Quyền yêu cầu giám định trong tố tụng: Cân nhắc giới hạn “mở” với tính dân chủ của tố tụng

07/06/2012
Trong nhiều năm, hạn chế, yếu kém của lĩnh vực giám định tư pháp (GĐTP) luôn được ngành Tư pháp nhấn mạnh là “điểm nghẽn” cần khai thông để không làm ách tắc hoạt động tố tụng, cũng như xóa bỏ phận “lép vế” của GĐTP trong hoạt động tố tụng. Và mở rộng quyền yêu cầu giám định được kỳ vọng là một trong những đột phá để đưa GĐTP về đúng vị trí trong “làng” tố tụng thời cải cách tư pháp.

Sự thật có nguy cơ bị bẻ cong vì “độc quyền”

Vụ Tạ Văn Xã (TP.HCM) năm 1998 bị kết án tử hình vì Tòa cấp sơ thẩm dựa vào kết luận giám định khẳng định “không bị tâm thần, có năng lực trách nhiệm hình sự”, song thoát chết nhờ 2 kết luận giám định sau đó khẳng định ngược lại… là một trong rất nhiều ví dụ về vai trò của GĐTP vào việc góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, trách nhiệm của cá nhân, tập thể,  trước những hậu quả, thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra, định đoạt số phận pháp lý, tài sản của một con người, tập thể….

Nhưng quy định hiện hành, trưng cầu giám định trong hoạt động tố tụng hình sự (TTHS) là “độc quyền” của cơ quan tiến hành tố tụng. Đương sự, bị can, bị cáo, người có nghĩa vụ liên quan chỉ được quyền “đề nghị giám định” mà thôi. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc những kết quả giám định nếu không phải do cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu hay sẽ “vô giá trị” trong TTHS, bất chấp việc nó có thể đem đến những yếu tố có lợi cho bị can, bị cáo.

Như vụ Tạ Văn Xã, do thấy căn cứ kết án của Tòa sơ thẩm “có vấn đề”, cùng với đề nghị của gia đình bị cáo và luật sư, Tòa phúc thẩm mới trưng cầu giám định lại. Nhờ đó, Xã không bị án tử hình mà bị buộc đi chữa bệnh tâm thần. Nếu trong trường hợp này, bị cáo được quyền trưng cầu giám định thì ngay từ cấp sơ thẩm đã không có bản án tử hình đối với một người hành động trong trạng thái bị “ảo giác”.

Điểm khác biệt trong TTHS so với tố tụng dân sự và tố tụng hành chính là trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 10 Bộ luật TTHS). Nên với quy định tại Điều 155 Bộ luật TTHS, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ “ra quyết định trưng cầu giám định khi có những vấn đề được xác định theo quy định tại Khoản 3 Điều 155 hoặc khi xét thấy cần thiết”, như vậy việc trưng cầu giám định được thực hiện là theo “nhu cầu” của cơ quan tiến hành tố tụng “khi xét thấy cần thiết”.

Vụ TAND tỉnh Phú Yên vừa tuyên hủy quyết định của TAND huyện Tuy An mới đây là một ví dụ về việc sử dụng quyền trưng cầu giám định không đúng quy định pháp luật của cơ quan xét xử khiến sự thật vụ án có nguy cơ bị “bóp méo” nếu tòa án cấp trên không công minh. Quyết định đình chỉ vụ án để điều tra lại vụ án “cố ý gây thương tích” đối với Trương Văn Vũ của TAND huyện Tuy An bị hủy do vi phạm tố tụng nghiêm trọng bởi khi TA thấy có sự không thống nhất về tỷ lệ thương tật của người bị hại trong 2 kết luận giám định đã “tự ý” trưng cầu giám định lần thứ ba, mà không triệu tập người giám định tham giam phiên tòa để làm rõ về hai bản giám định hoặc trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung.

