Tây Ban Nha là một quốc gia Tây Âu khá thành công về tiến hành cải cách tư pháp trong thời gian gần đây. Bài viết dưới đây giới thiệu một số bài học rút ra từ kinh nghiệm cải cách tư pháp ở Tây Ban Nha, vốn được các nhà hoạch định chính sách tư pháp chấp nhận rộng rãi.
A. Hệ thống tư pháp phải được coi là một ngành cung cấp dịch vụ công
Kết luận đầu tiên, dẫu còn có một số ý kiến phản đối, là cần phải coi hệ thống tư pháp là một ngành cung cấp dịch vụ công nếu thực sự muốn tiến hành cải cách.
Thông thường, sứ mệnh của các toà án ở Tây Ban Nha được nhìn nhận từ góc độ các trường hợp riêng lẻ. Từ góc độ đó, người ta cho rằng điểm mấu chốt trong hệ thống tư pháp là sự hiện diện của thấm phán vô tư và giỏi về luật để giải quyết các tranh chấp tại toà án một cách độc lập và không thiên vị theo pháp luật và với những bảo đảm cần thiết dành cho các bên đương sự. Tuy nhiên, ngày càng có thêm các đòi hỏi đối với hệ thống tư pháp trong các thập kỷ vừa qua cùng với nhu cầu về dịch vụ trong các lĩnh vực khác như giáo dục, y tế, giao thông vận tải cho thấy những khía cạnh khác cũng cần phải được tính đến trong việc thực thi công lý. Không chỉ cần ưu tiên vấn đề về quyết định đúng đắn trong từng vụ án tại toà án, mà còn phải đáp ứng thêm những yêu cầu quan trọng khác. Các toà án phải ra quyết định một cách không chậm trễ do khối lượng các vụ án đang chờ giải quyết và cản trở việc tiến hành tố tụng một cách nhanh chóng. Thủ tục tố tụng không được gây nhiều tốn kém cho công dân. Chất lượng và tính chặt chẽ, mạch lạc của các bản án, quyết định của toà án phải bảo đảm sự rõ ràng về mặt pháp lý.
Các yêu cầu này chỉ có thể được đáp ứng nếu ngành tư pháp (ở Tây Ban Nha có khoảng 3.900 thẩm phán và 40.000 nhân viên hành chính) được tổ chức một cách có hiệu quả và không chỉ có đủ năng lực ra các quyết định đúng đắn mà còn ra quyết định một cách nhanh chóng, ít tốn kém và có chất lượng cao.
Quan điểm về hệ thống tư pháp là một ngành cung cấp dịch vụ công với việc có các thẩm phán vô tư và thông thạo luật pháp là chưa đủ, mà còn cần thêm các nguồn lực nữa. Nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng đối với các toà án, chúng ta phải có thông tin đầy đủ liên quan đến số lượng các vụ án và sự phân bổ của chúng, cũng như các số liệu thống kê tư pháp chi tiết để định hướng cho việc xây dựng chính sách về phân bổ nguồn lực cho các toà án. Ngoài ra, cũng cần phải có chính sách thích hợp về việc lựa chọn cán bộ và định kỳ đánh giá năng suất lao động của cán bộ ngành tư pháp, kể cả thẩm phán.
Quan điểm hệ thống tư pháp là một ngành cung cấp dịch vụ công đã vấp phải sự phản đối mạnh từ những người muốn duy trì quan điểm truyền thống chỉ duy nhất dựa trên việc giải quyết “đúng đắn” về các vụ án cụ thể tại toà án, cũng như từ những khu vực đang tìm cách bảo vệ quan điểm trung dung của mình. Như vậy, nỗ lực nhằm giảm bớt số lượng án tồn đọng đã bị chỉ trích, cho thấy sự coi trọng chất lượng, chứ không phải là số lượng các bản án được tuyên và quên mất rằng “chậm có công lý là không có công lý” hoặc ít ra là thiếu hiệu quả và có ít sự bảo đảm hơn. Một số ý kiến cho rằng việc đánh giá sản phẩm đầu ra của thẩm phán có thể làm ảnh hưởng đến sự độc lập của họ. Một trong các vấn đề của bất kỳ cuộc cải cách nào là phải kết hợp nhu cầu quản lý và bảo đảm hiệu quả của hệ thống tư pháp với các quy định của Hiến pháp về bảo đảm sự độc lập của thẩm phán khi giải quyết các vụ án.
