1. Thực tiễn các quy định của Luật Luật sư hiện hành
Thứ nhất, Luật Luật sư hiện hành còn thiếu các giải pháp mang tính chiến lược phát triển luật sư Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chưa phù hợp với các cam kết WTO của Việt Nam.
Trong quá trình thực thi pháp luật cho thấy, một số quy định của pháp luật về tổ chức hành nghề luật sư còn chưa đồng bộ. Cụ thể:
Có sự không thống nhất giữa Luật Luật sư và Nghị quyết 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006 của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới của Việt Nam về phạm vi hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài. Điển hình: về việc thực hiện “Dịch vụ giấy tờ pháp lý và công chứng liên quan tới pháp luật Việt Nam”. Trong khi Nghị quyết 71 quy định: “không được cử luật sư nước ngoài và luật sư Việt Nam trong tổ chức hành nghề của mình thực hiện các dịch vụ về giấy tờ pháp lý và công chứng liên quan tới pháp luật Việt Nam”. Thì tại Điều 70 Luật Luật sư lại cho phép mở cửa khi quy định “Chi nhánh, công ty luật nước ngoài hành nghề tại Việt Nam được thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác”.
Luật Luật sư có quy định cấm luật sư nước ngoài tư vấn pháp luật Việt Nam nhưng không đưa ra cơ chế quản lý, giám sát điều này. Luật Luật Sư cũng cấm hãng luật nước ngoài (kể cả cử luật sư Việt Nam và luật sư nước ngoài) tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Toà án Việt Nam. Trên thực tế, có nhiều hãng luật nước ngoài đã tham gia tư vấn luật Việt Nam, chuẩn bị hồ sơ khởi kiện, đàm phán, đòi nợ và chỉ thuê luật sư Việt Nam làm nhà thầu phụ trong giai đoạn tố tụng trước tòa.
Luật đã không đưa ra chế tài trong trường hợp luật sư nước ngoài thực hiện tư vấn pháp luật Việt Nam hoặc soạn thảo hợp đồng liên quan đến pháp luật Việt Nam, mà không hề có chế tài xử lý. Thực tế cho thấy hầu hết luật sư nước ngoài đã tham gia tư vấn pháp luật Việt nam. Điều này gây ảnh hưởng không tốt đến môi trường hành nghề luật sư và tính nghiêm minh của pháp luật. Trong quá trình hành nghề, chúng tôi đã được đọc và phải đọc rất nhiều bản tư vấn luật Việt Nam và ý kiến pháp lý do luật sư nước ngoài ký tên và đóng dấu hãng luật nước ngoài. Trong những bản tư vấn và ý kiến pháp lý đó có ghi rõ rằng “chúng tôi là hãng luật nước ngoài và không được tư vấn pháp luật Việt Nam và bản tư vấn này chỉ dùng để thảo luận hoặc để tham khảo”. Đây là hình thức tư vấn trá hình, làm méo mó môi trường pháp lý của Việt Nam.
Những quy định và thiếu sót này của Luật Luật sư đã không chỉ không phù hợp mà còn gây cản trở cho chiến lược phát triển đội ngũ luật sư theo như tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nó còn gây khó khăn cho việc hình thành một môi trường pháp lý lành mạnh, bình đẳng để phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam năng động, chuyên nghiệp, có trình độ ngang tầm với luật sư trong khu vực và thế giới.
Thứ hai, Luật Luật sư hiện hành của Việt Nam có độ mở cửa thị trường pháp lý cao nhất so với các nước khác trong khu vực Châu Á, tuy nhiên chưa có cơ chế cấp phép chặt chẽ và hữu hiệu để lựa chọn các hãng luật nước ngoài uy tín vừa hỗ trợ các giao dịch quốc tế tại Việt Nam, vừa mở rộng thì trường pháp lý và đóng góp cho việc phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam hội nhập quốc tế.
Trong thực tế, khi tiến hành nghiên cứu và so sánh với các nước phát triển trong khu vực, chúng tôi nhận thấy Luật Luật sư của Việt Nam có độ mở cửa cao nhất so với luật của các nước (tham khảo bảng Phụ lục 1). Điển hình, ở Hàn Quốc các tổ chức luật sư, luật sư nước ngoài không được phép: lập chi nhánh, công ty con, liên doanh; tham gia tố tụng tại tòa án và tư vấn luật, cũng như đưa ra ý kiến pháp lý, lập hợp đồng theo luật bản địa.
