Yêu cầu điều tra bổ sung trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, vướng mắc, kiến nghị hoàn thiện

12/03/2015
 

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, hồ sơ vụ án sẽ được chuyển đến nhiều cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau trong các giai đoạn tố tụng do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) quy định. Nhằm giúp cho việc giải quyết vụ án được triệt để, nhanh chóng, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, BLTTHS quy định khi hồ sơ được chuyển sang giai đoạn truy tố mà có căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung để Cơ quan điều tra thực hiện; còn khi vụ án được chuyển sang giai đoạn xét xử thì Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc Hội đồng xét xử (tại phiên tòa) quyết định yêu cầu điều tra bổ sung khi có căn cứ do luật định. Bên cạnh đó, BLTTHS còn quy định về trình tự, thủ tục tiến hành như: chủ thể có thẩm quyền thực hiện, hình thức văn bản yêu cầu điều tra bổ sung, số lần yêu cầu điều tra bổ sung, thủ tục tiến hành yêu cầu điều tra bổ sung, thời hạn điều tra và thủ tục tiến hành sau khi điều tra bổ sung. Nhìn chung, quy định của BLTTHS tương đối đầy đủ, giúp hoạt động yêu cầu điều tra bổ sung[1], thực hiện hoạt động điều tra bổ sung của các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phát huy hiệu quả trong thực tiễn. Bên cạnh đó, một số quy định của BLTTHS về yêu cầu điều tra bổ sung, thực hiện hoạt động điều tra bổ sung còn một số vướng mắc gây cản trở đến quá trình giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Vì vậy, trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ lần lượt trình bày quy định của BLTTHS về yêu cầu điều tra bổ sung; những vướng mắc, bất cập từ thực tiễn áp dụng quy định của BLTTHS về yêu cầu điều tra bổ sung và đề xuất những kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện quy định BLTTHS đối với chế định này.

1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về yêu cầu điều tra bổ sung

Quy định về yêu cầu điều tra bổ sung được BLTTHS quy định cụ thể tại các Điều 121, 168, 179 và 199 tương ứng với việc yêu cầu điều tra bổ sung tại các giai đoạn tố tụng truy tố, xét xử do BLTTHS quy định. Cụ thể như sau:

1.1. Về giai đoạn tiến hành và chủ thể có thẩm quyền thực hiện:

Theo quy định tại các Điều 168, 179 và Điều 199 BLTTHS thì việc yêu cầu điều tra bổ sung có thể diễn ra ở giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử sơ thẩm. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm thì việc yêu cầu điều tra có thể thực hiện trước khi mở phiên tòa (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) và tại phiên tòa.

Về thẩm quyền ban hành văn bản yêu cầu điều tra bổ sung, trong giai đoạn truy tố việc ban hành văn bản yêu cầu điều tra bổ sung sẽ do Viện trưởng Viện kiểm sát ký trên cơ sở đề xuất của Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 36 BLTTHS.

Trong giai đoạn xét xử, trước khi quyết định đưa vụ án ra xét xử được ban hành thì việc yêu cầu điều tra bổ sung sẽ do Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa trực tiếp quyết định. Tại phiên tòa, thẩm quyền ban hành quyết định yêu cầu điều tra bổ sung sẽ nhân danh Hội đồng xét xử và Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa ký quyết định.

Vấn đề đặt ra là ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, khi Tòa án đã ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng khi soạn thảo bản án, nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa phát hiện có một trong các căn cứ phải trả hồ sơ điều tra bổ sung tại Điều 179 BLTTHS thì Thẩm phán có được ban hành Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung hay không hay vẫn phải mở phiên tòa để Hội đồng xét xử quyết định. Do pháp luật tố tụng hình sự chưa quy định cụ thể về vấn đề này nên thực tiễn tồn tại 02 quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa được ban hành quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Quan điểm thứ hai cho rằng, Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa không được tự ban hành quyết định mà phải tiến hành các công việc để mở phiên tòa và việc có yêu cầu điều tra bổ sung hay không sẽ do Hội đồng xét xử quyết định tại phiên tòa.

Chúng tôi thống nhất với quan điểm thứ nhất bởi vì, theo quy định tại Điều 179 BLTTHS thì Thẩm phán chỉ được ban hành quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Trong khi đó, Điều 176 BLTTHS quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử bao gồm thời gian từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến khi phiên tòa được mở[2]. Cho nên, thời gian từ khi Tòa án ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử đến trước khi phiên tòa được mở vẫn thuộc giai đoạn chuẩn bị xét xử. Vì vậy, việc Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa ký quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong khoảng thời gian từ khi Tòa án ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử đến trước khi phiên tòa được mở là phù hợp với quy định của pháp luật.

1.2. Về hình thức ban hành

Theo quy định tại các Điều 168, 179 và Điều 199 BLTTHS thì dù yêu cầu điều tra bổ sung ở giai đoạn nào thì hình thức của văn bản yêu cầu điều tra bổ sung đều là quyết định. Tuy nhiên, BLTTHS không dùng chung tên quyết định mà có sự phân biệt. Đối với giai đoạn truy tố và tại phiên tòa, văn bản yêu cầu điều tra bổ sung là “quyết định yêu cầu điều tra bổ sung”; còn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì văn bản yêu cầu điều tra bổ sung là “quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”.

Chúng tôi cho rằng, tên gọi văn bản yêu cầu điều tra bổ sung có sự khác nhau bên trên xuất phát từ bản chất của từng giai đoạn mà quyết định được ban hành. Trong đó, bản chất của giai đoạn truy tố phát sinh từ khi hồ sơ chuyển sang Viện kiểm sát cùng bản kết luận điều tra (hoặc quyết định đề nghị truy tố) và bản chất của giai đoạn xét xử diễn ra tại phiên tòa. Khi hồ sơ đã chuyển sang giai đoạn truy tố hay đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì về nguyên tắc hồ sơ không được chuyển lại cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát để điều tra bổ sung vì như vậy sẽ kéo dài thời gian giải quyết vụ án, ảnh hường đến quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng. Khi cần yêu cầu điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử chỉ ban hành quyết định yêu cầu điều tra bổ sung rồi chuyển cho Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung mà không chuyển hồ sơ kèm theo.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được ban hành quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung nên phải trả hồ sơ kèm theo quyết định để Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra xem xét điều tra bổ sung.