B. Cải cách tư pháp phải được thực hiện trong một kế hoạch đồng bộ
Kết luận thứ hai rút ra từ kinh nghiệm của Tây Ban Nha là: để thu được kết quả tốt thì cải cách tư pháp phải dựa trên một kế hoạch đồng bộ, trong đó có tính đến toàn bộ ngành tư pháp, với tính chất là một hệ thống những cán bộ, nguồn lực và thủ tục tố tụng hoạt động theo nguyên tắc phối hợp.
Các cuộc cải cách được thực hiện mà không có một kế hoạch đồng bộ, trong một khu vực duy nhất hoặc chỉ liên quan đến một khía cạnh hay thủ tục nào đó của hệ thống tư pháp mà thiếu sự xem xét tác động của chúng đối với các khu vực khác, thường gây ra những bất lợi nhiều hơn là tạo ra sự cải thiện. Tất cả các khía cạnh của hệ thống tư pháp phức tạp đều có liên hệ mật thiết với nhau và do vậy thật khó để cải cách một thủ tục, tổ chức hoặc quy trình tuyển chọn cán bộ nào đó, nếu không thúc đẩy sự thay đổi mạnh mẽ trong các lĩnh vực khác của hệ thống tư pháp. Kinh nghiệm của Tây Ban Nha cho thấy các cải cách về thủ tục tố tụng đòi hỏi phải có sự thay đổi tương ứng trong tổ chức, lựa chọn và đào tạo cán bộ tư pháp, và trong nhiều trường hợp còn đòi hỏi phải có các nguồn lực vật chất. Ví dụ, việc áp dụng thủ tục tranh tụng trong tố tụng hình sự đòi hỏi phải tăng ngay số lượng công tố viên và đào tạo lại họ. Việc cải cách thủ tục tố tụng dân sự, tăng vai trò của thủ tục tố tụng miệng so với vai trò của thủ tục tố tụng bằng văn bản truyền thống không những yêu cầu phải có thêm thẩm phán mà còn đòi hỏi phải lắp đặt thêm các thiết bị để giúp cho việc tiến hành thủ tục tố tụng bằng lời nói, cũng như ghi lại diễn biến của thủ tục tố tụng đó. Tương tự, để bảo đảm có hiệu quả thực sự, những thay đổi trong tổ chức hành chính của các toà án phải đáp ứng những yêu cầu của tố tụng tư pháp. Mọi thay đổi trong thủ tục tố tụng, nhân sự hoặc tổ chức hành chính cần phải có đủ các nguồn lực vật chất và kinh tế kèm theo.
Tất nhiên, chúng ta không thể loại trừ khả năng các cuộc cải cách trong một khía cạnh duy nhất của hệ thống tư pháp cũng có thể mang lại sự cải thiện. Ví dụ ở Tây Ban Nha, việc tạo ra các dịch vụ tổng hợp của toà án, nhập các bộ phận hành chính của một số toà án vào một đơn vị duy nhất, đã mang lại những kết quả rất tích cực. Tuy nhiên, do sự phức tạp của thủ tục tố tụng tư pháp, mọi sự khiếm khuyết không thể thấy trước trong một khía cạnh nào đó của hệ thống tư pháp, do sự thiếu phối hợp với các lĩnh vực khác, có thể làm tê liệt hoặc gây trì trệ trong hoạt động hàng ngày của các lĩnh vực đó. Theo kinh nghiệm của Tây Ban Nha thì một trong các nguyên nhân làm giảm hiệu quả của một số cuộc cải cách trong ngành tư pháp là thiếu sự phối hợp giữa các bộ phận của hệ thống tư pháp. Ngoài ra, do hoạt động của Toà án ảnh hưởng đến các quyền cơ bản đã được bảo đảm trong Hiến pháp cho nên mọi khiếm khuyết sẽ lập tức gây ra sự chú ý và chỉ trích của công luận và báo chí.
Ở Tây Ban Nha, kinh nghiệm trong những năm gần đây cho thấy nhu cầu về chấp nhận cách tiếp cận mang tính phối hợp nói trên. Có nhiều ví dụ về các cuộc cải cách không mang lại hiệu quả như mong đợt do không tính đến các lĩnh vực khác của hệ thống tư pháp. Sau đây là một vài ví dụ cụ thể:
1. Cuộc cải cách được tiến hành năm 1995 nhằm giảm tình trạng tồn đọng án tại các toà án sơ thẩm hình sự nhưng sau đó đã làm tê liệt hoạt động của các toà án tỉnh do các vụ án đó đã được dồn cho các toà án tỉnh. Hậu quả là đã phải tiến hành cuộc cải cách thứ hai để trả lại thẩm quyền xét xử các vụ án nói trên cho các toà án sơ thẩm.