Còn lại, hầu hết các nước trong khu vực Châu Á và Đông Nam Á đều không cho phép tổ chức luật sư nước ngoài được tư vấn và soạn thảo hợp đồng theo luật bản địa. Nhật Bản và Singapore cũng mới chỉ cho phép một cách hạn chế từ năm 2010 và năm 2011 sau khi đã cho phép các hãng luật nước ngoài đặt trụ sở từ những năm 60 của thế kỷ trước. Hiện nay, ở Trung Quốc, Ấn độ, Singapore, Hàn Quốc và Nhật Bản có nhiều hãng luật bản địa có số lượng tới hàng trăm, hàng nghìn luật sư. Nghề luật sư trở nên rất hấp dẫn ở các nước trong khu vực và đã thành công trong việc xã hội hóa phát triển một đội ngũ luật sư hùng mạnh.
Ngay cả khi các luật sư của Singapore, Hàn Quốc và Nhật bản đã đủ sức cạnh tranh và mở cửa thị trường pháp lý, thì các nước đều quy định rất rõ trình tự cấp phép và điều kiện cấp phép đối với tổ chức luật sư nước ngoài trong từng trường hợp cụ thể. Trong đó, phân biệt và quy định rõ giấy phép cho tổ chức luật sư nước ngoài là giấy phép hành nghề luật nước ngoài (chứ không bị nhầm lẫn là có thể hành nghề luật bản địa như ở Việt Nam). Việc hành nghề luật nội địa được quy định rõ trong giấy phép với phạm vi hành nghề, điều kiện hành nghề và các cam kết tuân thủ. Bộ Tư pháp các nước có toàn quyền cân nhắc việc tổ chức luật sư nước ngoài có đáp ứng các điều kiện cấp phép theo mục đích xin phép của tổ chức luật sư nước ngoài đó và vì sự phát triển hoặc đóng góp cho nước sở tại, cụ thể:
- Các giao dịch/hợp đồng cung cấp dịch vụ lớn trong thời gian gần đây;
- Lý do mở văn phòng;
- Dự kiến tên và hình thức pháp lý của văn phòng;
- Số lượng luật sư dự kiến hành nghề của văn phòng và cư trú tại nước sở tại;
- Dự kiến tính chất công việc hoặc lĩnh vực hành nghề của văn phòng;
- Thông tin về đối tượng khách hàng hiện tại mà văn phòng sẽ cung cấp dịch vụ tư vấn;
- Kế hoạch và giải trình về việc nước sở tại sẽ được hưởng lợi gì khi văn phòng được mở tại đó;
- Cam kết về khối lượng công việc thuộc các giao dịch quốc tế mà văn phòng sẽ thực hiện tại nước sở tại;
- Thư tuyên bố và cam kết tuân thủ pháp luật nước sở tại;
- Bằng chứng về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hành nghề luật sư tại nước sở tại.
Có như vậy mới tránh được tình trạng xin phép tràn lan của các tổ chức luật sư nước ngoài nhỏ hoặc mang tính cá nhân tại Việt Nam (theo báo cáo của Bộ Tư pháp về thực trạng hoạt động của các tổ chức luật sư nước ngoài). Chỉ có các tổ chức luật sư nước ngoài có năng lực, có uy tín, có khách hàng nước ngoài tiềm năng (là cầu nối thực sự cho đầu tư nước ngoài) và có khả năng và kế hoạch đóng góp cho sự pháp triển cho Việt Nam mới được lựa chọn.
Thứ ba, Luật Luật sư hiện hành chưa tạo điều kiện để Công ty luật Việt Nam có thể cạnh tranh bình đẳng với Công ty luật nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam và liên quan đến việc tư vấn pháp luật Việt Nam.
Một nguyên tắc được nhiều người nhắc đến là việc ưu tiên cho công ty nội địa theo Khoản 2 Điều 4 của Nghị Định 85/2009/NĐ-CP thi hành Luật Đấu Thầu ngày 15 tháng 10 năm 2009: “Trường hợp các hồ sơ của nhà thầu nước ngoài được xếp hạng ngang nhau thì ưu tiên xếp hạng cao hơn cho hồ sơ dự thầu đề xuất giá trị chi phí trong nước cao hơn. Trường hợp hồ sơ dự thầu của nhà thầu trong nước và nhà thầu nước ngoài sau khi đã thực hiện việc ưu đãi theo khoản 1 Điều này được xếp hạng ngang nhau thì ưu tiên xếp hạng cao hơn cho hồ sơ dự thầu của nhà thầu trong nước”.
