Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là một chủ trương nhất quán của Đảng ta từ những năm 1990 của thế kỷ trước. Chủ trương này phúc đáp một nhu cầu thiết yếu trong việc hiện đại hóa xã hội, đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu trong bối cảnh toàn cầu hóa với việc thiết lập 3 trụ cột của một xã hội phát triển bền vững là (1) kinh tế thị trường, (2) xã hội dân chủ và (3) nhà nước pháp quyền, đồng thời giữ vững và phát huy một cách đúng mức vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nhà nước pháp quyền, theo cách hiểu chung của các học giả trên thế giới là nhà nước mà “mọi người, mọi tổ chức, bao gồm cả các cơ quan nhà nước, bất kể có cương vị ra sao trong xã hội, đều đặt mình dưới pháp luật và chịu sự điều chỉnh, phán xét của pháp luật.” Theo giải thích của kinh tế gia và luật gia được giải Nobel F. V. Hayek trong tác phẩm The Road to Serfdom (năm 1944) thì với nhà nước pháp quyền, “trong mọi hành động của nó đều phải chịu sự ràng buộc bởi các quy tắc cố định và đã được thông báo trước – các quy tắc mà là cho người ta có thể nhìn thấy trước một cách tương đối chắc chắn về cách mà quyền lực sẽ được sử dụng trong những tình huống nhất định và giúp cho cá nhân có thể lập kế hoạch cho riêng mình dựa trên sự hiểu biết về điều đó.” Theo Joseph Raz, một triết gia pháp luật nổi tiếng người Anh đương đại, thì nhà nước pháp quyền phải đáp ứng 8 tiêu chuẩn cơ bản là: (1) mọi quy phạm pháp luật đều không áp dụng hồi tố, công khai và rõ ràng; (2) pháp luật có tính ổn định tương đối; (3) quy trình làm ra quy phạm pháp luật phải được chỉ dẫn bởi những quy tắc chung, rõ ràng, ổn định và công khai; (4) hoạt động xét xử của tòa án là phải độc lập; (5) các nguyên tắc cơ bản của công lý tự nhiên phải được tôn trọng; (6) tòa án nên có thẩm quyền kiểm soát tư pháp đối với các nhánh quyền lực khác; (7) việc tiếp cận với tòa án của các đương sự phải dễ dàng; (8) quyền cân nhắc trong việc ra quyết định của các cơ quan phòng chống tội phạm không được để ở mức có thể bóp méo pháp luật.
Những quan niệm như vậy cũng được chia sẻ bởi nhiều học giả ở Việt Nam thể hiện trong hàng chục công trình, sách chuyên khảo xuất bản thời gian vừa qua (nhất là sau lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2001 có hiến định thuật ngữ “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”) mặc dù với đặc thù chính trị của Việt Nam, các nhà nghiên cứu thừa nhận nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có thêm thuộc tính chịu sự lãnh đạo của Đảng. Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà bài tham luận này đề cập được giải mã dựa trên những tiền đề nhận thức như vậy.
1. Giải mã quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền
Nhận thức cho đúng, cho sâu sắc về quyền tư pháp và cơ quan tư pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền không hề là vấn đề giản đơn.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, quan niệm một cách xác quyết rằng quyền lực nhà nước bao gồm 3 thứ quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp lần đầu tiên được xuất hiện trong tác phẩm Tinh thần pháp luật của Montesquieu [xuất bản lần đầu vào năm 1748]. Tại quyển XI của tác phẩm nổi tiếng này, Montesquieu đã giải thích quyền lập pháp là quyền «làm ra luật,…sửa đổi hay hủy bỏ luật [đã ban hành]», còn quyền hành pháp là quyền «quyết định việc hòa hay chiến, gửi đại sứ đi các nước, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược», còn quyền tư pháp là quyền «trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân». Nếu coi việc trừng trị tội phạm chính là việc giải quyết một tranh chấp công giữa nhà nước và người phạm tội thì có thể nói gọn lại, trong quan niệm của Montesquieu, quyền tư pháp chính là quyền xét xử các tranh chấp giữa các chủ thể pháp lý trong xã hội. Đây là quyền áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan để xác định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, hậu quả pháp lý của các bên tham gia tranh chấp dựa trên những tình tiết khách quan của vụ việc. Thông qua việc thực hiện quyền tư pháp, pháp luật được áp dụng, tôn trọng và chấp hành bởi các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Nói cách khác, một trong những “đầu vào” khi thực hiện quyền tư pháp chính là pháp luật - sản phẩm của quyền lập pháp. Việc thực hiện quyền tư pháp chính là một trong những cách hữu hiệu để quyền lập pháp mang giá trị xã hội đích thực và được tôn trọng về mặt thực tế.
Quan niệm kể trên cũng được chia sẻ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Chẳng hạn, theo định nghĩa của cuốn từ điển nổi tiếng thế giới (Black’s Law Dictionary), quyền tư pháp (judicial power) là «thẩm quyền được trao cho tòa án và các thẩm phán xem xét và quyết định các vụ việc và đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các vụ việc ấy; quyền giải thích và áp dụng pháp luật khi có tranh cãi phát sinh từ việc một điều gì đó có phù hợp hay không phù hợp với pháp luật điều chỉnh việc ấy.”
Ở Việt Nam, theo nhiều nhà nghiên cứu, quyền tư pháp được định nghĩa là «quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động, hành chính.»
Như vậy, tuy đi vào câu chữ cụ thể, quan niệm về quyền tư pháp của Montesquieu cũng như ở các nước với quan niệm về quyền tư pháp mà các học giả Việt Nam sử dụng có thể có sự khác biệt nhất định, nhưng về cơ bản, các quan niệm này đều thống nhất với nhau rằng, quyền tư pháp là quyền xét xử các tranh chấp pháp lý dựa trên các quy định của pháp luật. Các tranh chấp này có thể chỉ là giữa người dân hoặc tổ chức do người dân lập ra (như doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức xã hội v.v.) với nhau nhưng đó cũng có thể là tranh chấp giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc tranh chấp giữa cơ quan nhà nước với người dân, tổ chức do người dân lập nên.