1.3. Về căn cứ điều tra bổ sung

Theo quy định tại Điều 168 và Điều 179 BLTTHS thì căn cứ yêu cầu điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố và chuẩn bị xét xử tương tự nhau nhưng không đồng nhất.

Trong giai đoạn truy tố, khi có một trong các căn cứ sau thì Viện kiểm sát ban hành quyết định yêu cầu điều tra bổ sung. Đó là: (1) Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được; (2) Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác và (3) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, khi có một trong các căn cứ sau thì Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa ban hành quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Đó là: (1) Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được; (2) Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác và (3) Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Về căn cứ thứ nhất, sự khác nhau được thể hiện ở chỗ, trong giai đọan truy tố, khi Cơ quan điều tra thu thập chứng cứ không đầy đủ (thiếu) hoặc có thu thập đủ nhưng chưa đảm bảo để kết luận (chứng minh) một trong các nội dung cần phải chứng minh tại Điều 63 BLTTHS thì Viện kiểm sát sẽ yêu cầu điều tra bổ sung. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án chỉ trả hồ sơ điều tra bổ sung khi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thu thập đầy đủ chứng cứ để chứng minh nhưng chưa đảm bảo để kết kuận (chứng minh) một trong các nội dung cần phải chứng minh tại Điều 63 BLTTHS. Trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập không đầy đủ (thiếu) chứng cứ thì Tòa án không áp dụng căn cứ này để trả hồ sơ điều tra bổ sung mà xem xét áp dụng căn cứ khác.

Đối với căn cứ thứ hai, trong giai đoạn truy tố, nội dung của thuật ngữ “tội phạm khác” bao gồm: (1) tội mà Cơ quan điều tra khởi tố không đúng với tội mà bị can thực hiện và (2) cùng với tội bị khởi tố thì bị can còn phạm tội khác. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì Tòa án chỉ trả hồ sơ điều tra bổ sung khi bị can, bị cáo phạm tội khác với tội mà Viện kiểm sát truy tố chứ không bao gồm việc ngoài hành vi bị truy tố, bị can, bị cáo còn phạm tội khác.

Đối với căn cứ thứ ba, việc vi phạm thủ tục tố tụng theo khoản 3 Điều 168 chỉ có thể xảy ra ở giai đoạn khởi tố, điều tra; còn việc vi phạm thủ tục tố tụng tại điểm c khoản 1 Điều 179 BLTTHS có thể vi phạm tố tụng ở giai đoạn khởi tố, điều tra và cả giai đoạn truy tố.

BLTTHS không quy định căn cứ yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa. Tuy nhiên, trong thực tiễn, khi có một trong các căn cứ tại khoản 1 Điều 179 BLTTHS, Hội đồng xét xử vẫn ban hành quyết định yêu cầu điều tra bổ sung.

1.4. Về số lần yêu cầu điều tra bổ sung và thủ tục tiến hành

Theo khoản 2 Điều 121 BLTTHS thì Viện kiểm sát và Tòa án chỉ trả hồ sơ điều tra bổ sung không quá 02 lần.

Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát sẽ ban hành quyết định rồi chuyển quyết định cùng hồ sơ vụ án đến Cơ quan điều tra để Cơ quan điều tra thực hiện việc điều tra bổ sung theo quy định.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, hoặc tại phiên tòa, Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử), Hội đồng xét xử (tại phiên tòa) chuyển quyết định trả hồ sơ cùng hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát. Nếu thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát thực hiện; nếu không thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát chuyển cho Cơ quan điều tra thực hiện.

1.5. Thời hạn điều tra và thủ tục tiến hành sau khi điều tra bổ sung

Trong trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung là 02 tháng; trong trường hợp Tòa án (Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa) trả hồ sơ điều tra bổ sung là 01 tháng. Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra (khoản 2 Điều 121 BLTTHS).

Theo khoản 4 Điều 121 BLTTHS thì khi điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra có quyền áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS. Trong trường hợp có căn cứ tạm giam theo quy định của BLTTHS thì thời hạn tạm giam để điều tra bổ sung không được quá 01 tháng (trường hợp Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung) hoặc không quá 2 tháng (trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu điều tra bổ sung).

Sau khi điều tra bổ sung xong, hồ sơ sẽ được chuyển cho Viện kiểm sát cùng kết luận điều tra bổ sung để Viện kiểm sát thực hiện thủ tục truy tố. Thời hạn truy tố của Viện kiểm sát sẽ được tiến hành theo thủ tục chung.

Trường hợp Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung thì Cơ quan điều tra chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát để chuyển cho Tòa án (trường hợp yêu cầu điều tra bổ sung do Cơ quan điều tra thực hiện) hoặc Viện kiểm sát chuyển hồ sơ cho Tòa án (trường hợp yêu cầu điều tra bổ sung do Viện kiểm sát thực hiện). Sau khi nhận lại hồ sơ từ Viện kiểm sát, Tòa án phải ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử trong hạn 15 ngày (khoản 2 Điều 176 BLTTHS).

Trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu điều tra bổ sung thì BLTTHS không quy định rõ về số lần yêu cầu điều tra bổ sung và trình tự tiến hành phiên tòa sau khi có kết quả điều tra bổ sung.

2. Những vướng mắc, bất cập từ thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về yêu cầu điều tra bổ sung

Qua thực tiễn áp dụng quy định của BLTTHS về chế định yêu cầu điều tra bổ sung có một số vướng mắc, bất cập như sau:

2.1. Về việc sử dụng thuật ngữ

Quy định của BLTTHS về yêu cầu điều tra bổ sung có một số thuật ngữ chưa đảm bảo tích logic.

Thứ nhất, việc sử dụng thuật ngữ “bị cáo” tại điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS

Căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung tại điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS được áp dụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, tức có thể xảy ra khi Tòa án đã ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc chưa. Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 BLTTHS thì “bị can là người đã bị khởi tố về hình sự” và khoản 1 Điều 50 BLTTHS thì “bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”. Vì vậy, cần bổ sung thêm thuật ngữ “bị can” bên cạnh thuật ngữ bị cáo tại điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS.

Thứ hai, việc sử dụng thuật ngữ “người đồng phạm khác” tại khoản 2 Điều 168 và “đồng phạm khác” tại điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS

Chúng tôi cho rằng, quy định thuật ngữ “đồng phạm khác” là không chính xác bởi vì không phải vụ án nào khi khởi tố, truy tố đều có từ 02 người trở lên thực hiện mà có trường hợp 01 người. Trong những vụ án nếu chỉ có 01 người bị khởi tố, truy tố thì việc buộc phải có đồng phạm khác mới được yêu cầu điều tra bổ sung là không phù hợp. Vì vậy, cần sửa đổi thuật ngữ “đồng phạm khác” tại khoản 2 Điều 168 và điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS thành “đồng phạm” hoặc “người khác cùng thực hiện tội phạm”.