Luật Luật sư không đưa ra cơ chế để khuyến khích các công ty và dự án trong nước sử dụng luật sư Việt Nam. Trên thực tế, các công ty của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản thường thuê luật sư của nước họ và luật sư đó sẽ đi thuê luật sư nước ngoài khác. Đây là cơ chế để luật sư Việt Nam học hỏi kinh nghiệm luật sư nước ngoài để giúp doanh nghiệp Việt Nam và Chính phủ Việt Nam giám sát luật sư nước ngoài.
Ở Việt Nam có một xu hướng ngược lại là tổ chức luật sư nước ngoài bao cả phần tư vấn luật nước ngoài và luật Việt Nam. Thậm chí, nhiều trường hợp tổ chức luật sư nước ngoài ở Việt Nam đóng vai trò chỉ tư vấn luật Việt Nam cùng với một tổ chức luật sư nước ngoài khác tư vấn luật nước ngoài. Nhiều dự án, không có sự tham gia của tổ chức luật sư Việt Nam. Trong nhiều trường hợp tổ chức luật sư Việt Nam chỉ được giao thầu lại theo hình thức với mức phí nhỏ để ký cấp ý kiến pháp lý theo luật Việt Nam. Vai trò của cá nhân các luật sư Việt Nam trong các tổ chức luật sư nước ngoài cũng rất mờ nhạt. Trong nhiều trường hợp, luật sư nước ngoài tự nhận là luật sư tư vấn luật Việt Nam khi giao dịch với khách hàng. Tất cả thực tế này xuất phát từ việc pháp luật không phân định rõ phạm vi giấy phép hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài, cũng như vai trò, năng lực và điều kiện hành nghề của luật sư Việt Nam trong tổ chức luật sư nước ngoài (như đã nêu ở nhận xét thứ hai, có tham khảo kinh nghiệm các nước trong khu vực). Vấn đề này cũng liên quan đến nhận xét thứ tư dưới đây.
Thứ tư, Luật Luật sư hiện hành chưa tạo ra cơ chế đối xử công bằng giữa Luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam và luật sư Việt Nam.
Lâu nay, Luật Luật sư hiện hành còn có những khoảng trống để cho luật sư nước ngoài hành nghề tự do sau khi cấp phép. Bản chất của hoạt động quản lý luật sư vốn dĩ thuộc thẩm quyền của các Đoàn Luật sư địa phương (hoặc Trung Ương) như hầu hết các nước trên thế giới. Trong khi đó, luật sư Việt Nam ngoài việc quản lý bởi cơ quan nhà nước (Sở và Bộ Tư pháp) thì còn chịu sự quản lý của Đoàn Luật sư và Liên Đoàn Luật sư nữa. Nếu luật sư Việt Nam vi phạm thì có cơ chế kỷ luật được thực hiện bởi Đoàn Luật sư, còn luật sư nước ngoài thì chẳng có chế tài kỷ luật nào như đang áp dụng với luật sư Việt Nam, trừ việc rút giấy phép nhưng cơ chế rút giấy phép tương đối mơ hồ và theo kiểu hành chính nhà nước.
Thêm vào đó, luật sư Việt Nam phải tuân thủ nghiêm chỉnh theo bộ “Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam” (Ban hành kèm theo Quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày 20 tháng 7 năm 2011 của Hội đồng luật sư toàn quốc). Trong khi đó, Luật Luật sư, cũng như bộ quy tắc trên không hề đề cập đến việc luật sư nước ngoài phải tuân thủ theo một chuẩn mực đạo đức nào cả. Chúng tôi xin đính kèm Phụ lục 3 cam kết tuân thủ pháp luật nước sở tại đối với tổ chức luật sư nước ngoài và luật sư nước ngoài.
Theo bản Quy tắc nói trên thì luật sư Việt Nam không được nhận việc khi có xung đột lợi ích. Tuy nhiên luật của một số nước lại cho phép luật sư nước ngoài được nhận việc trong trường hợp được các bên tham gia vụ việc đó đồng ý. Trên thực tế, một số hãng luật nước ngoài đã nhận làm luật sư cho cả hai bên đối lập trong một giao dich bằng các lập ra một bức tường “Chinese Wall” với hai luật sư khác nhau làm cho 2 phía đối lập trong cùng một giao dịch. Như vậy là luật sư nước ngoài đã có ưu thế hơn luật sư Việt Nam ngay trên lãnh thổ Việt Nam vì họ không phải tuân theo bản Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam.