Quyền tư pháp có 3 đặc điểm chính sau đây:
- Đặc điểm về mặt pháp lý: Quyền tư pháp chính là quyền đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành của cơ quan công quyền (mà cụ thể là tòa án) về tính đúng/sai, hợp pháp/bất hợp pháp của một hành vi nhất định. Cơ sở pháp lý của việc thực hiện quyền tư pháp (để tòa án ra phán quyết) chính là pháp luật và chỉ là pháp luật. Sản phẩm của việc thực hiện quyền tư pháp là các phán quyết có hiệu lực pháp luật của tòa án, buộc mọi cá nhân, tổ chức, trong đó có cả các cơ quan nhà nước phải tuân thủ và chấp hành. Quyền tư pháp, vì vậy, chính là quyền buộc hành vi của các bên tranh chấp phải chịu sự phán xét của pháp luật. Thực hiện quyền tư pháp (xét xử) là một dạng của hoạt động áp dụng pháp luật và thông qua đó, pháp luật được tôn trọng và bảo vệ (có lẽ chính từ điều này mà nhiều khi không ít người đã đồng nhất một cách chưa chính xác hoạt động tư pháp với hoạt động bảo vệ pháp luật). Quyền tư pháp, vì vậy, cũng chính là quyền buộc các chủ thể trong xã hội phải đặt mình dưới pháp luật, thượng tôn pháp luật. Nói cách khác, pháp luật, thông qua cơ quan thực hiện quyền tư pháp (tòa án), mà bộc lộ, để lại dấu ấn và tác động vào đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Cơ quan thực hiện quyền tư pháp (tòa án) chính là nơi pháp luật bộc lộ một cách rõ nét nhất và cũng là nơi mà pháp luật hóa thân. Các phán quyết của cơ quan thực hiện quyền tư pháp (tòa án) là những thông điệp rõ nhất mà pháp luật muốn chuyển tải tới các tổ chức, cá nhân, cơ quan nhà nước trong xã hội. Người thực hiện quyền tư pháp (thẩm phán/hội thẩm tiến hành giải quyết vụ tranh chấp) chính là thực thể sống mà thông qua đó pháp luật hiện hữu và tác động lên các bên tranh chấp.
Ở Việt Nam, đã từng có tranh luận về việc khi tuyên án, tòa án nên nhân danh ai hoặc nhân danh cái gì để ra phán quyết. Có ý kiến cho rằng cách tòa án tuyên bố như hiện nay (là nhân danh nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là chưa hợp lý, mà đáng lẽ ra phải tuyên bố là nhân danh công lý. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, tòa án là một trong những thiết chế mà thông qua đó, pháp luật được hóa thân và hiện hữu một cách đầy đủ nhất. Do trong thực tế, khái niệm “pháp luật” và “công lý” không nhất thiết luôn đồng nhất, nên sẽ là hợp lý hơn nếu quan niệm rằng phán quyết của tòa án là thứ phán quyết nhân danh pháp luật, lấy pháp luật là cơ sở tối thượng để hình thành nên các phán quyết của mình.
- Đặc điểm về mặt xã hội: Với ý nghĩa là quyền giải quyết các tranh chấp pháp lý, quyền tư pháp, khi được thực hiện một cách đúng đắn hướng tới mục tiêu làm dịu hoặc giải tỏa những mâu thuẫn, căng thẳng trong xã hội, giúp xã hội phát triển một cách bền vững, hòa bình, trật tự, theo định hướng mà pháp luật theo đuổi. Đây chính là thiên chức “dập lửa” và cũng là bản chất nhân văn của quyền tư pháp trong một xã hội hiện đại. Theo nghĩa đó, khi thực hiện quyền tư pháp mà làm cho xã hội thêm bất công, các bên tham gia vụ tranh chấp thêm mất niềm tin vào trật tự pháp lý, thì cũng có nghĩa quyền tư pháp đã không được thực hiện theo đúng thiên chức của mình.
- Đặc điểm về mặt kỹ thuật tư duy: Thực hiện quyền tư pháp (xét xử) là một quá trình tòa án (những người có thẩm quyền xét xử) ra quyết định để giải quyết các vấn đề của xã hội biểu hiện ở các tranh chấp về quyền lợi pháp luật đã ghi nhận cho các bên. Quá trình ra quyết định này khá đặc biệt so với các quá trình ra quyết định của các cơ quan lập pháp hoặc cơ quan hành pháp. Trong quy trình ra quyết định này, chất lượng của quyết định không chỉ phụ thuộc vào năng lực chuyên môn của người ra quyết định (thẩm phán, hội thẩm), mà còn phụ thuộc vào lượng và chất lượng thông tin mà các bên tham gia tranh chấp cung cấp cho tòa án. Thêm vào đó, bản thân người bị áp dụng biện pháp chế tài cũng có quyền trình bày, thể hiện quan điểm của mình, đưa ra lý lẽ chống lại những cáo buộc. Nói cách khác, đương sự trong vụ tranh chấp được tòa án giải quyết không chỉ là đối tượng bị áp đặt bởi quyết định của tòa án, mà bản thân họ cũng là những người tham gia vào quá trình ra quyết định của tòa án, thông qua việc cung cấp các thông tin về tình tiết vụ việc, trình bày quan điểm về các quy định pháp luật bị áp dụng. Muốn quá trình ra quyết định này thực sự giải quyết hiệu quả các tranh chấp, mâu thuẫn khiến cho các bên tham gia tranh chấp phải thực sự “tâm phục, khẩu phục”, những người thực hiện quyền tư pháp không những phải có đủ năng lực chuyên môn để nhận biết và hiểu đầy đủ các quy định pháp luật có liên quan (cơ sở pháp lý để áp dụng giải quyết vụ việc) mà phải tạo điều kiện để các bên đương sự cung cấp đầy đủ các thông tin về tình tiết khách quan của vụ việc. Nói cách khác, tính đúng đắn của quá trình ra quyết định của tòa án khi thực hiện quyền tư pháp chỉ có được khi cả 3 yếu tố cơ bản (1) tình tiết khách quan của vụ việc, (2) các quy định pháp luật có liên quan áp dụng cho vụ việc và (3) tư duy logic của thẩm phán, hội thẩm đều đúng đắn. Khi đó, mục đích của việc thực hiện quyền tư pháp là tìm kiếm chân lý và đạt được công lý mới đạt được. Thực tiễn Việt nam và kinh nghiệm quốc tế đều cho thấy, điều này chỉ có được khi tranh tụng dân chủ và các nguyên tắc tố tụng tiến bộ khác (như việc đảm bảo sự bình đẳng của các bên trước tòa án, đảm bảo quyền bào chữa, quyền cung cấp chứng cứ v.v.) được tuân thủ triệt để.
