Bộ trưởng Lê Thành Long trình bày Tờ trình dự án Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi)

27/10/2016
Bộ trưởng Lê Thành Long trình bày Tờ trình dự án Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi)
Sáng 27/10, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình dự án Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi).
Bộ trưởng cho biết: Quốc hội khóa XI thông qua Luật Trợ giúp pháp lý (TGPL) ngày 29/6/2006 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy công tác TGPL phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu TGPL, góp phần nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật nói chung, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối tượng chính sách và người có hoàn cảnh khó khăn nói riêng. Trong 09 năm triển khai thi hành Luật TGPL, công tác TGPL đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Từ năm 2007 đến hết năm 2015, các tổ chức thực hiện TGPL đã giải quyết 1.055.294 vụ việc với 1.130.609 lượt người được TGPL, trong đó có 61.120 vụ việc tham gia tố tụng, 982.442 vụ việc tư vấn pháp luật (tư vấn pháp luật thông qua các đợt TGPL lưu động là 499.495 vụ), 11.732 vụ việc khác. Hệ thống tổ chức thực hiện TGPL đã được hình thành trên toàn quốc với 63 Trung tâm TGPL nhà nước (Trung tâm) trực thuộc Sở Tư pháp, 202 Chi nhánh của Trung tâm (Chi nhánh) ở cấp huyện và liên huyện, 364 tổ chức tham gia TGPL. Đội ngũ người thực hiện TGPL được củng cố với 595 Trợ giúp viên pháp lý, 1.239 cộng tác viên TGPL là luật sư, 10.632 cộng tác viên khác tham gia TGPL.
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Lê Thành Long, đứng trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, yêu cầu triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, nhiều đạo luật quan trọng mới được Quốc hội ban hành, nhiều chính sách cải cách được thông qua, trong đó có việc tăng cường cải cách pháp luật, cải cách tư pháp theo định hướng của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và yêu cầu chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, hoạt động TGPL đã bộc lộ những hạn chế, bất cập. Do đó, cùng với việc triển khai thực hiện Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 - 2025 thì việc nghiên cứu, sửa đổi Luật TGPL là cần thiết
 Bổ sung đối tượng được trợ giúp pháp lý
Xuất phát từ nguyên tắc TGPL được thực hiện cho những người không có khả năng tài chính thuê luật sư và nhằm bảo đảm sự đồng bộ của hệ thống văn bản pháp luật, đồng thời tiếp tục thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về giảm nghèo, người có công với cách mạng, dân tộc và chính sách an sinh khác, quy định về người được TGPL trong Luật này được thiết kế theo hướng:
 Kế thừa quy định người được TGPL từ Luật TGPL năm 2006 bao gồm: Người thuộc hộ nghèo; người có công với cách mạng; người dân tộc thiểu số thường trú tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người cao tuổi, trẻ em và người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn về tài chính.
 Bổ sung các đối tượngđược TGPL trong các luật ban hành sau Luật TGPL năm 2006 và Nghị định hướng dẫn Luật TGPL hiện hành bao gồm: nạn nhân trong vụ việc mua bán người có hoàn cảnh khó khăn về tài chính; trẻ em bị buộc tội; người nhiễm HIV có hoàn cảnh khó khăn về tài chính bị buộc tội.
 Bổ sung mới một số đối tượng chưa được pháp luật hiện hành quy định bao gồm: Người thuộc hộ cận nghèo bị buộc tội; nạn nhân trong vụ việc bạo lực trên cơ sở giới có hoàn cảnh khó khăn về tài chính.