Bên cạnh đó, việc sử dụng thuật ngữ “người đồng phạm khác” tại khoản 2 Điều 168 BLTTHS cũng chưa chuẩn xác. Bởi vì, khoản 1 Điều 20 Bộ luật Hình sự quy định “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Từ khái niệm này có thể thấy, thuật ngữ đồng phạm là chỉ những người cùng thực hiện tội phạm cho nên việc dùng từ người đồng phạm là thừa. Vì vậy, cần bỏ từ “người” tại khoản 2 Điều 168 BLTTHS.

2.2. Về thẩm quyền yêu cầu điều tra bổ sung của Hội đồng xét xử

Không như trường hợp Viện kiểm sát, Thẩm phán (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) yêu cầu điều tra bổ sung, việc Hội đồng xét xử yêu cầu điều tra bổ sung không được BLTTHS quy định một cách đầy đủ.

Hiện nay, việc xác định Hội đồng xét xử có thẩm quyền yêu cầu điều tra bổ sung hay không chỉ căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 199 BLTTHS với nội dung: “Quyết định về việc … yêu cầu điều tra bổ sung… phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản”. Tuy nhiên, quy định này không chỉ rõ thẩm quyền của Hội đồng xét xử mà chỉ nêu lên thủ tục ban hành quyết định yêu cầu điều tra bổ sung của Hội đồng xét xử. Chính vì quy định chưa rõ ràng của BLTTHS nên thực tiễn có nhiều cách hiểu khác nhau về thẩm quyền của Hội đồng xét xử về yêu cầu điều tra bổ sung (tức Hội đồng xét xử có thẩm quyền yêu cầu điều tra bổ sung) hay không.

Chúng tôi cho rằng, việc quy định Hội đồng xét xử được yêu cầu điều tra bổ sung là phù hợp với tình hình điều tra, truy tố, xét xử và mô hình tố tụng đang được áp dụng ở nước ta hiện nay. Vì vậy, cần bổ sung vào BLTTHS quy định về yêu cầu điều tra bổ sung của Hội đồng xét xử và quy định này tách khỏi quy định tại Điều 199 vì quy định tại Điều 199 chỉ liên quan đến trình tự, thủ tục ban hành bản án, quyết định của Tòa án.

2.3. Về thẩm quyền ban hành quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố

Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 36 BLTTHS, trong giai đoạn truy tố, việc ban hành quyết định yêu cầu điều tra bổ sung sẽ do Viện trưởng Viện kiểm sát ký trên cơ sở đề xuất của Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố.

Tuy nhiên, Kiểm sát viên lại là người được phân công kiểm sát điều tra, thực hành quyền công tố. Cho nên, nội dung vụ án sẽ được Kiểm sát viên nắm vững thông qua việc việc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng. Vì vậy, việc quy định Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền ký quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung là chưa phù hợp. Hơn nữa, theo tinh thần cải cách tư pháp, quyền hạn tố tụng sẽ được phân chia và tập trung chủ yếu cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Do đó, chúng tôi cho rằng, cần giao quyền quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Kiểm sát viên để tránh việc Viện trưởng Viện kiểm sát ban hành quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung chỉ là hình thức.

2.4. Về  căn cứ yêu cầu điều tra bổ sung

Thứ nhất, căn cứ để Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung tại điểm c khoản 1 Điều 179 BLTTHS chưa phù hợp

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 179 BLTTHS thì “Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được”. Điều bất cập từ quy định này thể hiện ở chỗ, căn cứ này lại áp dụng trong trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Nếu phiên tòa chưa diễn ra thì làm sao Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa biết “không thể bổ sung tại phiên tòa được”. Điều đó có nghĩa, để tuân thủ căn cứ này, Thẩm phán phải tự dự trù tình huống sẽ diễn ra tại phiên tòa. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp đều dự trù được. Để đảm bảo tính thống nhất, căn cứ này cần quy định chỉ áp dụng cho Hội đồng xét xử tại phiên tòa mà không áp dụng cho Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.

Thứ hai, các căn cứ yêu cầu điều tra bổ sung của Hội đồng xét xử chưa được quy định cụ thể

Trong giai đoạn xét xử, việc trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án diễn ra ở giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa. Tuy nhiên, không như quy định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, việc Hội đồng xét xử yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa không được BLTTHS nêu căn cứ cụ thể cũng như không có quy phạm dẫn chiếu đến các căn cứ mà Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử (Điều 179 BLTTHS). Mặc dù, tại mục 19 Phần II Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 của Tòa án nhân dân tối cao về việc giải đáp các vấn đề nghiệp vụ có nêu “tại phiên toà khi xét thấy có một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 154 BLTTHS (nay Điều 179 BLTTHS) thì Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 173 BLTTHS (nay là Điều 199 BLTTHS) để ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”. Tuy nhiên, đây là hướng dẫn quy định của BLTTHS năm 1988 (đã hết hiệu lực). Trong khi đó, quy định của BLTTHS cần cụ thể, rõ ràng, logic để dễ dàng áp dụng trong thực tiễn. Vì vậy, cần bổ sung căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung của Hội đồng xét xử vào BLTTHS. Chẳng hạn, cần có quy phạm dẫn chiếu căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung tại Điều 179 BLTTHS vào quy định về thẩm quyền yêu cầu điều tra bổ sung của Hội đồng xét xử và bổ sung thêm những căn cứ phù hợp với tính chất của phiên tòa sơ thẩm.

Thứ ba, các căn cứ yêu cầu điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố, xét xử chưa phù hợp với chức năng của Viện kiểm sát, Tòa án

Trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu điều tra bổ sung, theo quy định tại Điều 168 BLTTHS thì khi có 01 trong 03 căn cứ quy định từ khoản 1 đến khoản 3 Điều 168 thì Viện kiểm sát được ban hành quyết định yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung. Trong các căn cứ mà Điều 168 BLTTHS quy định, căn cứ “Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được” tại khoản 1 Điều 168 BLTTHS là chưa phù hợp với chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra. Bởi vì, bên cạnh thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, BLTTHS còn quy định Viện kiểm sát còn thực hiện việc kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra. Theo quy định tại khoản 2 Điều 112 BLTTHS thì, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có quyền đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS và khoản 4 Điều 113 BLTTHS quy định, khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra.