Tuy nhiên, cũng cần hết sức lưu ý rằng, quyền tư pháp ở các nước phát triển hiện nay không chỉ đơn thuần được hiểu là quyền áp dụng các quy định của pháp luật vào các tranh chấp cụ thể để xác định sự đúng sai, hợp pháp/bất hợp pháp trong hành vi của con người và xác định biện pháp chế tài tương ứng, mà còn bao gồm quyền giải thích pháp luật để phục vụ việc giải quyết vụ việc ấy. Ở một số quốc gia thừa nhận tính tối thượng của Hiến pháp và có thiết lập cơ chế bảo hiến theo mô hình Tòa Tối cao là cơ quan bảo hiến hoặc thành lập Tòa Hiến pháp, thì quyền tư pháp còn bao hàm cả quyền tuyên vi hiến các đạo luật, các hành vi của các nhánh quyền lực nhà nước. Thêm vào đó, ở các nước theo hệ thống luật án lệ (common law), quyền tư pháp còn được hiểu bao gồm cả quyền tạo ra án lệ.
Như vậy, xét về nội dung và phạm vi quyền tư pháp, quan niệm về phạm vi và quyền tư pháp ở nước ta với nhiều quốc gia trên thế giới còn có nhiều điểm khác biệt nhau. Ba khác biệt quan trọng nhất cần nhắc tới đó là: (1) quyền giải thích pháp luật trong các vụ việc cụ thể; (2) quyền tuyên vi hiến các hành vi của cơ quan nhà nước; và (3) quyền tạo ra án lệ.
Tuy nhiên, chúng ta phải lưu ý rằng, không phải quốc gia phát triển nào trên thế giới đều coi quyền tư pháp, bên cạnh là quyền xét xử, còn phải bao chứa thêm cả 3 thành tố kể trên. Ngay tại Pháp, quyền tạo ra án lệ của tòa án cũng không được thừa nhận. Tòa án thường của Pháp cũng không có quyền tuyên một đạo luật cụ thể là vi hiến. Tại Anh, với sự trung thành với nguyên tắc “chủ quyền tối cao thuộc về nghị viện” (parliamentary supremacy/sovereignty), các tòa án ở Anh (kể cả Tòa Tối cao mới được thành lập từ năm 2009 vừa qua) cũng không có thẩm quyền tuyên một đạo luật của Nghị viện Anh là vi hiến.
Mặc dù vậy, có thể nói rằng, với việc mở rộng nội hàm của quyền tư pháp bao gồm cả quyền tuyên một văn bản pháp luật hoặc một hành vi nào đó của cơ quan nhà nước là vi hiến hoặc bất hợp pháp, quyền tư pháp đã góp phần giải quyết tương đối hiệu quả một trong những thách thức lớn nhất trong việc xây dựng một chế độ đó là: làm thế nào để xã hội không chỉ buộc những người dân thường tôn trọng pháp luật mà kể cả những người nắm giữ quyền lực nhà nước hoặc thân hữu của họ cũng phải thượng tôn pháp luật. Nói cách khác, thông qua việc thực hiện quyền tư pháp, pháp luật thực hiện được thiên chức của mình đó là không chỉ là công cụ để nhà nước quản lý xã hội, trừng trị các hành vi vi phạm pháp luật của một bộ phận nào đó của dân chúng mà pháp luật còn trở thành công cụ để người dân quản lý, kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ tự do, quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tại nước ta, trong một thời gian rất dài trước khi thành lập các thiết chế tài phán hành chính, quyền tư pháp không bao hàm quyền xét xử các vụ án hành chính. Tuy nhiên, với việc tiếp thu ngày càng nhiều hơn những yếu tố hợp lý trong lý thuyết phân quyền vào thiết kế bộ máy nhà nước, quyền tư pháp ở nước ta đã từng bước mở rộng, theo đó, tòa án không chỉ xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, mà còn xét xử cả các vụ án hành chính. Mặc dù vậy, cho tới nay, tòa án Việt Nam vẫn chưa được chính thức trao cho thẩm quyền xét xử tính hợp pháp/bất hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật. Tòa án Việt Nam cũng chưa được phép tiến hành việc xét xử các vụ khiếu kiện liên quan tới các quyết định hành chính do những người có thẩm quyền cao hơn cấp Bộ trưởng ban hành.
Nếu nói giữa các quyền trong bộ máy nhà nước là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp phải có sự kiểm soát lẫn nhau như tinh thần Văn kiện Đại hội XI của Đảng, thì rõ ràng, cơ chế kiểm soát của quyền tư pháp đối với quyền lập pháp, quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc đối với các công việc của cơ quan lãnh đạo quyền hành pháp rất nên được đặt ra nhưng rất tiếc Hiến pháp và các đạo luật hiện hành của ta vẫn còn nhiều điểm chưa theo kịp tinh thần của Văn kiện Đại hội XI.
Tuy nhiên, một điểm nữa cần lưu ý là, tuy quyền tư pháp là quyền phán xử tính hợp pháp trong hành vi của các tổ chức, cá nhân, cơ quan công quyền trong xã hội, quyền năng này không phải là thứ quyền năng không có giới hạn. Ngược lại, quyền tư pháp chỉ là một trong ba quyền năng hợp thành chỉnh thể quyền lực nhà nước, quyền tư pháp không thể chồng lấn lên quyền lập pháp và quyền hành pháp. Quyền tư pháp không là cơ sở để cơ quan thực hiện quyền tư pháp (tòa án) phán xét về tính hợp lý và sự cần thiết của các đạo luật bởi đây là công việc của cơ quan lập pháp. Sản phẩm của quyền tư pháp cũng không phát huy đầy đủ ý nghĩa khi sản phẩm ấy (các phán quyết của tòa án) không có sự hỗ trợ của các cơ quan hành pháp để hiện thực hóa các phán quyết này.
