Với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự quyết tâm, nỗ lực trong hành động của Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành, địa phương, năm 2019, chỉ số Chi phí tuân thủ pháp luật (Chỉ số B1) của Việt Nam đã được nâng cao về điểm số và thứ hạng, góp phần nâng cao thứ hạng về cải thiện năng lực cạnh tranh của Việt Nam theo GCI 4.0. Theo đó, năm 2019, chỉ số B1 của Việt Nam đạt 3.4/7 (tăng 0.3 điểm so với năm 2018), tương ứng với số điểm 39.8 /100 (trong khi đó, năm 2018 chỉ đạt 34.6/100), xếp thứ 79/141 nước (tăng 17 bậc so với năm 2018).
Chỉ số Chi phí tuân thủ pháp luật (Chỉ số B1) là một trong những chỉ số có ảnh hưởng đến việc đánh giá về năng lực cạnh tranh theo chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 (GCI 4.0). Năm 2018, năng lực cạnh tranh của Việt Nam mới ở mức trung bình khá trên bình diện quốc tế (xếp thứ 77/140 về năng lực cạnh tranh). Trong khu vực ASEAN, Việt Nam vẫn chưa vào nhóm 4 nước dẫn đầu (đứng thứ 7 về năng lực cạnh tranh)
[1]. Mục tiêu Chính phủ đề ra là phấn đấu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của Việt Nam thuộc nhóm ASEAN 4. Trong đó, nâng xếp hạng Năng lực cạnh tranh – GCI 4.0 (của Diễn đàn kinh tế thế giới - WEF) tăng 5-10 bậc; trong năm 2019 tăng 3-5 bậc
[2]. Chỉ số B1 là một trong 10 chỉ số mà Chính phủ đưa ra mục tiêu nâng xếp hạng nhằm góp phần cải thiện năng lực cạnh tranh theo GCI 4.0
[3].
Năm 2018, Chỉ số B1 của Việt Nam đạt 3.1 trên thang điểm 7, tương ứng với 34.6 (giảm) trên thang điểm 100, đứng thứ 96/140 nước – Đây là điểm số và thứ hạng thấp so với 140 nước và là nước có điểm số và thứ hạng về chỉ số B1 thấp nhất trong khu vực ASEAN.
Trước thực trạng chỉ số B1 năm 2018 của Việt Nam như đã nêu ở trên, năm 2019, Chính phủ đặt ra mục tiêu từ năm 2019 đến năm 2021 nâng xếp hạng chỉ số B1 của Việt Nam lên từ 5-10 bậc, năm 2019 ít nhất 2 bậc
[4] và nhiệm vụ này được giao cho Bộ Tư pháp – cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm đối với chỉ số B1. Theo đó, hướng đến mục tiêu đạt được kết quả nâng xếp hạng chỉ số B1 lên từ 5-10 bậc, thì năm 2019 đặt ra mục tiêu tăng chỉ số B1 ít nhất 2 bậc. Năm 2020 tăng chỉ số B1 lên từ 3-5 bậc và năm 2021 tăng chỉ số B1 lên từ 5-10 bậc
[5].
Thời gian qua, thực hiện nhiệm vụ được Chính phủ giao, Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành, địa phương đã nỗ lực trong việc triển khai nhiệm vụ nâng xếp hạng chỉ số B1
[6]. Theo đó, Bộ Tư pháp đã ban hành tài liệu hướng dẫn Bộ, ngành, địa phương về chỉ số B1
[7]; Tổ chức Hội nghị về các giải pháp cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật
[8]; Tiếp tục đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương thực hiện chỉ số B1
[9]; Kết nối với tổ chức quốc tế có liên quan
[10]; Tăng cường công tác truyền thông thực hiện chỉ số B1
Về phía các Bộ, ngành và địa phương đã quan tâm, chỉ đạo triển khai các nhiệm vụ, giải pháp để giảm chi phí tuân thủ pháp luật, nâng xếp hạng chỉ số B1 như thực hiện rà soát, đánh giá các quy định pháp luật liên quan đến chi phí tuân thủ pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ, ngành và địa phương; Thực hiện tiếp nhận, xử lý các phản ánh, kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp trực tiếp liên quan đến cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong thực thi công vụ, xử lý nghiêm minh các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực trong thi hành pháp luật; Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nhất là trong các lĩnh vực phát sinh chi phí tuân thủ pháp luật.