Về phía trách nhiệm của Cơ quan điều tra khi có yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, Điều 114 BLTTHS quy định, “Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát. Đối với những yêu cầu và quyết định quy định tại các điểm 4, 5 và 6 Điều 112 của Bộ luật này, nếu không nhất trí, Cơ quan điều tra vẫn phải chấp hành, nhưng có quyền kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp…”. Như vậy, khi Viện kiểm sát thực hiện thẩm quyền được quy định tại khoản 2 Điều 112 và khoản 4 Điều 113 BLTTHS thì Cơ quan điều tra phải tuyệt đối chấp hành dù có nhất trí hay không mà không được kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.

Theo quy định của BLTTHS về hoạt động điều tra và tiến trình cải cách tư pháp gắn hoạt động công tố với điều tra thì hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra phục vụ hoạt động công tố của Viện kiểm sát mà trực tiếp là việc truy tố người phạm tội ra trước phiên tòa. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát có nhiều hạn chế. Một trong những nguyên nhân chính là việc quy định quyền của Viện kiểm sát yêu cầu điều tra bổ sung khi “Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được” được quy định tại khoản 1 Điều 168 BLTTHS. Bởi vì, quy định này một mặt giúp Viện kiểm sát khắc phục các sai sót mà Cơ quan điều tra gặp phải khi tiến hành thu thập không đầy đủ các tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa đối với vụ án. Mặc khác, quy định này còn làm cho Viện kiểm sát lơ là, không xem trọng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn điều tra dẫn đến việc tạo sự ỷ lại của Cơ quan điều tra khi mà các sai sót của mình có thể khắc phục trong giai đoạn truy tố.

Chúng tôi cho rằng, quy định của BLTTHS hiện hành về quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra là rất lớn. Với việc quy định thêm quyền hạn cho Viện kiểm sát được yêu cầu điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ quan trọng trong giai đoạn truy tố  vô hình trung sẽ làm hạn chế quy định thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra. Để khắc phục hạn chế này, cần bỏ quy định Viện kiểm sát được yêu cầu điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ quan trọng quy định tại khoản 1 Điều 168 BLTTHS trong giai đoạn truy tố.

Đối với thẩm quyền yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa), có ý kiến cho rằng bên cạnh yếu tố tích cực, có nhiều trường hợp, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đã lạm dụng quy định về yêu cầu điều tra bổ sung của Toà án để tăng thêm thời hạn điều tra của vụ án khi vụ án đã gia hạn hết thời hạn điều tra, truy tố được quy định tại Điều 119 và Điều 166 BLTTHS nhưng vẫn chưa đủ chứng cứ vững chắc. Khi Toà án trả hồ sơ thì Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra sẽ có thêm thời hạn điều tra tiếp nhất là đối với những trường hợp do khó khăn khách quan nên chưa thể kết thúc vụ án trọn vẹn. Một số trường hợp còn do mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không tốt nên khi phát hiện có căn cứ yêu cầu điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố, thay vì tự mình ban hành quyết định yêu cầu điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát lại thực hiện thủ tục truy tố chuyển hồ sơ sang Tòa án để Tòa án quyết định việc trả hồ sơ điều tra bổ sung. Từ đó, đề nghị nghiên cứu để bỏ quy định “Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung” tại Điều 179 BLTTHS.[3]

Chúng tôi cho rằng, với trách nhiệm làm rõ sự thật của vụ án của Tòa án cùng với các cơ quan tiến hành tố tụng khác thì việc duy trì thẩm quyền yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án là phù hợp. Tuy nhiên, trường hợp Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cần sửa đổi cho phù hợp. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nhiệm vụ quan trọng nhất của Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa là chuẩn bị các công việc phục vụ việc mở phiên tòa (như: dự thảo bản án và chuẩn bị các công việc cần thiết khác). Về nguyên tắc, các vấn đề liên quan đến nội dung vụ án chỉ được xem xét tại phiên tòa và do Hội đồng xét xử quyết định. Với việc quy định Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử được yêu cầu điều tra bổ sung “khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được” như quy định tại điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS là chưa phù hợp. Bởi vì, khi đó, Thẩm phán phải tự dự trù tình tiết cần chứng minh có thể làm rõ tại phiên tòa hay không. Trong khi phiên tòa chưa diễn ra thì sự dự trù của Thẩm phán chỉ tương đối và không có căn cứ vững chắc. Cho nên, cần bỏ quy định Thẩm phán được trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử khi thiếu chúng cứ quan trọng mà cần dành quyền này cho Hội đồng xét xử để đảm bảo tính khách quan, tránh sự suy luận thiếu căn cứ thực tế của Thẩm phán.

Thứ tư, trường hợp Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung

Thực tiễn có quan điểm khác nhau về việc tại phiên tòa khi thấy có căn cứ yêu cầu điều tra bổ sung, Kiểm sát viên sẽ đề nghị Hội đồng xét xử ban hành quyết định yêu cầu điều tra bổ sung. Có ý kiến cho rằng, bắt buộc Hội đồng xét xử phải xem xét. Ý kiến khác lại cho rằng, không cần xem xét vì BLTTHS không quy định thẩm quyền của Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung.[4] Chúng tôi cho rằng, theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, việc Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ điều tra bổ sung khi phát hiện chứng cứ trong hồ sơ chưa đủ để làm rõ các vấn đề cần chứng minh trong vụ án là không đúng nhiệm vụ của Kiểm sát viên (đại diện Viện kiểm sát) tại phiên tòa.

Tuy nhiên, với chức năng của Tòa án và chức năng của Viện kiểm sát cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên tại phiên tòa, chúng tôi cho rằng, cần trao quyền đề nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát và Hội đồng xét xử chỉ xem xét chứ không được tự mình ban hành quyết định yêu cầu điều tra bổ sung như quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành.

Thứ năm, đối với căn cứ Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung khi có căn cứ bị cáo phạm tội khác tại điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS

Do BLTTHS quy định chưa rõ ràng nên dẫn đến việc có ý kiến cho rằng quy định tại Điều 196 BLTTHS về giới hạn của việc xét xử đã thủ tiêu quy định về yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án đối với căn cứ tại điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS[5].

Chúng ta thấy rằng, điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS quy định Tòa án có quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung “khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác”. Tuy nhiên, đoạn 2 Điều 196 BLTTHS quy định “Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố”.