Hiện nay, việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam vẫn cho thấy có những nội dung mà sự chồng lấn giữa các quyền năng này rất đáng lưu ý: chẳng hạn, theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, các cơ quan hành chính nhà nước có thể xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật với mức phạt lên tới 2 tỷ đồng mà không đòi hỏi có sự can dự của tòa án. Các cơ quan lập pháp, cơ quan hành chính có thể tự xử lý, hủy bỏ các văn bản quy phạm pháp luật của cấp dưới đã ban hành trái Hiến pháp, trái pháp luật mà không cần sự can dự của tòa án. Các cơ quan hành chính cũng phải đảm trách phần lớn gánh nặng giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân mà chưa huy động hợp lý sự tham gia của hệ thống tòa án vào lĩnh vực này v.v.
Nhìn ra thế giới, có thể thấy, địa vị của quyền tư pháp trong mối quan hệ với quyền lập pháp và quyền hành pháp ở các quốc gia khác nhau chưa được quan niệm thống nhất. Ví dụ, trong khi tại Hoa Kỳ, quyền tư pháp được đặt ở địa vị ngang bằng với các quyền lập pháp và quyền hành pháp, thì tại Anh, với việc trung thành với nguyên tắc chủ quyền của nghị viện (hoặc nguyên tắc nghị viện tối cao), quyền tư pháp dường như bị đặt ở vị trí thấp hơn khi đặt trong mối quan hệ với quyền lập pháp. Mặc dù vậy, có một xu hướng khá rõ trên thế giới thời gian gần đây, nhất là trong thập niên 1990 và thập niên đầu của thế kỷ 21, với việc thiết lập các cơ quan bảo hiến chuyên trách ở nhiều quốc gia trên thế giới, sự tôn trọng yêu cầu về tính tối thượng của Hiến pháp, có một xu hướng chung trên thế giới là quyền tư pháp ngày càng được coi là bình đẳng hơn so với quyền lập pháp và quyền hành pháp (nhất là trong việc bảo đảm sự tôn trọng, tuân thủ các quy định của Hiến pháp - văn kiện hiện thân cao nhất của chủ quyền nhân dân).
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập với quốc tế bằng một nền kinh tế thị trường năng động, một hệ thống chính trị ngày càng cởi mở, có thể thấy rằng, quan niệm về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, rất có khả năng sẽ dần được đổi mới theo hướng ngày càng tiệm cận hơn với quan niệm về quyền tư pháp ở nhiều quốc gia phát triển trên thế giới. Theo xu hướng này, phạm vi, chức năng, sứ mệnh của quyền tư pháp ở nước ta sẽ ngày càng được mở rộng và coi trọng.
2. Cơ quan tư pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp
Khái niệm cơ quan tư pháp cũng là chủ đề còn nhiều ý kiến khác nhau ở nước ta. Ở các nước phát triển, cơ quan tư pháp chỉ được hiểu là tòa án. Ngay trong Hiến pháp năm 1946 (Điều thứ 63), cơ quan tư pháp cũng được hiểu chỉ là các tòa án (gồm có Tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp).
Tuy nhiên, cùng với thời gian, nhất là kể từ khi Việt Nam có Hiến pháp năm 1959, khái niệm cơ quan tư pháp được hiểu theo nghĩa rất rộng, không chỉ bao gồm các tòa án mà còn bao gồm cả các cơ quan công tố/kiểm sát, các cơ quan điều tra thuộc ngành Công an.
Khi này, khái niệm “tư pháp” không chỉ được hiểu là ‘xét xử” nữa, mà đã trở thành khái niệm “bảo vệ pháp luật”. Khái niệm các cơ quan tư pháp với khái niệm các cơ quan bảo vệ pháp luật trong giai đoạn này gần như trở nên đồng nhất với nhau.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” cũng quan niệm các cơ quan tư pháp không chỉ là tòa án, mà còn bao gồm cả các viện kiểm sát, các cơ quan điều tra và cả các cơ quan thi hành án (dân sự/hình sự). Với quan niệm như thế, cải cách tư pháp được Nghị quyết 49 quan niệm theo nghĩa rộng trong đó có việc hợp lý hóa lại thẩm quyền, chức năng, cơ cấu, tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ của hệ thống tòa án (dù coi tòa án là trung tâm của nền tư pháp), hệ thống viện kiểm sát, hệ thống cơ quan điều tra, hệ thống cơ quan thi hành án, hệ thống các thiết chế bổ trợ tư pháp.
Nếu chúng ta nhất quán với quan niệm “tư pháp” là “xét xử” và cơ quan tư pháp chỉ là tòa án, thì khái niệm “cải cách tư pháp” sẽ có nội hàm không còn giống với quan niệm hiện nay của Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Tuy nhiên, để tránh nhầm lẫn với cách hiểu về cơ quan tư pháp hiện nay, có lẽ, chúng ta nên sử dụng thuật ngữ “cơ quan thực hiện quyền tư pháp” với ý nghĩa chính là các tòa án hiện nay ở Việt Nam.
Nếu chúng ta quan niệm quyền tư pháp không chỉ là quyền xét xử các hành vi vi phạm pháp luật của công dân, tổ chức không mang quyền lực nhà nước, mà còn bao gồm quyền xét xử các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan công quyền, thì quyền tư pháp đã không chỉ là quyền trừng trị các hành vi vi phạm pháp luật của công dân, tổ chức trong xã hội mà còn trở thành một công cụ để kiểm soát việc thực hiện các hành vi thực thi quyền lực nhà nước, trong đó có việc thực thi quyền hành pháp và việc thực thi quyền lập pháp.
Nói cách khác, cơ quan thực hiện quyền tư pháp với nghĩa là tòa án khi ấy không chỉ là cơ quan áp dụng pháp luật để trừng trị các hành vi vi phạm pháp luật của người dân mà còn trở thành công cụ để người dân bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước hành vi vi phạm của các cơ quan công quyền. Nói cách khác, khi đó, cơ quan thực hiện quyền tư pháp (tòa án) sẽ trở thành công cụ của người dân để kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước.
Tất nhiên, điều này chỉ có thể làm được khi mà tòa án được coi là một cơ quan độc lập, không có lợi ích liên quan với cơ quan nhà nước tới mức ảnh hưởng tính vô tư, khách quan (tính bất thiên vị) của tòa án. Nói cách khác, tòa án khi ấy, đóng vai trò là trọng tài trong tranh chấp giữa người dân với các cơ quan công quyền được đưa ra xem xét trước tòa án. Đây cũng là quan niệm được chia sẻ ở nhiều quốc gia trên thế.