Việc lựa chọn những người được TGPL quy định tại Điều 7 đã có sự cân nhắc kỹ bảo đảm phù hợp với bối cảnh, điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trên cơ sở cân đối nguồn lực về con người và ngân sách, nhằm mục tiêu TGPL được cung cấp cho những người thực sự có nhu cầu nhưng không có khả năng tài chính để thuê dịch vụ pháp lý, bảo đảm tính khả thi của pháp luật khi được ban hành. Chính phủ sẽ có quy định cụ thể về  người có “hoàn cảnh khó khăn về tài chính” tại Nghị định cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Quy định rõ phạm vi và hình thức thực hiện trợ giúp pháp lý theo đúng bản chất và yêu cầu của trợ giúp pháp lý
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Luật TGPL năm 2006 và định hướng đổi mới công tác TGPL của Chính phủ, Dự thảo Luật chỉ quy định 03 hình thức TGPL là: tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng theo hướng ưu tiên hoạt động tham gia tố tụng (khoản 2 Điều 26). So với Luật TGPL hiện hành, Dự thảo Luật đã bỏ các hình thức TGPL khác nhằm thực hiện chủ trương của Chính phủ nâng cao hiệu quả công tác TGPL, tránh dàn trải, nặng về hình thức và trùng lắp với các hoạt động theo Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật Hòa giải ở cơ sở... như hiện nay. Ngoài ra, Dự thảo Luật còn quy định nghĩa vụ của Trợ giúp viên pháp lý là bảo đảm chỉ tiêu vụ việc TGPL (điểm a khoản 2 Điều 23) và trong thời hạn 02 năm liên tục Trợ giúp viên pháp lý không thực hiện vụ việc tham gia tố tụng sẽ bị thu hồi thẻ (điểm đ khoản 1 Điều 20) nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực TGPL.
Nâng cao chất lượng dịch vụ và chuyên nghiệp hóa hoạt động trợ giúp pháp lý
Để nâng cao chất lượng TGPL, Dự thảo Luật đã bổ sung các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn của Trợ giúp viên pháp lý, cá nhân và tổ chức tham gia TGPL nhằm chuẩn hóa đội ngũ cung cấp dịch vụ TGPL phù hợp với điều kiện hoàn cảnh hiện nay của đất nước.
Về Trợ giúp viên pháp lý (Điều 18 - Điều 22, khoản 1 và khoản 2 Điều 23, Điều 24): So với Luật TGPL năm 2006 và Nghị định hướng dẫn thi hành Luật TGPL năm 2006, Dự thảo Luật đã bổ sung 01 điểm mới để trở thành Trợ giúp viên pháp lý, đó là yêu cầu phải qua tập sự hành nghề để có kỹ năng cần thiết (Điều 19).
 Về tổ chức và người tham gia TGPL: Nhằm hướng đến nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL, Dự thảo Luật đã chọn lọc, kế thừa yếu tố hợp lý từ quy định hiện hành, đồng thời đưa ra những điều kiện cần thiết (Điều 12) để lựa chọn, ký hợp đồng thực hiện TGPL; duy trì cơ chế đăng ký tham gia thực hiện TGPL (khoản 1 Điều 14) nhằm huy động được các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật có kinh nghiệm, uy tín tham gia thực hiện TGPL. Nhà nước kiểm tra, giám sát, kiểm soát chất lượng do các chủ thể này thực hiện. So với Luật TGPL hiện hành, bên cạnh cơ chế huy động bằng đăng ký tham gia TGPL, Dự thảo Luật đã bổ sung cơ chế ký hợp đồng để lựa chọn các tổ chức và người tham gia TGPL có khả năng cung cấp dịch vụ TGPL chất lượng.
Với định hướng tập trung vào vụ việc TGPL, đặc biệt là các vụ việc tham gia tố tụng và nâng cao chất lượng dịch vụ, Dự thảo Luật không quy định chế định cộng tác viên TGPL. Bởi lẽ, theo quy định Luật TGPL năm 2006 thì yêu cầu về trình độ Cộng tác viên TGPL không đồng đều, cả những người không có trình độ pháp luật như già làng, trưởng bản... cũng được TGPL, do đó chất lượng của dịch vụ không cao. Ngoài ra, pháp luật hiện hành không cấm những người có kiến thức pháp luật và tự nguyện giúp người khác tìm hiểu, giải đáp pháp luật theo quy định của pháp luật có liên quan, nhưng đó không phải là TGPL theo quy định của Luật TGPL. Hiện nay, việc cung cấp các dịch vụ miễn phí này đang được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 77/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/7/2008 về tư vấn pháp luật.
Như vậy, dù sử dụng nguồn lực của Nhà nước thông qua việc ký hợp đồng hay sử dụng nguồn lực của chính mình thông qua việc đăng ký tham gia, tất cả các cá nhân, tổ chức thực hiện TGPL đều phải bảo đảm chất lượng dịch vụ TGPL cho người được TGPL thông qua các quy định chặt chẽ về điều kiện, tiêu chuẩn, quyền và nghĩa vụ liên quan.