Như vậy, khi có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác nhưng nếu tội đó bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án không trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung mà vẫn tiến hành xét xử. Còn trường hợp tội đó nặng hơn tội mà Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án phải trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Cho nên, quy định tại Điều 196 BLTTHS không thủ tiêu quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS. Tuy nhiên, để khắc phục hạn chế này, điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS cần sửa đổi, bỏ sung theo hướng, cần loại trừ trường hợp khi có căn cứ xác định hành vi của bị cáo phạm tội khác với tội Viện kiểm sát truy tố nhưng thuộc giới hạn xét xử của Tòa án.

2.5. Về số lần yêu cầu điều tra bổ sung

Khoản 2 Điều 121 BLTTHS quy định, “Trong trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng; Nếu do Tòa án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá một tháng. Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra”.

Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, thẩm quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án diễn ra trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa được quy định tại Điều 176 và Điều 199 BLTTHS nên có 02 quan điểm khác nhau về số lần yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án. Ý kiến thứ nhất cho rằng, quy định về số lần yêu cầu điều tra bổ sung tại khoản 2 Điều 121 BLTTHS chỉ áp dụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử mà không áp dụng đối với việc yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa. Ý kiến khác lại cho rằng, việc yêu cầu điều tra bổ sung dù trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hay tại phiên tòa đều không vượt quá 2 lần vì quy định tại khoản 2 Điều 121 BLTTHS là “Tòa án chỉ được trả” chứ không phải là Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa hay Hội đồng xét xử.

Theo chúng tôi, tính chất giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa là khác nhau. Với việc các tài liệu, chứng cứ chỉ được xem xét đầy đủ tại phiên tòa thì việc giới hạn số lần yêu cầu điều tra bổ sung của Hội đồng xét xử là không phù hợp. Ngược lại, giai đoạn chuẩn bị xét xử chỉ nhằm phục vụ cho phiên tòa được diễn ra thuận lợi. Vì vậy, để tránh kéo dài việc giải quyết vụ án không cần thiết và hạn chế suy diễn chủ quan của Thẩm phán trong quá trình nghiên cứ hồ sơ về các căn cứ yêu cầu điều tra bổ sung thì việc giới hạn số lần yêu cầu điều tra bổ sung của Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là phù hợp.

Tuy nhiên, để hạn chế việc kéo dài thời gian giải quyết vụ án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng thì cần giới hạn nội dung yêu cầu điều tra bổ sung của Hội đồng xét xử không bao gồm những nội dung đã được yêu cầu điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.

2.6. Về thời hạn, trình tự thủ tục tiến hành điều tra bổ sung và việc áp dụng biện pháp ngăn chặn khi tiến hành điều tra bổ sung

Thứ nhất, quy định về thời gian điều tra bổ sung không rõ nên gây khó khăn trong việc áp dụng

Khoản 2 Điều 121 BLTTHS quy định: “Trong trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng; nếu do Toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá một tháng. Viện kiểm sát hoặc Toà án chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần...”. Với quy định này dễ tạo ra cách hiểu, hoặc là mỗi lần điều tra bổ sung là 02 tháng (do Viện kiểm sát trả hồ sơ), 01 tháng (trường hợp Tòa án trả hồ sơ); hoặc là thời gian điều tra bổ sung cố định là 02 tháng (trường hợp Viện kiểm sát trả), 01 tháng (trường hợp Tòa án trả) dù cho trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung 01 lần hay 02 lần.

Để khắc phục hạn chế này, khoản 2 Điều 121 BLTTHS cần được quy định rõ thời gian điều tra bổ sung 01 tháng, 02 tháng chỉ áp dụng cho 01 lần yêu cầu điều tra bổ sung.

Ngoài ra, quy định thời hạn điều tra bổ sung áp dụng chung cho tất cả các loại tội phạm là 01 tháng (trường hợp Tòa án yêu cầu) và 02 tháng (trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu) cũng không phù hợp. Bởi vì, việc điều tra bổ sung từng loại tội (ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng) là khác nhau. Chúng tôi cho rằng thời hạn điều tra bổ sung hiện nay chỉ nên áp dụng cho tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng. Đối với tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng thì tăng gấp đôi thời hạn điều tra bổ sung so với tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng. Bên cạnh đó, cần quy định việc gia hạn thời hạn điều tra bổ sung trong trường hợp các vụ án phức tạp như hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 Mục 1 Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP[6]. Có thể quy định việc gia hạn thời hạn điều tra bổ sung 01 lần bằng một nửa thời hạn điều tra bổ sung được kiến nghị bên trên.

Thứ hai, cách tính thời hạn điều tra bổ sung cũng chưa đảm bảo

Chúng ta thấy rằng, theo khoản 2 Điều 121 BLTTHS thì, “Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra”.

Bên cạnh đó, theo khoản 1 Điều 17 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự được ban hành kèm theo Quyết định số 960/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì “Khi Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ các nội dung Toà án yêu cầu điều tra bổ sung. Nếu thấy có căn cứ thì báo cáo lãnh đạo Viện để Viện kiểm sát trực tiếp điều tra bổ sung hoặc ra quyết định trả hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra tiến hành điều tra theo quy định tại Điều 168 BLTTHS.”

Với quy định trên cùng thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự thấy rằng, không phải mọi trường hợp Tòa án có văn bản yêu cầu điều tra bổ sung thì Cơ quan điều tra thực hiện việc điều tra bổ sung mà có thể là Viện kiểm sát thực hiện[7]. Với quy định thời hạn tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận hồ sơ vụ án sẽ bỏ sót quy định trong trường hợp Viện kiểm sát điều tra mà không chuyển cho Cơ quan điều tra.

Để khắc phục vướng mắc này, cần bổ sung vào khoản 2 Điều 121 BLTTHS thời điểm tính thời hạn điều tra bổ sung trong trường hợp Viện kiểm sát thực hiện việc điều tra bổ sung kể từ ngày Viện kiểm sát nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra bổ sung bên cạnh quy định việc tính thời gian điều tra bổ sung khi Cơ quan điều tra thực hiện việc điều tra bổ sung.

Thứ ba, trường hợp quy định việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong thời gian điều tra bổ sung cũng chưa phù hợp

Khoản 4 Điều 121 BLTTHS quy định, khi điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra có quyền áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS. Trong trường hợp có căn cứ theo quy định của BLTTHS cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để điều tra bổ sung không được quá thời hạn điều tra bổ sung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 121 BLTTHS.