Liên hệ với thực tiễn Việt Nam, như đã có nhà nghiên cứu ở Việt Nam chỉ ra, bản chất, sứ mệnh của quyền tư pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp chưa phải lúc nào cũng được nhìn nhận đúng đắn, nhất là từ các yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Không ít người vẫn còn nghĩ tòa án chỉ là một “ngành” chuyên môn như vài chục bộ, ngành khác. Tòa án nhân dân tối cao bị coi là một “bộ” ở trung ương còn các tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì bị coi như một cấp sở, ngành của tỉnh và tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì bị coi như một phòng của chính quyền địa phương cấp huyện. Mối quan hệ giữa tòa án nhân dân tối cao với các tòa án nhân dân “địa phương” bị coi như mối quan hệ hành chính, trực thuộc, trên dưới. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì bị coi như các “tòa án nhân dân địa phương” chứ chưa được hiểu một cách đầy đủ đó là cơ quan của trung ương đóng trên một địa bàn, có địa hạt không nhất thiết phải trùng với địa hạt của chính quyền địa phương tương ứng. Cách thức tổ chức và hoạt động hiện nay của tòa án nhân dân cũng làm cho tính trung ương (tính quốc gia) của các tòa án tỉnh, thành phố, tòa án quận, huyện, thị xã không bộc lộ được đầy đủ tính quốc gia/trung ương của mình trong khi tính địa phương lại bộc lộ một cách nhầm lẫn. Việc xem xét, quyết định các vấn đề về tổ chức, bộ máy, trụ sở, kinh phí hoạt động, chế độ đãi ngộ cán bộ làm công tác tại tòa án được nhìn nhận tương đối giống như các cơ quan hành chính, mà chưa phản ánh hết những đặc thù của tòa án – một thiết chế đặc biệt thực thi 1 trong 3 loại quyền lực nhà nước. Việc chưa nhận thức rõ tính chất, vai trò, vị trí của tòa án còn dẫn tới những nhầm lẫn trong việc quy định các chức năng, nhiệm vụ cụ thể của tòa án trong quá trình tiến hành tố tụng, nhất là đặt gánh nặng chứng minh, tìm kiếm, thu thập chứng cứ lên vai tòa án trong một số trường hợp nhất định. Bên cạnh đó, việc quy định Viện Kiểm sát có quyền kiểm sát hoạt động tư pháp (trong đó có hoạt động xét xử của tòa án) đã khiến cho mối tương quan giữa Viện Kiểm sát và tòa án trong hoạt động tiến hành tố tụng trở nên không rõ ràng (lúc nào thì Viện Kiểm sát thực hành quyền công tố còn lúc nào thì Viện Kiểm sát thực hiện quyền kiểm sát hoạt động xét xử của tòa án).
3. Tư pháp độc lập (hoặc độc lập xét xử) như là một thuộc tính của quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền
Tư pháp độc lập hoặc sự độc lập của tư pháp (judicial independence) hay sự độc lập xét xử của thẩm phán và hội thẩm trong quá trình xét xử các vụ án là chủ đề gây nhiều tranh luận ở nước ta cả trên bình diện lý luận và thực tiễn hành nghề.
Trước tiên, để xác lập quan điểm đúng đắn về vấn đề tư pháp độc lập, cần giải mã thuật ngữ này.
Về nguyên nghĩa, tư pháp độc lập hàm ý rằng “các quyết định xét xử không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố không liên quan gì tới vụ án.” Nói cách khác, khi hình thành quyết định giải quyết vụ việc (phán quyết), người có thẩm quyền xét xử chỉ dựa vào (1) tình tiết khách quan của vụ việc, (2) cơ sở pháp lý giải quyết vụ việc và (3) tư duy logic của mình để ra quyết định, mà không bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài nào khác.
Cũng cần lưu ý rằng, “tư pháp độc lập” (trong đó có sự độc lập của thẩm phán) không có nghĩa là khuyến khích “thẩm phán vô trách nhiệm” mà ngược lại, tư pháp độc lập có nghĩa là thẩm phán và người làm công tác xét xử khác phải chịu trách nhiệm cao nhất về các phán quyết của mình trong việc đảm bảo rằng phán quyết ấy là sản phẩm của quá trình cân nhắc, tính toán cẩn trọng dựa hoàn toàn và chỉ dựa vào việc phân tích tình tiết khách quan của vụ việc và các quy định của pháp luật điều chỉnh việc giải quyết vụ việc ấy. Tư pháp độc lập, vì thế, hàm nghĩa rằng khi xét xử, người làm công tác xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Tư pháp độc lập chính là tiền đề để pháp luật được hóa thân một cách trọn vẹn vào người làm công tác xét xử (tòa án).
Tuy nhiên, trong con mắt của nhiều nhà khoa học pháp lý ở nước ta cũng như trên thế giới, tư pháp độc lập là “sự độc lập của quyền tư pháp với tư cách là một nhánh quyền lực so với hai nhánh quyền lực còn lại là quyền lập pháp và quyền hành pháp.” Điều này hàm ý rằng, tư pháp độc lập là một tình trạng về mối tương quan giữa quyền tư pháp với quyền lập pháp và hành pháp. Ngoài ra, cũng có quan niệm nhấn mạnh rằng, tư pháp độc lập hàm nghĩa sự độc lập của tòa án đối với sự ảnh hưởng của các lợi ích chính trị, nhóm lợi ích chính trị của những người cầm quyền. Thẩm phán được coi là độc lập khi mà “sự đe dọa trừng phạt” hoặc “những lời hứa về việc tưởng thưởng” bởi quan chức để đổi lấy việc thẩm phán ra những phán quyết có lợi hơn cho quan chức không trở thành một yếu tố cân nhắc khi ra quyết định của thẩm phán.