2. Nhằm nâng cao hiệu quả của Trường đào tạo thẩm phán, việc tăng thời gian đào tạo ban đầu cho thẩm phán đến hai năm đã được phê duyệt năm 1994 và được thực hiện năm 1997. Hậu quả là trong thời gian hai năm đầu thực hiện kế hoạch này đã gây ra sự thiếu trầm trọng thẩm phán toà án sơ thẩm vì không thể tuyển dụng thẩm phán mới nào trong khoảng thời gian đó. Cơ chế này lại phải thay đổi vào năm 2000 nhằm giảm thời hạn đào tạo ban đầu.
3. Một luật mới vào năm 1998 đã tạo ra một số toà án gồm một thẩm phán (juzgados) để xét xử các vụ án hành chính. Điều này đã làm thay đổi cơ chế truyền thống là việc xét xử vụ án do hội đồng thẩm phán (salas) tiến hành. Mục đích của cải cách này là nhằm thúc đẩy nhanh thời gian xét xử vụ án và giảm số lượng án tồn đọng tại các toà án. Mặc dù đã có đủ nguồn lực kinh tế và vật chất, nhưng biện pháp cải cách này đã gặp khó khăn do không có quy định nào được ban hành để bảo đảm đủ số lượng thẩm phán chuyên trách về lĩnh vực pháp luật hành chính. Khi đã có sự dàn xếp để cung cấp đào tạo cần thiết thì lại gặp khó khăn là thiếu thẩm phán ở các lĩnh vực khác, vì các thẩm phán mới được đào tạo để xét xử các vụ án hành chính đã được điều chuyển đến từ các lĩnh vực đó.
4. Việc thực hiện một luật mới về tố tụng dân sự, bắt đầu từ năm 2001, đã gặp những khó khăn do không có quy định về việc lắp đặt các thiết bị cần thiết để tiến hành tố tụng miệng.
5. Tương tự như vậy, đã từng gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng luật mới về tư pháp hình sự người chưa thành niên do thiếu công tố viên được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực đó.
Nhu cầu thực hiện các cải cách hệ thống tư pháp từ cách tiếp cận toàn cầu trở nên cấp thiết vào giữa những năm 1990. Năm 1997, sau một năm nghiên cứu và phân tích, Hội đồng tư pháp quốc gia chuẩn bị một cuốn Sách trắng về hệ thống tư pháp, mà dưới góc độ dịch vụ công, tìm cách đưa ra phân tích tổng hợp về ngành tư pháp ở Tây Ban Nha, phát hiện ra những mặt còn tồn tại của nó và kiến nghị các giải pháp chung nhằm khắc phục những tồn tại đó. Ba năm sau, và vẫn từ quan điểm đó, Hội đồng đã phê duyệt tài liệu có tên gọi là “Bản kiến nghị về Cải cách hệ thống tư pháp”, dựa trên cơ sở là cuộc cải cách đó phải được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của hệ thống tư pháp, kể cả các cải cách tố tụng, thay đổi phương pháp lựa chọn và đánh giá cán bộ và trong tổ chức hành chính, cũng như cung cấp đủ các nguồn lực kinh tế. Cuối cùng cách tiếp cận này đã được Chính phủ và các đảng chính trị lớn chấp nhận và được thể hiện trong “Hiệp ước về tư pháp” được ký vào tháng 5 năm 2001, trong đó thể hiện một cách tiếp cận mang tính toàn cầu về các cải cách tư pháp dự định sẽ được thực hiện trong 8 năm tiếp theo.
C. Các cuộc cải cách phải dựa trên sự đồng thuận
Đây là kết luận thứ ba rút ra từ các cuộc cải cách được thực hiện ở Tây Ban Nha: mọi cải cách quan trọng trong hệ thống tư pháp đều phải được tiến hành với mức độ đồng thuận cao nhất có thể giữa các khu vực tham gia và phải có sự phối hợp giữa các đảng chính trị - là những chủ thể thực hiện các cải cách đó, thông qua các thoả thuận trước giữa các đảng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Ở một số nước, trong đó có Tây Ban Nha, nhiều lực lượng, cơ quan, tổ chức khác nhau của cả khu vực công và khu vực tư phải đóng vai trò quan trọng trong cuộc cải cách này vì nó có ảnh hưởng lớn đến lợi ích và sự kỳ vọng của nhiều cá nhân và tổ chức. Các tổ chức công ở Tây Ban Nha có thẩm quyền đối với các vấn đề tư pháp gồm Bộ Tư pháp, Hội đồng tư pháp quốc gia, Nghị viện quốc gia, các Chính phủ và nghị viện của các khu tự trị và các cơ quan quản lý của chính bản thân toà án. Các khu vực chịu ảnh hưởng của các cuộc cải cách đó là các hiệp hội thẩm phán và công tố viên, các đoàn luật sư và công đoàn của người lao động làm việc trong hệ thống cơ quan tư pháp.