Với bất cập trong việc không quy định Viện kiểm sát điều tra bổ sung nên BLTTHS cũng không quy định việc Viện kiểm sát là chủ thể có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi tiến hành điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án. Thiếu sót này gây ra bất cập khi Viện kiểm sát tiến hành điều tra bổ sung nhưng thời hạn tạm giam đã hết hoặc có căn cứ áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn nhưng Viện kiểm sát không áp dụng mà phải đề nghị Cơ quan điều tra thực hiện.

Để khắc phục hạn chế này, kiến nghị bổ sung Viện kiểm sát là chủ thể có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn vào khoản 4 Điều 121 BLTTHS bên cạnh Cơ quan điều tra.

Thứ tư, việc phát sinh căn cứ đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án (trường hợp Viện kiểm sát tiến hành điều tra bổ sung), đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra (trường hợp Cơ quan điều tra tiến hành điều tra bổ sung) trong thời hạn điều tra bổ sung cũng chưa được quy định chi tiết

Trường hợp Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung, khoản 2 Điều 179 BLTTHS quy định: “Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết”. Như vậy, điều luật chỉ quy định trường hợp khi có căn cứ đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát được ban hành quyết định đình chỉ vụ án mà không đề cập các trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án và không đề cập đến việc trong trường hợp Cơ quan điều tra thực hiện thủ tục điều tra mà có căn cứ tạm đình chỉ điều tra (Điều 160 BLTTHS), căn cứ đình chỉ điều tra (Điều 164 BLTTHS).

Trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu điều tra bổ sung, BLTTHS cũng không quy định trong thời gian điều tra bổ sung thì Cơ quan điều tra có quyền tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra khi có căn cứ quy định tại Điều 160, 164 BLTTHS hay không.

Chúng tôi cho rằng, quy định của BLTTHS hiện hành về việc Viện kiểm sát đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án và về việc Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra khi điều tra bổ sung là chưa đầy đủ. Để khắc phục hạn chế trên, hoặc là quy định đầy đủ về thẩm quyền của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra đối với việc đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án (trường hợp Viện kiểm sát tiến hành điều tra bổ sung), đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra (trường hợp Cơ quan điều tra tiến hành điều tra bổ sung); hoặc là quy định dẫn chiếu thẩm quyền của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra khi có căn cứ đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án như trong thủ tục truy tố; đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra như trong quy định về giai đoạn điều tra khi Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra tiến hành điều tra bổ sung.

Thứ năm, về cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra bổ sung

Theo các quy định của BLTTHS thì thẩm quyền tiến hành điều tra bổ sung là Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra. Tuy nhiên, thẩm quyền điều tra theo quy định của BLTTHS không chỉ do Cơ quan điều tra tiến hành. Theo quy định tại Điều 111 BLTTHS, ngoài Cơ quan điều tra, việc điều tra trước khi chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát truy tố còn được các cơ quan gồm: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển. Đó là trường hợp, tội phạm ít nghiêm trọng, phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng (điểm a khoản 1 Điều 111 BLTTHS). Trường hợp các cơ quan này điều tra rồi chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát truy tố, nếu khi có căn cứ yêu cầu điều tra bổ sung mà Viện kiểm sát chuyển cho Cơ quan điều tra thực hiện thủ tục điều tra (kể cả trường hợp Viện kiểm sát trả trong giai đoạn truy tố và trường hợp Tòa án trả mà Viện kiểm sát không đủ điều kiện thực hiện được yêu cầu của Tòa án) sẽ gây khó khăn cho Cơ quan điều tra tiến hành điều tra bổ sung theo yêu cầu.

Chúng tôi cho rằng, do Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển là các cơ quan thực hiện toàn bộ công tác điều tra nên họ sẽ nắm rõ hồ sơ vụ án. Vì vậy, nếu chỉ quy định Cơ quan điều tra khắc phục các sai phạm theo yêu cầu của Viện kiểm sát, Tòa án là không phù hợp.

Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần bổ sung vào khoản 2 Điều 121 BLTTHS nội dung: “…Trường hợp vụ án do Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển thực hiện hoạt động điều tra chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát truy tố thì Cơ quan điều tra phải phối hợp với Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển thực hiện thủ tục điều tra bổ sung”.

Thứ sáu, về trách nhiệm của Cơ quan điều tra khi không thực hiện yêu cầu điều tra bổ sung của Viện kiểm sát và trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong việc không thực hiện yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án.

BLTTHS quy định nhiệm vụ thực hiện yêu cầu điều tra bổ sung nhưng lại không quy định chế tài đối với cơ quan tiến hành tố tụng được yêu cầu điều tra bổ sung nên dẫn đến việc hồ sơ phải trả đi trả lại nhiều lần, kéo dài thời gian giải quyết vụ án khi cơ quan được yêu cầu điều tra bổ sung nhưng không thực hiện hết trách nhiệm của mình hoặc có thực hiện nhưng qua loa rồi chuyển lại hồ sơ cho cơ quan yêu cầu điều tra bổ sung. Đây là hạn chế cần khắc phục khi sửa đổi, bổ sung BLTTHS nhằm phát huy giá trị của chế định yêu cầu điều tra bổ sung mà BLTTHS quy định.

Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 179 BLTTHS quy định, “Trong trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu bổ sung và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án”. Nếu bản án của Tòa án cấp sơ thẩm bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy thì Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa sẽ bị xem xét trách nhiệm, trong khi Kiểm sát viên, Điều tra viên (những người có trách nhiệm trong việc ra điều tra bổ sung nhưng không thực hiện hết trách nhiệm của mình) lại chẳng bị xử lý.

2.7. Về việc thực hiện trình tự, thủ tục tụng sau khi có kết quả điều tra sung bổ

Thứ nhất, về thời hạn chuẩn bị xét xử sau khi có kết quả điều tra bổ sung trong trường hợp Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử 

Khoản 2 Điều 176 BLTTHS có quy định: “Đối với vụ án được trả lại để điều tra bổ sung thì trong thời hạn mười lăm ngày sau khi nhận lại hồ sơ, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử”. Quy định này nhằm tránh kéo thời giải quyết vụ án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác. Tuy nhiên, trong một số trường hợp vụ án phức tạp (như: trường hợp có quan điểm đánh giá khác nhau còn cần phải thống nhất ý kiến hoặc trong những trường hợp từ việc điều tra bổ sung sẽ xuất hiện thêm tình tiết cần làm rõ…), để đánh giá kết quả điều tra bổ sung có đảm bảo hay không cần nhiều thời gian. Nếu buộc trong hạn 15 ngày khi nhận lại hồ sơ vụ án Tòa án phải mở phiên tòa có khi vô tình kéo dài thời gian. Bởi vì, Tòa án chỉ có thể trả hồ sơ đợi khi phiên tòa diễn ra mới được trả hồ sơ. Trong khi nếu kéo dài thời gian có thể Tòa án sẽ trả hồ sơ ngay, không cần đợi đến phiên tòa mới trả hồ sơ. Ngoài ra, thời gian kéo dài sẽ giúp Thẩm phán nghiên cứu các tình tiết yêu cầu bổ sung và những tình tiết mới chặt chẽ, có thể khắc phục trước khi mở phiên tòa.