Thực tiễn Việt Nam cũng như kinh nghiệm của các nước đều cho thấy, khi giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể, trong đó lợi ích giữa hai bên tranh chấp mang tính đối chọi nhau về tính thắng/thua, hợp pháp/bất hợp pháp, đúng/sai, các bên thường mong muốn vụ việc được kết thúc theo hướng có lợi cho mình. Trong bối cảnh đó, có 3 nguồn áp lực chính mà người làm công tác xét xử thường phải đối mặt đó là: (1) các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trong bộ máy cầm quyền, bao gồm cả lãnh đạo của tòa án, thẩm phán của tòa án cấp trên (nhất là trong các vụ xét xử có liên quan tới cán bộ lãnh đạo của các cơ quan này hoặc thân hữu của những cán bộ này); (2) các bên đương sự trong vụ việc; và (3) dư luận xã hội (áp lực dư luận). Như vậy, chúng tôi cho rằng, tư pháp độc lập chính là sự độc lập của những người làm công tác xét xử đối với cả 3 nguồn áp lực kể trên. Ngoài ra, sự độc lập của người làm công tác xét xử còn bao hàm sự độc lập của chính những người cùng làm công tác xét xử với nhau khi giải quyết một vụ án (tức là sự độc lập của các thẩm phán với nhau, các hội thẩm với nhau và độc lập của hội thẩm với thẩm phán), thậm chí là sự độc lập của bản thân người làm công tác xét xử với chính mình (theo nghĩa họ không được xét xử những vụ việc mà bản thân họ đã có định kiến hoặc có lợi ích liên quan tới vụ việc hoặc với các bên trong vụ việc ấy).
Để hiểu rõ hơn giá trị và sự cần thiết của tư pháp độc lập (việc bảo đảm sự độc lập khi thực hiện quyền tư pháp), có lẽ nên phân tích rõ hơn những tác hại của tư pháp không độc lập. Tư pháp không độc lập được thể hiện rõ ở việc thẩm phán và những người được giao nhiệm vụ xét xử, khi xem xét, giải quyết, đưa ra phán quyết trong các vụ án mình thụ lý đã đưa ra những quyết định, phán quyết không hoàn toàn dựa vào tình tiết khách quan của vụ việc và các quy định pháp lý điều chỉnh việc giải quyết vụ việc ấy, mà bị chi phối bởi ý chí (ngoài luật pháp) của thế lực bên ngoài. Nói cách khác, tư pháp không độc lập khi ba thế lực bên ngoài ((1) các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước (nhất là các quan chức có quyền lực trong bộ máy nhà nước), (2) các bên đương sự trong vụ việc được đưa ra trước tòa án (dùng thủ đoạn mua chuộc, hối lộ, đe dọa v.v.), và (3) áp lực của dư luận) chi phối, làm sai lệch kết quả giải quyết vụ việc. Trong trường hợp này, yếu tố ngự trị việc tòa án cân nhắc, ra quyết định không phải là pháp luật mà là ý chí ngoài luật. Nói cách khác, đó là những yếu tố trái pháp luật hoặc là những yếu tố bóp méo pháp luật. Trong trường hợp ấy, sự ngự trị của pháp luật sẽ biến mất, mà thay vào đó là sự ngự trị của những thứ ngoài pháp luật, những thứ trái pháp luật.
Khi tư pháp không độc lập, người dân sẽ không thể biết được quy định pháp luật nào sẽ được áp dụng cho mình nếu như mình vướng vào các vụ kiện tụng hoặc vướng vào vòng lao lý, sự tồn tại của pháp luật khi ấy (và cũng là sự tồn tại của quyền lập pháp) trở nên không còn nhiều ý nghĩa. Trong trường hợp đó, cuộc sống của con người trở nên bất định. Nền tư pháp khi đó tồn tại không phải vì mục tiêu bảo vệ pháp luật và bảo vệ con người, mà sẽ trở thành công cụ của sự tùy tiện.
Trên cơ sở lập luận đó, chúng tôi cho rằng chúng ta nên xác quyết rằng: tư pháp độc lập không đơn thuần là một phương tiện, một công cụ hay một điều kiện. Tư pháp độc lập là một thuộc tính, một giá trị cốt lõi về tính chính danh của một nền tư pháp. Bảo vệ sự độc lập của tư pháp cũng chính là bảo vệ những lý do, ý nghĩa, giá trị đích thực cho sự tồn tại của một nền tư pháp. Đó cũng chính là bảo vệ cho những giá trị đích thực của quyền lập pháp được tôn trọng về mặt thực tế. Thiếu vắng tư pháp độc lập, ý nghĩa, giá trị tác động xã hội đích thực của quyền lập pháp sẽ bị bóp méo.
Từ góc độ lịch sử, đảm bảo tính độc lập xét xử của các tòa án đã được coi là một trong những nguyên tắc xây dựng một xã hội thực sự dân chủ và tự do. Trong tác phẩm “Bàn về Tinh thần pháp luật”, Montesquieu viết: “Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người hay một viện nguyên lão, thì sẽ không còn gì là tự do nữa, vì người sợ rằng chính ông ta hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán đối với quyền sống và quyền tự do của công dân, quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ông quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết.” Nói gọn lại, Montesquieu đã khẳng định một luận đề có tính then chốt về mối liên hệ giữa “tư pháp độc lập” và tình trạng “tự do của con người”: “tư pháp độc lập” là điều kiện thiết yếu đảm bảo tự do của con người. Ở đâu thiếu vắng tư pháp độc lập, ở đó con người không có tự do.
Do khái niệm “tự do” là một khái niệm còn nhiều tranh cãi, nên để tránh đi những tranh luận không cần thiết về tính đúng đắn của luận đề kể trên, chúng tôi muốn phát triển thêm luận đề khác về mối quan hệ giữa “sự thượng tôn pháp luật” với “tư pháp độc lập”. Luận đề như sau: “ở đâu không có tư pháp độc lập, ở đó pháp luật không được thượng tôn”. Nói cách khác, “tư pháp độc lập” là điều kiện thiết yếu để pháp luật được thượng tôn. Phát triển tiếp, chúng ta sẽ thu được kết luận về mối quan hệ giữa “tư pháp độc lập” với sự vững mạnh của nền quản lý quốc gia, đó là: “ở đâu không có tư pháp độc lập” ở đó không có một nền quản lý quốc gia vững mạnh (hay ở đó nền quản lý bị coi thường). Bảo vệ sự độc lập của tư pháp cũng thiêng liêng như bảo vệ tính chính đáng và tính thiêng liêng của hệ thống chính trị và nền quản trị của mỗi quốc gia.