Trước hết, điều này cho thấy sự cần thiết phải đạt được một mức độ nhất định sự hợp tác giữa các cơ quan công quyền và nhằm tạo ra phương tiện cho sự hợp tác, thông qua các cơ quan chịu trách nhiệm điều phối hoạt động cải cách hoặc các uỷ ban điều phối. Về mặt này, tính phức tạp của hệ thống tư pháp và sự cần thiết phải tiến hành các cuộc cải cách đòi hỏi phải có sự hợp tác của các cơ quan có thẩm quyền khác nhau của Nhà nước. Nhưng điều đó cũng hàm ý về nhu cầu phải tính đến các phản ứng tiêu cực có thể sẩy ra đối với các nỗ lực cải cách từ các đối tượng bị tác động – nhất là những đối tượng có ảnh hưởng chính trị và xã hội lớn.
Mọi cuộc cải cách, đặc biệt là các cải cách toàn diện hệ thống tư pháp có thể làm phương hại đến lợi ích của một khu vực nào đó và gây ra sự phản đối trực tiếp hoặc gián tiếp và kết cục là làm ảnh hưởng đến hoặc thậm chí cản trở hoàn toàn việc thực hiện cải cách đó. Sau đây là một số ví dụ về các cuộc cải cách loại này đã từng sẩy ra ở Tây Ban Nha.
1. Năm 1985 người ta đã tiến hành một chương trình nhằm mục đích tăng số lượng thẩm phán mà không tính đến thực tế là việc đề cử các ứng viên thường mất rất nhiều thời gian do các ứng viên phải trải qua nhiều kỳ thi chính thức sau khi tham gia khoá học dài hạn tại Trường đào tạo thẩm phán. Theo chương trình này, một uỷ ban sẽ lựa chọn những luật gia có kinh nghiệm thực tế, ví dụ luật sư, giáo sư và công chức, để chiếm ¼ số thẩm phán còn thiếu tại các toà án, mà không cần phải qua các kỳ thi truyền thống. Thủ tục này tuy có thể giúp bổ sung các vị trí còn khuyết tại các toà án nhưng đã gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ các thẩm phán vì họ cho rằng quy trình tuyển chọn này có thể ảnh hưởng đến chất lượng của hệ thống tư pháp, và trước hết là ảnh hưởng đến hy vọng được thăng tiến của họ. Kết cục là các uỷ ban tuyển chọn, thành phần chủ yếu gồm các thẩm phán, đã giảm mạnh số lượng thẩm phán được tuyển chọn từ những người làm công tác pháp luật nhưng không làm trong ngành toà án. Như vậy, về khía cạnh này, cuộc cải cách đã không mang lại kết quả như mong đợi.
2. Tương tự, như đã nói ở trên, các chương trình được thiết kế nhằm đánh giá năng suất làm việc của thẩm phán đã gặp phải sự phản đối chính thức và phi chính thức từ các hiệp hội thẩm phán. Sự chỉ trích các chính sách này xuất phát từ những người chất vấn về tính chính xác của kỹ thuật đánh giá cho đến những người nghi ngờ về tính phù hợp của việc đánh giá đó với sự độc lập của thẩm phán.
3. Các nỗ lực nhằm thúc đẩy sự tiếp cận các toà án bằng việc bãi bỏ nghĩa vụ của các bên trong việc phải có luật sư đại diện trong các vụ kiện có giá ngạch nhỏ đã bị các đoàn luật sư phản đối. Xuất phát từ tầm quan trọng về chính trị và xã hội của các tổ chức nói trên, mọi dự án luật hoặc văn bản dưới luật trong lĩnh vực này đều có thể bị chỉ trích gay gắt từ phía công chúng, với lập luận rằng cần phải duy trì các bảo đảm về tố tụng và sự đối xử bình đẳng đối với các bên. Một điều nữa cần lưu ý là đa số các thành viên của Chính phủ và Nghị viện là luật sư và do vậy sự phản đối của họ đối với các cuộc cải cách trong tương lai sẽ gây hậu quả nghiêm trọng.