Vì vậy, kiến nghị cần kéo dài thêm thời gian mở lại phiên tòa khi có kết quả điều tra bổ sung. Cụ thể, đối với tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng thì thời hạn ra quyết định đưa vụ án ra xét xử là 30 ngày. Đối với tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thời hạn ra quyết định đưa vụ án ra xét xử là 2 tháng kể từ ngày Tòa án nhận lại hồ sơ vụ án.

Thứ hai, về thời hạn truy tố sau khi có kết quả điều tra bổ sung

Không giống như trường hợp Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, việc Viện kiểm sát trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố không được BLTTHS quy định rõ thời hạn truy tố của Viện kiểm sát sẽ tính như thế nào. Thực tiễn hiện nay, Viện kiểm sát vẫn áp dụng quy định về thời hạn truy tố được BLTTHS quy định tại Điều 166 để tiến hành các thủ tục truy tố bị can ra trước Tòa án.

Chúng tôi cho rằng, trong trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn truy tố cần được rút ngắn hơn so với thời hạn được quy định tại Điều 166 BLTTHS. Trong trường hợp này cần xem xét rút ngắn chỉ một nửa thời hạn truy tố được quy định tại Điều 166 BLTTHS tương ứng với từng loại tội phạm để hạn chế việc kéo dài thời gian giải quyết vụ án.

Thứ ba, thủ tục tố tụng thực hiện tiếp theo sau khi Tòa án nhận kết quả điều tra bổ sung trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu điều tra bổ sung

Theo đoạn cuối khoản 2 Điều 176 BLTTHS quy định, “Đối với vụ án được trả lại để điều tra bổ sung thì trong thời hạn mười lăm ngày sau khi nhận lại hồ sơ, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử” và tại điểm 1.2.2 tiểu mục 1.2 Mục 1 Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP thì “Trong trường hợp Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì thời hạn chuẩn bị xét xử kết thúc vào ngày ra quyết định…”. Tuy nhiên, trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn giải quyết vụ án và thời gian mở phiên tòa tiến hành như thế nào cũng chưa được quy định rõ.

Có ý kiến cho rằng, theo quy định tại khoản 2 Điều 199 BLTTHS thì quyết định yêu cầu điều tra bổ sung của Hội đồng xét xử phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản. Bên cạnh đó, Điều 194 BLTTHS quy định, “Trong trường hợp phải hoãn phiên tòa theo quy định tại các điều 45, 46, 47, 187, 189, 190, 191, 192 và 193 của Bộ luật này, thì thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm không được quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa”. Có thể thấy, các trường hợp phải hoãn phiên tòa được liệt kê tại Điều 194 BLTTHS không có dẫn chiếu quy định tại Điều 199 BLTTHS. Hơn nữa, nếu có hoãn phiên tòa thì quy định thời hạn hoãn phiên tòa không quá 30 ngày mà Điều 194 BLTTHS quy định cũng không đảm bảo vì thời hạn điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án là không quá 01 tháng tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận hồ sơ. Việc chuyển hồ sơ từ Tòa án sang Viện kiểm sát và từ Viện kiểm sát sang Cơ quan điều tra cũng tốn thời gian nên sẽ vi phạm thời hạn hoãn phiên tòa theo Điều 194 BLTTHS.

Chúng tôi cho rằng, bản chất của việc yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa và việc trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là khác nhau. Khi phiên tòa đã được mở thì về nguyên tắc, vụ án phải được giải quyết (kết quả bằng bản án, quyết định đình chỉ…) hoặc hoãn phiên tòa. Vì vậy, không thể áp dụng tương tự tại Điều 176 BLTTHS về việc ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử mới khi nhận lại hồ sơ sau khi điều tra bổ sung xong. Trong trường hợp có kết quả điều tra bổ sung thì phiên tòa sẽ được tiếp tục như khi thủ tục tố tụng phát sinh căn cứ yêu cầu điều tra bổ sung. Chẳng hạn, nếu trong giai đoạn xét hỏi mà phát sinh căn cứ yêu cầu điều tra bổ sung thì khi nhận lại hồ sơ từ Viện kiểm sát, phiên tòa sẽ tiếp tục thủ tục xét hỏi.

Vì vậy, cần bổ sung vào BLTTHS quy định về việc hoãn phiên tòa trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu điều tra bổ sung; việc tiếp tục phiên tòa khi có kết quả điều tra bổ sung; thời hạn hoãn phiên tòa trong trường hợp này.

3. Một vài kiến nghị hoàn thiện

Để khắc phục các vướng mắc, bất cập được phân tích bên trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đền yêu cầu điều tra bổ sung như sau:

Thứ nhất, đối với các quy định liên quan đến điều tra bổ sung, chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung các khoản 2, 4 Điều 121 BLTTHS như sau:

“Điều 121. Thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại

1. …

2. Trong trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung mỗi lần không quá hai tháng đối với tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng; nếu do Toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung mỗi lần không quá một tháng đối với tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, không quá hai tháng đối với tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng. Viện kiểm sát hoặc Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra.

Đối với những vụ án phức tạp thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có quyền gia hạn một lần với thời hạn bằng một nửa thời hạn điều tra bổ sung mỗi lần.

Khi Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ các nội dung Toà án yêu cầu điều tra bổ sung. Nếu thấy các yêu cầu đó Viện kiểm sát có thể bổ sung, khắc phục thì Viện kiểm sát trực tiếp điều tra bổ sung. Nếu các yêu cầu đó chỉ có Cơ quan điều tra mới thực hiện được thì Viện kiểm sát đề ra chiến lược điều tra bổ sung và chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra tiến hành điều tra theo quy định pháp luật.