Ngoài ra, thời hạn giấy phép hành nghề đối với luật sư nước ngoài theo quy định hiện hành là 5 năm. Trong khi đó, điều 173 Bộ luật Lao động được Quốc hội thông qua ngày 18 tháng 06 năm 2012, quy định thời hạn của giấy phép lao động cho lao động nước ngoài tại Việt Nam chỉ là 2 năm. Như vậy, quy định của Luật Luật sư hiện hành đã đi ngược lại tinh thần của một văn bản quy phạm pháp luật có giá tri pháp lý cao hơn – Bộ luật Lao động 2012. Đây là một tiền lệ không tốt ảnh hưởng đến tính thống nhất pháp luật nước ta. Bên cạnh đó, có những luật sư nước ngoài chỉ được ký hợp đồng lao động với thời hạn 1-2 năm nhưng lại có giấy phép hành nghề tới 5 năm.
Hơn nữa, việc quy định như vậy sẽ tạo nên sự thiếu công bằng giữa lao động nước ngoài có chuyên môn khác nghề luật sư khi làm việc tại Việt Nam. Luật sư nước ngoài là một người lao động nước ngoài nên bình đẳng với các lao động nước ngoài khác. Vì vậy, puật pháp Việt Nam chỉ nên ưu đãi ở mức độ cần thiết nhất định cho luật sư nước ngoài. Chúng tôi xin đính kèm Phụ lục 4 tham khảo điều kiện đối với luật sư nước ngoài tại Hàn Quốc.
2. Kiến nghị
Việc tạo dựng một môi trường pháp lý chuyên nghiệp trên cơ sở cạnh tranh công bằng giữa các tổ chức và cá nhân hành nghề luật sư trên địa bàn cả nước là hết sức quan trọng. Nhận thức được điều này cũng như những hạn chế, bất cập trong thực tiễn hành nghề luật sư tại Việt Nam nêu trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp và kiến nghị sau đây.
Thứ nhất, chúng tôi hoàn toàn tán thành với khoản 26 và 28 Điều 1 của bản dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Luật sư số 65/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 (được soạn thảo lần thứ 5 ngày 14 tháng 8 năm 2012), đã sửa đổi Điều 70 và Điều 76 của Luật Luật sư, quy định về phạm vi hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài và luật sư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, chúng tôi kiến nghị là để cụ thể hóa tinh thần quy định tại các điều luật trên thì các điều luật trên có thể quy định mở rộng theo hướng:
(i) Nếu các vụ, việc thuần túy điều chỉnh bởi luật Việt Nam và không có yếu tố nước ngoài, thì luật sư nước ngoài tuyệt đối không được tham gia, chỉ có các luật sư Việt Nam hoặc luật sư nước ngoài đáp ứng các yêu cầu giống như luật sư Việt Nam thì mới được phép tham gia. Do vậy, luật sư nước ngoài không đáp ứng các yêu cầu giống như luật sư Việt Nam không được:
- Tham gia tư vấn hoặc hỗ trợ tư vấn dưới bất kỳ hình thức nào (trả lời điện thoại, viết văn bản tư vấn, soạn hợp đồng, cấp ý kiến pháp lý, v.v.); đặc biệt, luật sư nước ngoài không được phép ký hoặc cùng ký bất kỳ văn bản tư vấn nào về luật Việt Nam; và
- Không được phép tính phí khách hàng về luật Việt Nam dưới bất kỳ hình thức nào.
(ii) Nếu các vụ, việc được điều chỉnh bởi cả luật Việt Nam và luật nước ngoài hoặc chỉ được điều chỉnh bới luật Việt Nam nhưng có yếu tố nước ngoài, thì luật sư nước ngoài không đáp ứng các yêu cầu giống như luật sư Việt Nam:
- Không được tư vấn về luật Việt Nam dưới bất kỳ hình thức nào (trả lời điện thoại, viết văn bản tư vấn, soạn hợp đồng, cấp ý kiến pháp lý v.v.); đặc biệt, luật sư nước ngoài không được phép ký hoặc cùng ký bất kỳ văn bản tư vấn nào về luật Việt Nam; mọi tư vấn về luật Việt Nam phải do luật sư Việt Nam hoặc luật sư nước ngoài đáp ứng các yêu cầu giống như luật sư Việt Nam tư vấn;
- Không được phép tính phí khách hàng về luật Việt Nam dưới bất kỳ hình thức nào; và
- Chỉ được tư vấn về luật nước ngoài hoặc khía cạnh thông lệ quốc tế liên quan đến giao dịch.