Nhìn lại lịch sử cải cách tư pháp của nước ta, chúng ta có thể thấy, những người có công đầu tiên kiến tạo nên nền tư pháp của Việt Nam cũng là những người đưa nguyên tắc tư pháp độc lập thành một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong chế độ mới. Trong Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946, tiết thứ 5, Điều 47 khẳng định rõ «Tòa án tư pháp sẽ độc lập đối với các cơ quan hành chính. Các vị thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào việc tư pháp.» Tư tưởng ấy cũng được xác quyết trong Hiến pháp năm 1946 và các bản Hiến pháp về sau này của Việt Nam. Đối với những người sáng lập ra nền tư pháp mới của Việt Nam, thì «đặt Tòa án biệt lập với cơ quan hành chính để phân quyền xử án với quyền cai trị… ban quyền độc lập cho các thẩm phán» là tiêu chí thiết yếu của bất cứ quốc gia dân chủ nào. Sự độc lập này được hiểu là «thẩm phán… không những độc lập với cơ quan hành chính mà độc lập đối với cả cấp trên nữa… khi xử án thì xử theo pháp luật, công lý và lương tâm chứ không phải theo chỉ thị của một ai…Trong chế độ dân chủ… không những cơ quan chính quyền địa phương không chỉ huy, không kiểm soát tòa án, mà trái lại tòa án lại kiểm soát các cơ quan chính quyền… về mặt thi hành pháp luật.» Lý do của việc duy trì nguyên tắc tư pháp độc lập này được giải thích như sau:
«1. Nếu một người hay một cơ quan vừa cai trị dân lại vừa bắt tội được dân, thì người ấy hay cơ quan ấy dễ đi đến chỗ chuyên quyền, lạm quyền, lộng quyền, độc đoán, mà kẻ oan ức không biết kêu vào đâu. Cai trị dân tức là bảo dân làm cái này, đừng làm cái kia, có kẻ nào không nghe thì, trong một chế độ dân chủ, cơ quan cai trị kia không có quyền kết tội kẻ đó, mà phải để một cơ quan khác tức là tòa án…xét xử. Nếu người xử án và người cầm quyền cai trị là một thì ai dám làm trái vị đó nữa, mặc dầu vị đó có thể hành động nhầm hay vì tư thù, tư lợi. Vị đó sẽ là một ông vua, một ông quan «phụ mẫu» trong chế độ quân chủ, một viên công sứ trong chế độ thực dân.
2. Thẩm phán không những chỉ có nhiệm vụ… xử những vụ phạm pháp trong dân chúng mà còn phải… xử những sự phạm pháp trong đám người cầm quyền (ví dụ: hối lộ, lạm tiêu, lạm thu, bắt người trái phép, tịch thu trái phép)…Họ phải được độc lập đối với người cầm quyền thì mới làm nổi nhiệm vụ thứ hai ấy. Nếu họ bị người cầm quyền chỉ huy hay kiểm soát thì công lý đối với dân sẽ chỉ có một chiều. Ở nước ta, từ thượng cổ cho đến ngày cách mạng tháng Tám, chưa bao giờ nhân dân được hưởng một nền tư pháp độc lập với hành chính.» «Thiết lập được một tư pháp biệt lập với hành chính…[không đặt] Tòa án dưới sự chỉ huy … [của] các cấp hành chính là một chiến công của cách mạng tháng Tám đã phá đổ chế độ thực dân và vua quan.» Nguyên tắc tư pháp độc lập không những không mâu thuẫn với nguyên tắc tập quyền của chế độ mới «mà chính nó lại là một nguyên tắc căn bản của sự tổ chức chính thể dân chủ mới.»
Tư pháp độc lập là để pháp luật được tôn trọng và tuân thủ một cách triệt để bởi mọi cá nhân, tổ chức, cơ quan trong xã hội. Tư pháp độc lập là yếu tố đảm bảo rằng, không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được quyền tự cho mình đứng trên pháp luật, cao hơn pháp luật, mà đều phải chịu sự ngự trị của pháp luật. Tư pháp độc lập cũng có nghĩa rằng, quyền tư pháp không bị ai có thể coi thường. Thông qua đó, chữ “tín” của pháp luật được bảo vệ, củng cố và tăng cường một cách thực sự. Tư pháp độc lập vì thế không gây hại tới các lực lượng cầm quyền, mà ngược lại, nó làm cho ý chí của lực lượng cầm quyền (chính là pháp luật) được tôn trọng một cách trọn vẹn và đầy đủ. Nói cách khác, tư pháp độc lập là yếu tố nền tảng trong một nền chính trị biết coi trọng chữ “tín” và nó buộc mọi lực lượng trong xã hội phải coi trọng chữ “tín” của lực lượng cầm quyền. Tư pháp độc lập, vì thế, là một giá trị, chứ không chỉ là một phương tiện. Nó là giá trị nội thân đảm bảo tính chính danh của lực lượng cầm quyền trong một xã hội dân chủ. Nó là giá trị thể hiện chữ tín của lực lượng cầm quyền.
Ngày nay, theo nhiều học giả trên thế giới, tư pháp độc lập (judicial independence) và cùng với nó là sự hiện diện của nhà nước pháp quyền (rule of law) là những trụ cột thiết yếu đảm bảo cho các thiết chế nhà nước không bị tha hóa theo hướng có hại cho sự phát triển xã hội bền vững và có hại cho nền dân chủ. Sự thực là, “tư pháp độc lập” là một trong những yếu tố thiết yếu đảm bảo sự hiện thực hóa của nhà nước pháp quyền. Douglass North (giải thưởng Nobel về kinh tế năm 1993) đã chứng minh một cách thuyết phục rằng, việc thiết lập và duy trì một nền tư pháp độc lập, đảm bảo cho pháp luật, mệnh lệnh của nhà nước được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh, củng cố chữ “tín” của nhà nước, chữ “tín” của pháp luật là bí quyết thúc đẩy phát triển kinh tế ở các nước phát triển trong suốt chiều dài lịch sử của mình.