Điều 28 Bộ luật TTHS quy định, việc giải quyết các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (VAHS) được tiến hành cùng với việc giải quyết VAHS và việc giải quyết các vấn đề dân sự trong VAHS vẫn phải áp dụng các quy định của pháp luật dân sự để giải quyết. Song “khép kín” việc thực hiện quyền trưng cầu giám định cho cơ quan tiến hành tố tụng trong các VAHS “sẽ là mâu thuẫn và bất hợp lý khi giải quyết phần dân sự cùng với VAHS” như nhận xét của ông Nguyễn Thành Bộ (Chánh án TAND tỉnh Thanh Hóa).

Mặc dù đối với những nội dung dân sự liên quan trực tiếp đến yếu tố định tội hoặc định khung thì cơ quan tiến hành tố tụng bắt buộc phải trưng cầu giám định, nhưng những yêu cầu dân sự khác đương sự vẫn có quyền và nghĩa vụ để đưa ra chứng cứ, tài liệu để chứng minh cho yêu cầu của mình. Bên cạnh đó, vô lý nhất là cùng một vấn đề dân sự, nếu là phần dân sự trong VAHS thì đương sự không được quyền trực tiếp yêu cầu giám định, nhưng nếu được tách ra để giải quyết độc lập theo tố tụng dân sự thì đương sự được thực hiện quyền này. Rõ ràng không cho đương sự trưng cầu giám định là đã hạn chế quyền của đương sự một cách vô lý và có thể ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự khi giải quyết phần dân sự trong VAHS.

Giám định “đánh đố” cơ quan tiến hành tố tụng

Trong không ít các vụ án, việc giám định thường phải tiến hành nhiều lần do kết quả các lần giám định không thống nhất, thậm chí trái ngược nhau khiến cơ quan tiến hành tố tụng không biết phải căn cứ vào đâu để phán quyết, kết luận về vụ án. Như vụ án của Trương Văn Vũ, ba bản kết luận giám luận có tỷ lệ thương tật là 19%, 13% và 9%. Nếu chỉ căn cứ vào hai kết luận giám định đầu thì Vũ phải bị xét xử về tội “cố ý gây thương tích”, nhưng theo kết luận giám định cuối cùng thì lại chưa đến mức xử lý hình sự (dưới 11%).

Như vậy, trong tố tụng còn đặt ra vấn đề trưng cầu giám định lại. Quyền yêu cầu giám định bổ sung, giám định lại liên quan chặt chẽ đến thủ tục tố tụng. Tuy trách nhiệm chứng minh thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng nhưng để đảm bảo quyền bào chữa cho bị can, bị cáo và những người có liên quan và người bị hại, nếu trong các trường hợp vụ án đã được xét xử và có hiệu lực pháp luật nhưng các đương sự vẫn yêu cầu, cho rằng việc giám định không khách quan và yêu cầu giám định lại, lúc này các cơ quan tiến hành tố tụng cũng phải tiến hành trưng cầu giám định lại để kiểm tra tính hợp pháp của kết quả giám định mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã giám định ban đầu và đã được xét xử. “Làm như vậy để đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội và không bỏ lọt tội phạm, nhất là không kết án oan người vô tội và bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan” - ông Nguyễn Thành Bộ nhấn mạnh.

Về bản chất, kết luận giám định là một nguồn chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xem xét, đánh giá và sử dụng để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Nên việc có giám định lại hay không hoàn toàn thuộc thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng quyết định trong trường hợp cần thiết. Đương sự có quyền đề nghị, nhưng việc quyết định trưng cầu lại thuộc thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng. Trường hợp người yêu cầu giám định không nhất trí với kết luận giám định thì có quyền đề nghị hoặc khiếu nại theo quy định của pháp luật tố tụng. Bên cạnh đó, việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định không chính xác.

Chưa đồng thuận trao “quyền trượng” cho đương sự

So với Pháp lệnh GĐTP, dự thảo Luật GĐTP quy định đương sự trong vụ án hành chính, vụ việc dân sự được quyền tự mình yêu cầu GĐTP trong trường hợp họ đã đề nghị Toà án trưng cầu giám định nhưng không được chấp thuận (Điều 24) nhằm “tạo điều kiện cho đương sự trong vụ án hành chính, vụ việc dân sự chủ động thu thập chứng cứ để chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo tinh thần cải cách tư pháp, tăng cường dân chủ hóa hoạt động tố tụng”.