Ban soạn thảo cũng có thể cân nhắc quy định tinh thần chung nói trên tại khoản 26 và 28 Điều 1 của bản Dự thảo rồi sau đó quy định cụ thể hơn về vấn đề này tại nghị định của Chính phủ hướng dẫn Luật luật sư. Phạm vi hoạt động, các hạn chế và cam kết phải tuân thủ của tổ chức luật sư nước ngoài cần được quy định rõ trong mẫu giấy phép do Bộ Tư pháp ban hành.
Thứ hai, bổ sung “kế hoạch kinh doanh và hoạt động tại Việt Nam” vào khoản 2 Điều 78 (hồ sơ thành lập). Theo nguyên tắc và cam kết WTO cấp phép đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải theo một trong hai thủ tục đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư. Hiện nay, việc cấp phép cho tổ chức luật sư nước ngoài không rõ theo thủ tục nào, trong khi lĩnh vực dịch pháp lý là lĩnh vực đầu tư có điều kiện tại Việt Nam. Các hãng luật nước ngoài xin cấp phép tại Việt Nam cần đưa ra bản đề xuất hoạt động tại Việt Nam về lý do xin phép, thị trường và khách hàng, quy mô hoạt động và các lợi ích kinh tế - xã hội đóng góp cho Việt Nam. Về tuyển dụng và phát triển luật sư Việt Nam, tổ chức luật sư nước ngoài phải đưa ra kế hoạch và cam kết thực hiện các yêu cầu đặt ra để phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam ngang tầm khu vực (cũng giống như lĩnh vực cần bảo hộ như tài chính, ngân hàng, kế toán…). Xin đề xuất một số tiêu chí cụ thể:
- Có khả năng tư vấn về pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế cho các giao dịch xuyên quốc gia của các nhà đầu tư quốc tế, nhà đầu tư Việt Nam hoặc cơ quan chính phủ, Trưởng chi nhánh, giám đốc công ty nước ngoài phải có ít nhất 7 năm liên tục hành nghề luật sư theo nước mà người đó hành nghề như đăng ký với Bộ Tư pháp;
- Trưởng chi nhánh, giám đốc công ty nước ngoài phải “thường trú” theo quy định của Luật Doanh nghiệp;
- Có quy mô từ 500 luật sư trở lên để đảm bảo chất lượng cũng như uy tín của tổ chức hành nghề luật sư giúp đào tạo đội ngũ luật sư có trình độ quốc tế cho Việt Nam;
- Cam kết có tối thiểu từ 2 luật sư quốc tế trực tiếp hành nghề tại Việt Nam, và các luật sư này có tối thiểu 5 năm hành nghề quốc tế;
- Cam kết đào tạo tối thiểu 3 luật sư Việt Nam trong thời gian 2 năm sau khi bắt đầu hoạt động được công nhận có đủ trình độ luật sư quốc tế để tham gia các giao dịch xuyên quốc gia.
Thứ ba, bổ sung vào câu cuối khoản 1 Điều 78 về thời hạn giấy phép thành lập của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài: “Giấy phép thành lập chi nhánh, công ty luật nước ngoài có hiệu lực từ ngày ký với thời hạn 5 năm và được xem xét gia hạn trên cơ sở đáp ứng các điều kiện và cam kết hành nghề tại Việt Nam.”
Thứ tư, sửa đổi khoản 2 Điều 82 về thời hạn 2 năm đối với đăng ký hành nghề của cá nhân luật sư nước ngoài với Bộ Tư pháp, được xem xét gia hạn trên cơ sở đáp ứng các điều kiện hành nghề. Việc cấp giấy phép hành nghề cho luật sư nước ngoài cũng nên xét đến nhu cầu thị trường thông qua các điều kiện và hồ sơ cấp phép theo quy định của Chính phủ và Bộ Tư pháp như nêu ở trên đối với tổ chức luật sư nước ngoài.