Tư pháp độc lập đã trở thành giá trị chung được nhân loại thừa nhận. Theo quan điểm của Liên hợp quốc, tư pháp độc lập đòi hỏi các quốc gia phải ghi nhận nhiều nguyên tắc pháp lý quan trọng như: nguyên tắc «bình đẳng trước pháp luật», nguyên tắc «suy đoán vô tội», «quyền hưởng sự xét xử công khai và công bằng bởi một tòa án có năng lực, độc lập và bất thiên vị thành lập theo quy định của luật» đã được nêu trong Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948, và «quyền được xét xử một cách không chậm trễ một cách vô lý» ghi nhận trong các Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. Tư pháp độc lập cũng đòi hỏi các quốc gia phải tôn trọng những tiêu chuẩn cơ bản như:
- Sự độc lập của các tòa án phải được bảo đảm bởi Nhà nước và phải được hiến định hoặc quy định trong luật của quốc gia. Mọi thiết chế công quyền đều có trách nhiệm tôn trọng và tuân thủ sự độc lập của các tòa án.
- Các tòa án phải quyết định các vấn đề được đệ trình lên trước tòa án một cách không thiên vị, trên cơ sở tình tiết thực tế và phù hợp với quy định của pháp luật, mà không bị hạn chế hoặc ảnh hưởng sai trái, sự dụ dỗ, áp lực, đe dọa hoặc can thiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp từ bất cứ đâu và vì bất cứ lý do gì.
- Các tòa án có thẩm quyền tài phán đối với tất cả các vấn đề mang bản chất tư pháp và độc quyền quyết định xem một vấn đề được đệ trình trước mình để quyết định là có thuộc thẩm quyền mà pháp luật đã quy định cho mình hay không.
- Không được phép để xảy ra sự can thiệp vô lý vào trình tự tư pháp, cũng như không được để các quyết định của tòa án phải chịu sự rà soát của các cơ quan khác.
- Mọi người đều có quyền được xét xử bởi các tòa án thường hoặc các tòa án sử dụng các trình tự đã được pháp luật quy định. Các tòa án không sử dụng các trình tự đã được pháp luật quy định sẽ không được thành lập để thay thế thẩm quyền vốn thuộc về các tòa án thường.
- Nguyên tắc độc lập của tòa án trao cho tòa án và yêu cầu tòa án phải đảm bảo rằng các thủ tục tố tụng được tiến hành một cách công bằng và quyền của các bên được tôn trọng.
- Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo đủ nguồn lực cần thiết để các tòa án thực hiện chức trách của mình một cách phù hợp.
- Người được chọn để giữ cương vị xét xử phải là cá nhân liêm chính và có năng lực với sự đào tạo phù hợp hoặc bằng cấp về luật. Các phương thức chọn lựa phải đảm bảo chống lại sự bổ nhiệm tư pháp vì những động cơ không phù hợp. Khi chọn lựa thẩm phán, không được phân biệt đối xử trên cơ sở về chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, quan điểm chính trị, nguồn gốc xã hội, tình trạng tài sản, dòng giống hoặc địa vị xã hội, ngoại trừ yêu cầu là ứng viên cho chức vụ về tư pháp phải là công dân của quốc gia có liên quan, thì không bị coi như là một sự phân biệt đối xử.
- Nhiệm kỳ của thẩm phán, sự độc lập của thẩm phán, sự an toàn, sự trả lương đầy đủ, các điều kiện phục vụ, các điều kiện về thời hạn bổ nhiệm hoặc bầu, lương và tuổi nghỉ hưu phải được bảo đảm một cách đầy đủ bởi pháp luật.
- Việc tưởng thưởng thẩm phán, khi có một hệ thống như vậy tồn tại, nên được dựa trên các yếu tố khách quan, đặc biệt là dựa trên năng lực cụ thể, sự liêm chính và kinh nghiệm.
- Mọi vụ việc về kỷ luật, đình chỉ công tác hoặc bãi chức của thẩm phán phải được quyết định theo đúng các chuẩn mực đã được xác lập về hành vi tư pháp v.v.
4. Một vài nhận xét, kết luận
Có thể thấy rằng, cho tới hiện nay, quan niệm về “quyền tư pháp” ở Việt Nam và ở các nước phát triển, tuy có chung điểm cốt lõi là quyền xét xử các tranh chấp pháp lý dựa trên quy định của pháp luật một cách độc lập nhưng đi vào chi tiết thì vẫn còn nhiều điểm khác biệt.
Điểm chưa thống nhất cơ bản chính là “đối tượng” chịu sự xét xử của quyền tư pháp, nhất là vấn đề liệu cơ quan công quyền (và cụ thể là những cơ quan công quyền nào) và loại vấn đề gì có thể phải chịu đặt mình dưới sự xét xử của quyền tư pháp.
Mặc dù vậy, trong những năm gần đây, Việt Nam chứng kiến một xu hướng chung rằng, đối tượng chịu sự “xét xử” của quyền tư pháp ngày càng mở rộng. Việc cơ quan công quyền cũng là một bên trong tranh chấp và chịu sự phán xét của thiết chế thực hiện quyền tư pháp (tòa án) không còn bị xem là điều gì đó quá xa lạ. Trong đợt sửa đổi, bổ sung Hiến pháp đang diễn ra, đã không ít ý kiến đề xuất mở rộng nội hàm quyền tư pháp ở Việt Nam, thậm chí có ý kiến còn đề xuất cho phép tòa án được quyền xét xử cả hành vi của những cơ quan công quyền ở cấp rất cao. Xu hướng mở rộng quyền tư pháp như vậy và cùng với nó là đảm bảo tốt hơn yêu cầu độc lập xét xử của tòa án là điều hoàn toàn có thể dự báo được, nhất là khi lý tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân mà Đảng ta chủ trương ngày càng có cơ sở xã hội và hiện thực để thực hiện. Xu hướng ấy cũng là chọn lựa chính sách đúng đắn khi Việt Nam muốn củng cố uy tín của nền tư pháp đối với người dân và các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài trong bối cảnh mở cửa hội nhập hiện nay. Thật khó giành và giữ được “chủ quyền” tài phán đích thực của quốc gia nếu như các hợp đồng đầu tư, hợp đồng xuất nhập khẩu có yếu tố nước ngoài (vốn đã chiếm tới 150% GDP của Việt Nam) thường bị các bên tham gia hợp đồng tìm cách thoát khỏi sự tài phán của tòa án Việt Nam bằng cách chọn lựa các thiết chế tài phán quốc tế hoặc của nước ngoài với lo ngại về năng lực, trình độ, kinh nghiệm, tính vô tư, khách quan và độc lập của tòa án quốc nội.
TS. Nguyễn Văn Cương - Phó viện trưởng Viện Khoa học Pháp lý – Bộ Tư pháp