Đa số các ý kiến đều tán thành quy định đương sự trong VAHS, vụ việc dân sự, vụ án hành chính được quyền tự mình yêu cầu giám định. Ông Đặng Công Lý (Chánh án TAND tỉnh Bình Định) căn cứ vào quy định tại các Điều 49, 50, 51, 52, 53, 54 Bộ luật Tố tụng dân sự để đề nghị mở rộng yêu cầu GĐTP của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong VAHS để họ thực hiện “quyền đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu bào chữa bảo vệ cho mình”, thực hiện nghĩa vụ chứng minh, cung cấp chứng cứ trong hoạt động tố tụng dân sự, hành chính, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, và trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Nhận định việc mở rộng quyền của đương sự được tự mình trực tiếp yêu cầu thực hiện GĐTP đối với bị can, bị cáo và người bị hại trong quá trình giải quyết VAHS liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo, ông Mã Điền Cư (Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội) coi đó là “cơ hội rất quan trọng cho bị can, bị cáo trong các VAHS oan sai được xem xét xử lý đúng pháp luật và không để lọt tội phạm. Đây là vấn đề nhân đạo, là vấn đề nhân quyền”.

Tuy nhiên, vẫn có ý kiến cho rằng, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong VAHS đã được Nhà nước chứng minh và bảo vệ cùng với việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước nên không cần thiết mở rộng quyền yêu cầu giám định đối với đương sự trong VAHS. Ông Lương Văn Thành (Viện trưởng VKSND TP Hải Phòng) lý giải, do nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế, một số bị can, bị cáo muốn kéo dài thời gian giải quyết vụ án nhằm có lợi cho mình như trong các vụ án tranh chấp về kinh tế, về bồi thường, các bị can, bị cáo loại ra một số căn cứ khiếu nại, kiến nghị để giám định lại, kéo dài thời gian giải quyết các vụ án nên mở rộng quyền của bị can, bị cáo được trực tiếp yêu cầu GĐTP sẽ ảnh hưởng đến quá trình tố tụng.

Tranh luận về quyền trực tiếp trưng cầu GĐTP của những người tham gia tố tụng đã diễn ra qua hai kỳ họp QH. Đa số tán thành mở rộng quyền trưng cầu giám định cho các đương sự trong vụ án dân sự, hành chính và phần dân sự trong VAHS. Tuy nhiên, có nên dành cho người đại diện hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong VAHS, người bị hại quyền này thì vẫn chưa đi đến “hồi kết” và đang chờ quyết định của QH qua việc biểu quyết thông qua dự thảo Luật GĐTP dự kiến vào ngày 20/6.

Cùng với những quy định của Luật và sự tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, có chế độ, chính sách hợp lý cho cán bộ làm công tác GĐTP, đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động GĐTP trong một số lĩnh vực, công tác GĐTP sẽ được tổ chức hoạt động theo tinh thần cải cách tư pháp, phục vụ kịp thời cho hoạt động tố tụng và góp phần bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đóng góp “xứng tầm” cho việc giải quyết các vụ án một cách khách quan và công bằng./.

Khải Minh

Sau 6 năm triển khai thi hành Pháp lệnh GĐTP, đã thành lập Viện Pháp y Quốc gia, 39 Trung tâm Pháp y, 16 Phòng giám định pháp y cấp tỉnh; Viện giám định Pháp y tâm thần TƯ thuộc Bộ Y tế, 11 Trung tâm giám định pháp y tâm thần; Viện Khoa học hình sự thuộc Bộ Công an tiếp tục phát triển là tổ chức đầu ngành, làm nòng cốt cho việc kiện toàn các Phòng kỹ thuật hình sự ở Công an cấp tỉnh. Tính đến tháng 10/2011 cả nước đã có 3.426 giám định viên trên các lĩnh vực được cấp thẻ giám định viên tư pháp.

(Trích “Tờ trình của Chính phủ về Dự thảo Luật GĐTP” tại kỳ họp thứ 2 QH khóa XIII, tháng 10/2011).