Trong thời hạn điều tra bổ sung nếu có căn cứ đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ban hành quyết định. Nếu Cơ quan điều tra thực hiện mà có căn cứ đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra thì Cơ quan điều tra quyết định nhưng phải báo cho Viện kiểm sát biết trước khi ban hành quyết định.

Trường hợp vụ án do Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển thực hiện hoạt động điều tra chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát truy tố thì Cơ quan điều tra phải phối hợp với Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển thực hiện thủ tục điều tra bổ sung.

3. ...

4. …

Trường hợp Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có quyền áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn như trường hợp Cơ quan điều tra thực hiện.

Thứ hai, đối với quy định liên quan đến việc Viện kiểm sát trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố, chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 168 BLTTHS như sau:

“Điều 168. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung

Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện thấy:

1. Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được;

2. Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác;

3. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Những vấn đề cần được điều tra bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định yêu cầu điều tra bổ sung.

4. Trong thời hạn mười ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được kết quả điều tra bổ sung, Viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định được quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 166 Bộ luật này.”

Đối với thẩm quyền ban hành quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố, kiến nghị bỏ thẩm quyền “quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung” của Viện trưởng Viện kiểm sát được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 36 BLTTHS và bổ sung thẩm quyền này cho Kiểm sát viên vào quy định tại khoản 1 Điều 37 BLTTHS.

Thứ ba, đối với quy định liên quan đến việc Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung đoạn cuối khoản 2 Điều 176 BLTTHS như sau:

“Đối với vụ án được trả lại để điều tra bổ sung thì trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, hai tháng đối với tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng sau khi nhận lại hồ sơ, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử”.

Đồng thời, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 179 BLTTHS với những nội dung sau:

“Điều 179. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung

1. Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung trong những trường hợp sau đây:

a) Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;

b) Khi có căn cứ để cho rằng bị can, bị cáo phạm một tội khác không thuộc giới hạn xét xử của Tòa án tại Điều 196 Bộ luật này hoặc có đồng phạm khác;

c) Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Những vấn đề cần điều tra bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định yêu cầu điều tra bổ sung.

2. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết.

…”

Thứ tư, để khắc phục hạn chế đối với thẩm quyền yêu cầu điều tra bổ sung của Hội đồng xét xử, kiến nghị bổ sung vào BLTTHS Điều 199a với nội dung như sau:

Điều 199a. Quyết định yêu cầu điều tra bổ sung của Hội đồng xét xử

Khi có một trong các căn cứ quy định tại điểm b, c khoản 1 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử phải ban hành quyết định yêu cầu điều tra bổ sung và hoãn phiên tòa.

Trong trường hợp cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được thì Hội đồng xét xử chỉ quyết định yêu cầu điều tra bổ sung theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa nếu yêu cầu đó có căn cứ.

Hội đồng xét xử chuyển quyết định yêu cầu điều tra bổ sung cùng tài liệu có liên quan đến Viện kiểm sát để thực hiện thủ tục điều tra bổ sung theo quy định.

Số lần yêu cầu điều tra bổ sung của Hội đồng xét xử không bị giới hạn nhưng nội dung yêu cầu điều tra bổ sung phải ngoài các nội dung đã được trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.

Sau khi có kết quả điều tra bổ sung, phiên tòa được tiếp tục tiếp với phần thủ tục bị hoãn”.

Bên cạnh đó, Điều 194 BLTTHS được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Trong trường hợp phải hoãn phiên tòa theo quy định tại các điều 45, 46, 47, 187, 189, 190, 191, 192, 193 và 199a của Bộ luật này, thì thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm không được quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa.

Riêng trường hợp hoãn phiên tòa theo quy định tại Điều 199a Bộ luật này thì không áp dụng thời hạn”.

Thứ năm, để nâng cao trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong việc thực hiện yêu cầu điều tra bổ sung của Viện kiểm sát, Tòa án thì cần bổ sung vào BLTTHS trách nhiệm của Kiểm sát viên, Điều tra viên khi không thực hiện hoặc thực hiện không hết trách nhiệm yêu cầu điều tra bổ sung của Viện kiểm sát, Tòa án.

Chế định yêu cầu điều tra bổ sung được quy định trong BLTTHS góp phần khắc phục các vi phạm tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng ở giai đoạn tố tụng trước nhằm hạn chế việc xét xử oan sai, bỏ lọt tội phạm, bảo vệ quyền con người mà trực tiếp là quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, tránh việc kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Qua thời gian áp dụng, một số quy định đã tỏ ra lạc hậu. Vì vậy, với những hạn chế, bất cập được trình bày và đề xuất hoàn thiện của bài viết sẽ góp phần vào việc hoàn thiện chế định yêu cầu điều tra bổ sung trong lần sửa đổi, bổ sung BLTTHS tới đây.

 Ths. Thái Chí Bình


[1] Thuật ngữ “yêu cầu điều tra bổ sung” bao gồm trường hợp “trả hồ sơ điều tra bổ sung” và “yêu cầu điều tra bổ sung”.

[2] Xem: Tiểu mục 1.2 mục 1 Phần I Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của BLTTHS năm 2003 (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 04/2004).

[3] Xem: Mai Văn Lư, Cần xem xét lại quy định Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong quan hệ với việc tăng cường tính khách quan, sự độc lập của hoạt động xét xử, Tạp chí Kiểm sát số 6/2008.

[4]http://www.toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/Baiviet?p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&item_id=22561011&article_details=1

[5] http://tapchikiemsat.org.vn/?mod=viewtopic&parent_id=109&id=960

[6] Đó là một trong các trường hợp: (1) Vụ án có nhiều bị can, phạm tội có tổ chức hoặc phạm nhiều tội; (2) Vụ án liên quan đến nhiều lĩnh vực hoặc nhiều địa phương; (3) Vụ án có nhiều tài liệu, có các chứng cứ mâu thuẫn với nhau cần có thêm thời gian để nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc để tham khảo ý kiến của cơ quan chuyên môn.

[7] Như trường hợp, Cơ quan điều tra xác định đúng hành vi phạm tội nhưng Viện kiểm sát đánh giá không đúng nên truy tố sai. Khi đến giai đoạn xét xử, Tòa án xác định đúng như xác định của Cơ quan điều tra nên trả hồ sơ điều tra bổ sung (thực tế là để truy tố lại, truy tố bổ sung). Vì vậy, việc điều tra bổ sung sẽ do Viện kiểm sát thực hiện mà không phải Cơ quan điều tra.