4. Việc cải cách hoạt động hành chính của các toà án trong các vấn đề liên quan đến sắp xếp lại nhân sự, việc đánh giá năng suất làm việc hoặc kiểm soát giờ giấc làm việc nhìn chung gặp phải sự nghi ngờ về phía người lao động trong hệ thống tư pháp và các công đoàn của họ. Ở Tây Ban Nha, người lao động trong hệ thống tư pháp thường theo một mô hình khác và theo chế độ làm việc ít khắt khe hơn so với các công chức khác. Ví dụ, các văn phòng làm việc của toà án thường không mở cửa vào buổi chiều. Do vậy, mọi nỗ lực nhằm đẩy nhanh hoạt động của các văn phòng của toà án thường gặp sự phản đối từ phía người lao động của toà án và công đoàn của họ. Thực tế này đã dẫn đến một số cuộc biểu tình, đình công làm tê liệt hoạt động của các toà án và ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh của hệ thống tư pháp trong con mắt của công chúng. Kể cả khi không có biểu tình thì việc tẩy chay ngầm các biện pháp cải cách cũng có thể khiến cho mọi sự thay đổi thất bại.
Vì vậy, việc đàm phán với các nhóm có liên quan và tham khảo ý kiến các khu vực bị ảnh hưởng, cũng như thu hút sự tham gia ngay từ đầu của họ là nhân tố quan trọng bảo đảm sự thành công của mọi cuộc cải cách. Mặc dù rất khó huy động được sự tham gia của tất cả các nhóm bị ảnh hưởng vào quá trình tham vấn và nhận được sự nhất trí hoàn toàn của tất cả các nhóm chịu ảnh hưởng (vì có những lợi ích khó có thể dung hoà) nhưng ít nhất việc tham vấn này sẽ giúp cho việc giải trình về cuộc cải cách, trong đó tạo cơ hội cho tất cả các bên có liên quan thể hiện ý kiến của họ. Đây là cách thức mà Hội đồng tư pháp quốc gia đã sử dụng trong quá trình soạn thảo Sách trắng về hệ thống tư pháp vào năm 1997 và Bản kiến nghị về cải cách hệ thống tư pháp vào năm 2000.
Về mặt này, Sách trắng về hệ thống tư pháp đã được soạn thảo sau khi các bảng câu hỏi chi tiết được gửi cho nhiều cơ quan, tổ chức (các hiệp hội thẩm phán, công tố viên, đoàn luật sư, chính quyền các khu tự trị, Thanh tra Nghị viện, các cơ quan chính phủ, toà án, các nhóm nghị sĩ và những cá nhân, tổ chức khác). Sau đó, kết quả lấy ý kiến được thảo luận và tiếp tục được làm rõ trong các cuộc phỏng vấn trực tiếp do một ban của Hội đồng tiến hành. Bản kiến nghị về cải cách hệ thống tư pháp được soạn thảo trên cơ sở các báo cáo từ các cơ quan quản lý của Toà án tối cao và của các toà thượng thẩm ở các khu tự trị.
Ngoài ra, còn một lý do khác tại sao lại cần phải có sự đồng thuận này. Tính chất phức tạp của nhiệm vụ cải cách tư pháp thường đòi hỏi mọi cuộc cải cách phải được thực hiện trong nhiều năm. Do vậy, các kế hoạch dài hạn phải được thiết kế trong các khía cạnh như tuyển chọn và đào tạo nhân lực hoặc cung cấp các nguồn lực kinh tế cần thiết. Những kế hoạch dài hạn này chỉ có thể được thực hiện nếu bảo đảm được rằng sẽ không có thay đổi trong chính phủ, nhân viên các bộ hoặc đa số trong nghị viện và sự thay đổi trong đảng cầm quyền không dẫn đến sự từ bỏ các mục tiêu đang theo đuổi hoặc bị thay thế bằng các mục tiêu khác. Để có được sự bảo đảm này cần phải có các dàn xếp thực chất về mặt chính trị trong các nhóm hoặc các đảng đóng vai trò chính trong đời sống xã hội. Các nhóm và các đảng cầm quyền, cũng như các đảng đối lập - vốn rốt cục có thể nắm quyền - phải cam kết theo đuổi các mục tiêu chính của công cuộc cải cách. Điều này sẽ giúp đạt được các mục tiêu dài hạn mà không cần phải có thay đổi trong Chính phủ và Nghị viện hay thay đổi trong các cơ quan thực hiện việc cải cách.
