;

6. Xem: Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và một số văn bản hướng dẫn thi hành;

7. Xem: Cục Trợ giúp pháp lý (2008), Tiếp cận công lý và trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. Xem http://www.nlaa.gov.vn/ news.asp?CateID=7&Code=TG;

8. Xem:  Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1998, tr. 184;

9. Xem: Trợ giúp pháp lý với vấn đề quyền con người ở một số nước http://www.nlaa.gov.vn/detail.asp?CateID=23&ArtID=724.