Tinh gọn, nâng cao hiệu quả tổ chức trợ giúp pháp lý của nhà nước; đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý
Về tinh gọn tổ chức thực hiện TGPL của Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động: Thực hiện chủ trương tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và nâng cao hiệu quả công tác TGPL, Dự thảo Luật không quy định Chi nhánh với tư cách là một tổ chức của Trung tâm cũng như việc thành lập mới các Chi nhánh. Chính phủ đang rà soát và nâng cao chất lượng hoạt động của các Chi nhánh đã được thành lập mà không tiếp tục thành lập mới các Chi nhánh mới (đây là giải pháp được nêu và đang triển khai theo Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 - 2025). Dự thảo Luật có quy định chuyển tiếp để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của các Chi nhánh này (Điều 48).
Về đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động TGPL: Mặc dù còn có ý kiến đề nghị thu hẹp phạm vi điều chỉnh nhưng Chính phủ đã thống nhất chủ trương thu hút, huy động các cá nhân, tổ chức tham gia TGPL bằng nguồn lực của chính họ, cụ thể:
+ Về tổ chức tham gia TGPL (khoản 2 Điều 10, Điều 12 - Điều 15, khoản 2 và khoản 3 Điều 16) là tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật có tư cách pháp nhân thực hiện TGPL theo hai phương thức: (1) hợp đồng thực hiện TGPL với cơ quan quản lý TGPL bằng nguồn lực nhà nước; (2) đăng ký thực hiện TGPL bằng nguồn lực của mình.
+ Về người tham gia TGPL (khoản 2 và khoản 3 Điều 17): Dự thảo Luật quy định người tham gia TGPL bao gồm: (1) luật sư (có 02 phương thức thực hiện TGPL là ký hợp đồng và theo phân công của tổ chức tham gia TGPL); (2) tư vấn viên pháp luật có 05 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức thực hiện TGPL, qua đó tối đa hóa nguồn lực con người và nâng cao chất lượng, hiệu quả TGPL.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy đa số các nước đang thiết kế theo mô hình hỗn hợp Nhà nước và xã hội cùng thực hiện TGPL như Bang Victoria (Úc), Nam Phi, Singapore, Hà Lan, Hàn Quốc... Nhiều nước trên thế giới thực hiện cơ chế lựa chọn và ký hợp đồng với tổ chức cung cấp TGPL để đảm bảo chất lượng như Indonesia, Úc, Mỹ, Vương quốc Anh, Nhật Bản, Thái Lan… Việc thu hút luật sư tư vào công tác TGPL cũng phù hợp với xu thế chung của các nước trên thế giới.
                                                Thu Hằng
Để tạo thuận lợi hơn cho người dân tiếp cận và sử dụng dịch vụ TGPL, Dự thảo Luật bổ sung cơ chế cho phép người được TGPL gửi đơn yêu cầu TGPL qua hệ thống trực tuyến điện tử để được xem xét, chấp nhận thụ lý vụ việc (khoản 2 Điều 28); việc yêu cầu TGPL có thể do tổ chức, cá nhân khác yêu cầu cho người được TGPL (khoản 1 Điều 28); quy định phải trả lời ngay về việc thụ lý sau khi kiểm tra các nội dung yêu cầu TGPL (khoản 2 Điều 29); quy định trường hợp thụ lý yêu cầu TGPL khi chưa có giấy tờ chứng minh là người được TGPL nếu có căn cứ đòi hỏi phải thực hiện TGPL ngay nhằm tạo cơ chế linh hoạt trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL (khoản 3 Điều 29).
Bên cạnh đó, để kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL trong quá trình tố tụng, Dự thảo Luật đã quy định trong thời hạn là 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị của người được TGPL, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm tại địa phương để đề nghị cử người thực hiện TGPL tham gia tố tụng (khoản 3 khoản 31); trong thời hạn không quá 12 giờ kể từ khi thụ lý vụ việc, tổ chức thực hiện TGPL phải cử người thực hiện TGPL trong trường hợp người được TGPL là người bị bắt yêu cầu TGPL (khoản 2 khoản 31).