Ở Tây Ban Nha, việc cần thiết phải đạt được thoả thuận giữa Chính phủ và các đảng chính trị đối lập xuất phát từ việc, mặc dù có sự thoả thuận rộng rãi về nhu cầu cải cách và cải thiện hệ thống tư pháp, hai đảng chính trị chính (đại diện cho tư tưởng bảo thủ và cấp tiến), dẫu có nhiều mục đích chung, nhưng khác nhau về nhiều mục đích và cách thức tiến hành cải cách. Do đó, để thực hiện cải cách trong một khoảng thời gian nhất định và với những mục tiêu dài hạn, cần phải đạt được sự thoả thuận trong việc vạch ra các mục tiêu và cung cấp các nguồn lực cho một vài năm mà không sợ dự án bị ngừng trệ bởi sự thay đổi đảng cầm quyền. Sự thoả thuận này, vốn được Hội đồng tư pháp quốc gia kiến nghị nhiều lần, đã đạt được sau những cuộc đàm phán kéo dài. Thoả thuận bao gồm các quy định về cải cách các luật tố tụng (nhất là tố tụng hình sự), cách thức tuyển chọn nhân viên tư pháp và tổ chức của các toà án cũng như cung cấp các nguồn kinh phí trong giai đoạn 4 năm. Chính phủ và các đảng đối lập ký thoả thuận đã đồng ý ủng hộ việc hoạch định các mục tiêu, theo đó các đảng đối lập sẽ không cản trở nỗ lực của Chính phủ trong vấn đề này và các kế hoạch được thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu nói trên sẽ không bị thay đổi trong trường hợp thay đổi chính phủ.
Tất nhiên, hoàn toàn có thể đưa ra dự báo về tương lai của thoả thuận đó. Một Ban chỉ đạo của Nghị viện đã được thành lập trên cơ sở đa đảng nhằm giám sát việc thực hiện và tiến độ của các biện pháp đã đề ra. Một số cuộc cải cách đã và đang được thảo luận như: Hiến chương về các quyền cho những người sử dụng hệ thống tư pháp; mô hình mới về dịch vụ hành chính và việc áp dụng mô hình mới nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết một số vụ án hình sự. Việc thực hiện các biện pháp này trong tương lai gần sẽ là một dấu hiệu tốt về sự thành công của Chính phủ./.
Đặng Hoàng Oanh, Vụ Hợp tác quốc tế - Bộ Tư pháp
_________________________________
Bài viết có liên quan:
Hội đồng tư pháp quốc gia (Hội đồng) là cơ quan quản lý ngành tòa án. Luật cơ bản về toà án ngày 01/7/1985 quy định việc thành lập, hoạt động và kiểm soát các toà án và cơ quan xét xử khác. Luật này cũng quy định thành phần của Hội đồng tư pháp, chức năng của Hội đồng trong việc bổ nhiệm, đề bạt, kiểm tra và kỷ luật thẩm phán. Hội đồng gồm Chủ tịch là Chánh án Toà án tối cao và 20 thành viên do Nhà Vua bổ nhiệm trong nhiệm kỳ 5 năm.
Hội đồng tư pháp không phải là cơ quan xét xử (toà án), mà là cơ quan theo dõi và tổ chức của ngành tư pháp Tây Ban Nha. Một số chức năng chính của Hội đồng là: Bầu Chủ tịch Hội đồng trong số thành viên của mình và Chánh án Toà án tối cao; Đề cử, theo đa số 3/5 hai thẩm phán của Toà án Hiến pháp; Theo dõi, kiểm tra hoạt động của thẩm phán và toà án; Tuyển chọn, đào tạo, phân công công việc, quản lý hành chính, ban hành và thi hành các quy định và thủ tục về kỷ luật đối với thẩm phán; Bổ nhiệm thẩm phán, và với sự đánh giá của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, thẩm phán của Toà án tối cao, chánh án và thẩm phán toà án.
Hội đồng tư pháp còn có trách nhiệm báo cáo về tất cả các luật và quy định của Nhà nước và các Cộng đồng tự trị liên quan đến các vấn đề tư pháp; cho ý kiến về việc bổ nhiệm Tổng Chưởng lý của Nhà nước.