Thứ năm, bổ sung vào Điều 76 về quy định hành nghề của luật sư nước ngoài ở Việt Nam để phù hợp với quy định của Cam kết WTO và Nghị Quyết 71: mọi văn bản tư vấn và tài liệu do luật sư nước ngoài soạn thảo liên quan tới pháp luật Việt Nam không có giá trị pháp lý.
Thứ sáu, bổ sung khoản 2 Điều 73 về việc các luật sư nước ngoài phải chịu sự kiểm tra, giám sát hành nghề của Đoàn Luật Sư địa phương (bên cạnh sự giám sát của Bộ Tư Pháp và Sở Tư Pháp). Các Đoàn Luật sư được phép quản lý các luật sư nước ngoài và các công ty luật có họat động trên địa bàn (Công ty và luật sư Việt Nam hiện nay đang bị quản lý kiểu này). Cụ thể, sau khi được cấp phép xong, luật sư nước ngoài và công ty luật nước ngoài làm thủ tục đăng ký với Đoàn Luật sư địa phương. Nếu có tranh chấp, khiếu nại... về tác nghiệp của các luật sư nước ngoài thì Đoàn Luật sư giải quyết như hiện nay đối với luật sư Việt Nam như kỷ luật tạm đình chỉ hành nghề mấy tháng hoặc đề nghị Bộ Tư Pháp rút giấy phép hành nghề. Để bảo đảm tính liên thông, bình đẳng giữa luật sư nước ngoài và luật sư Việt Nam, Luật Luật sư cần bổ sung quy định điều kiện để hành nghề của luật sư nước ngoài tại Việt Nam là phải cam kết tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư Việt Nam. Nếu vi phạm sẽ bị kỉ luật với hình thức thu hồi giấy phép hoạt động của tổ chức hoặc giấy phép hành nghề đới với cá nhân là luật sư nước ngoài.
Thứ bảy, bổ sung vào Điều 61 về nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn luật sư hai nội dung như sau:
- Trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương trong việc quản lý các tổ chức hành nghề luật sư trong nước và nước ngoài, quản lý luật sư (Việt Nam và nước ngoài) và hoạt động hành nghề của các luật sư đó ở địa phương; và
- Nhắc nhở, yêu cầu các tổ chức hành nghề luật sư, luật sư hành nghề với tư cách cá nhân thuộc tổ chức mình (Việt Nam và nước ngoài) trong việc chấp hành chế độ báo cáo, thống kê định kì.
Về việc gia hạn giấy phép hành nghề của luật sư nước ngoài phải có ý kiến xác nhận của Đoàn luật sư địa phương nhằm đảm bảo luật sư đó có thời gian hoạt động tại địa phương và đã chấp hành nghiêm chỉnh những quy tắc và pháp luật Việt Nam đối với luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam. Bộ Tư pháp sẽ căn cứ vào nhu cầu thực tế để cấp giấy phép hoặc gia hạn giấy phép cho các công ty luật nước ngoài. Bộ Tư pháp cũng sẽ tham khảo ý kiến của Liên đoàn Luật sư trước khi cấp giấy phép hoặc gia hạn giấy phép cho các công ty luật nước ngoài.
Thứ tám, bổ sung khoản 4 Điều 39 khuyến khích các tổ chức luật sư Việt Nam hợp tác với hãng luật quốc tế hoặc tuyển dụng luật sư nước ngoài, hoặc đào tạo luật sư Việt Nam được công nhận trình độ luật nước ngoài (ví dụ ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp hoạt động hợp tác đó và thuế thu nhập cá nhân cho các đối tượng luật sư đó). Chúng tôi đề nghị đưa chính sách trên vào dự thảo Luật Luật sư và theo hướng dẫn thi hành của Chính phủ.
Thứ chín, bổ sung vào khoản 2 hoặc một khoản mới Điều 12 về cơ chế hợp tác và chính sách khuyến khích các hãng luật Việt Nam tham gia chương trình đào tạo, tuyển dụng và phát triển các luật sư hội nhập quốc tế. Có thể quy định trong Luật Luật Sư về việc Bộ Tư pháp trao đổi với Liên đoàn Luật sư Việt Nam tổ chức và ký kết thực hiện các chương trình phát triển luật sư hội nhập quốc tế với các tổ chức hành nghề luật sư.
Nhóm luật sư