Có thể thấy, với sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Chính phủ, sự quyết tâm, nỗ lực của Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành, địa phương, năm 2019, chỉ số B1 của Việt Nam đã được nâng cao về điểm số và thứ hạng, góp phần nâng cao thứ hạng về cải thiện năng lực cạnh tranh của Việt Nam theo GCI 4.0. Theo Báo cáo cạnh tranh toàn cầu năm 2019, công bố ngày 08/10/2019 của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF)
[11], chỉ số B1 của Việt Nam đạt 3.4/7 (tăng 0,3 điểm so với năm 2018, năm 2018 đạt 3.1/7), tương ứng với số điểm 39.8 (tăng)/100 (năm 2018, đạt 34.6/100), xếp thứ 79/141 nước và đứng vị trí thứ 7 trong các nước ASEAN.
Như vậy, năm 2019, Việt Nam đã cải thiện về điểm số và vị trí xếp thứ hạng về chỉ số B1 so với năm 2018, theo đó, điểm số và vị trí xếp hạng của Việt Nam về chỉ số B1 được nâng lên 17 bậc so với năm 2018. Đây có thể nói là số bậc vượt chỉ tiêu mà Chính phủ đã đề ra trong Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021. Chỉ số này là một trong các chỉ số góp phần quan trọng trong việc cải thiện năng lực cạnh tranh của Việt Nam theo GCI 4.0. Theo đó, năm 2019 năng lực cạnh tranh của Việt Nam xếp thứ 67/141 nước (tăng 10 bậc so với năm 2018
[12], đạt và vượt chỉ tiêu mà Nghị quyết số 02/NQ-CP đề ra: Nâng xếp hạng Năng lực cạnh tranh – GCI 4.0 (của WEF) tăng 5-10 bậc; trong năm 2019 tăng 3-5 bậc). Kết quả đạt được trong năm 2019 của Việt Nam theo đánh giá của WEF về chỉ số B1, năng lực cạnh tranh… sẽ là những căn cứ để Chính phủ tiếp tục có sự quan tâm, chỉ đạo và đề ra những nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục duy trì và cải thiện chỉ số B1 và cải thiện Năng lực cạnh tranh trong những năm tiếp theo.
Nguyễn Thị Minh Phương, Phó Cục trưởng Cục QLXLVPHC&TDTHPL
[1] Xem: Chính phủ (2019), Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021, phần I.
[2] Xem: Chính phủ (2019), Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021, điểm b mục 1 phần II.
[3] Xem: Chính phủ (2019), Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021, điểm b khoản 1 mục II.
[4] Xem: Chính phủ (2019), Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021, điểm b mục 2 phần II.
[5] Xem: Bộ Tư pháp (2019), Tài liệu hướng dẫn nâng xếp hạng chỉ số chi phí tuân thủ pháp luật (Kèm theo Công văn số 1083/BTP-QLXLVPHC&TDTHPL ngày 29/3/2019 của Bộ Tư pháp), mục 2 phần II.
[6] Công văn số 340/QLXLVPHC&TDTHPL-THPL ngày 21/6/2019 của Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật về việc cập nhật tình hình, kết quả thực hiện các nhiệm vụ nâng xếp hạng chỉ số B1.
[7] Công văn số 1083/BTP-QLXLVPHC&TDTHPL ngày 29/3/2019.
[8] Tại Hà Nội (ngày 12/4/2018) và Thành phố Hồ Chí Minh (ngày 16/4/2018).
[9] Công văn số 1777/BTP-QLXLVPHC&TDTHPL ngày 17/5/2019 và Công văn số 3710/BTP-QLXLVPHC&TDTHPL ngày 25/9/2019 của Bộ Tư pháp.
[10] Bộ Tư pháp đã kết nối với tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) có trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ để trao đổi về một số nội dung mà Bộ Tư pháp quan tâm về Chỉ số B1, đồng thời, tổ chức tọa đàm trực tuyến giữa Bộ Tư pháp và chuyên gia của WEF để tiếp tục trao đổi, làm rõ những nội dung liên quan đến việc nâng xếp hạng chỉ số B1 vào chiều ngày 18/6/2019.
[12] Năm 2018 năng lực cạnh tranh của Việt Nam xếp thứ 77/140 nước.