Khóa học ngắn hạn tại Nhật Bản của đoàn cán bộ trẻ Bộ Tư pháp

10/12/2016
Khóa học ngắn hạn tại Nhật Bản của đoàn cán bộ trẻ Bộ Tư pháp
Trong thời gian từ ngày 21/11/2016 đến ngày 02/12/2016, Đoàn cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn sâu của Bộ Tư pháp được cử đi học khóa học ngắn hạn về nghề tư pháp tại Nhật Bản.
Những nội dung chính mà đoàn đã được tìm hiểu trong thời gian học tập tại Nhật bản bao gồm: Tổng quan về nghề luật ở Nhật Bản, hệ thống hỗ trợ tư pháp ở Nhật Bản, luật tố tụng hình sự, trợ giúp pháp lý, cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án, vấn đề sở hữu trí tuệ, thi hành dân sự, vấn đề hành chính bảo vệ quyền con người, tìm hiểu về Liên đoàn Luật sư của Nhật Bản, giải quyết tranh chấp thông qua cơ chế trọng tài... Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu một số nội dung cơ bản về nghề tư pháp ở Nhật Bản:
1. Về đào tạo các chức danh tư pháp ở Nhật Bản
Hiện nay, Nhật Bản đang áp dụng hệ thống đào tạo nghề tư pháp mới từ năm 2011 với mục tiêu tổng quát là nhằm thích nghi với xu thế toàn cầu hóa trong giáo dục đại học, trong đó, các mục tiêu cụ thể được xác định là tạo cầu nối giữa giáo dục lý thuyết và giáo dục thực tiễn; khuyến khích học viên tham gia học tập tại các trường luật chuyên nghiệp (Law schools); tạo sự bình đẳng và minh bạch trong hệ thống kiểm tra, đánh giá.
Về cơ bản, hệ thống đào tạo nghề tư pháp gồm các bước: (i) Đối với những người có bằng cử nhân ngành Luật (LL.B) hoặc ngành khác: Cử nhân sẽ phải tham dự khóa đào tạo luật chuyên nghiệp kéo dài từ 2 - 3 năm (đào tạo J.D) hoặc phải vượt qua kì thi dự bị tư pháp quốc gia (Preliminary Bar Examination) trước khi tham dự kì thi tư pháp quốc gia (Bar Examination). Những ứng viên vượt qua kì thi tư pháp quốc gia (thi trắc nghiệm và thi viết về luật hiến pháp, hành chính; luật dân sự, tố tụng dân sự; luật hình sự, tố tụng hình sự…) sẽ tiếp tục thực tập nghề luật (judicial apprenticeship) trong thời gian 01 năm và dự thi kì thi tư pháp quốc gia lần 2 (Secondary Bar Examination) trước khi trở thành trợ lý thẩm phán, công tố viên hoặc luật sư… (ii) Đối với người chưa có bằng cử nhân: Những ứng viên này sẽ bắt buộc phải vượt qua kì thi dự bị tư pháp quốc gia trước khi tham dự kì thi tư pháp quốc gia (Bar Examination).
So với hệ thống đào tạo nghề luật trước năm 2011, hệ thống mới đã nâng cao tỉ lệ đỗ kì thi tư pháp quốc gia lên nhiều lần. Do bổ sung việc tham gia khóa đào tạo luật chuyên nghiệp và kì thi tư pháp quốc gia dự bị, theo đó, chất lượng ứng viên tham gia kì thi tư pháp quốc gia được nâng cao. Điều này khuyến khích ứng viên tham gia học tập khóa học luật chuyên nghiệp thay vì chỉ tập trung vào các khóa học liên quan đến các môn thi của kì thi tư pháp quốc gia. Đối với các ứng viên chưa có bằng cử nhân, các ứng viên vượt qua kì thi dự bị có thể bỏ qua chương trình học luật chuyên nghiệp. Theo hệ thống đào tạo mới, thời gian thực hành nghề luật cũng được rút xuống từ 02 năm còn 01 năm.
Điểm khác biệt so với Việt Nam là chương trình đào tạo này là một chương trình học và thi chung. Trong suốt quá trình học, học viên sẽ chưa biết mình sau khi tốt nghiệp, sẽ là thẩm phán, luật sư hay công tố viên. Tất cả các kỹ năng của cả ba chức danh này đều được học như nhau. Quy định này xuất phát từ quan niệm cho rằng, để nền tư pháp phát triển, trình độ và năng lực của ba chức danh tư pháp là thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư phải đồng đều, phải được đào tạo trong một điều kiện như nhau. Sau khi vượt qua kì thi tư pháp quốc gia lần 2 (Secondary Bar Examination), các ứng viên bắt đầu lựa chọn nghề cụ thể và thực tập để chuyên sâu cho nghề/ công việc đã lựa chọn.  
2. Tố tụng hình sự ở Nhật Bản
Mô hình tố tụng hình sự của Nhật Bản là mô hình tố tụng thiên về tranh tụng, trình tự giải quyết vụ án được chia làm 03 giai đoạn: Điều tra, truy tố và xét xử. Mỗi giai đoạn đều có đặc trưng riêng.
Giai đoạn điều tra có sự tham gia của ba cơ quan là cơ quan cảnh sát, Viện công tố và Tòa án. Cơ quan Cảnh sát và Viện công tố tiến hành điều tra phát hiện tội phạm, Tòa án ban hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam theo đề nghị của cơ quan điều tra, Viện công tố. Ở giai đoạn điều tra, quyền gặp luật sư và quyền giữ im lặng được bảo đảm cho người bị tình nghi. Thời gian tạm giam để điều tra rất ngắn, tổng thời gian tạm giam là 23 ngày kể từ khi bắt người (23day Rule - Taiho, Điều 246 Bộ luật Tố tụng hình sự). Giai đoạn điều tra bắt đầu khi tiếp nhận tin báo về tội phạm và kết thúc khi hồ sơ vụ án gửi sang cơ quan công tố.
Giai đoạn truy tố gắn liền chỉ với vai trò cơ quan công tố và Công tố viên với quyền tùy nghi truy tố.
Giai đoạn xét xử được thực hiện theo nguyên tắc tranh tụng, có sự tham gia của Thẩm phán, Công tố viên, luật sư bào chữa.
3. Trợ giúp pháp lý ở Nhật Bản
Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhật Bản (JLSC) được thành lập theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2004, là hệ thống tổ chức chính thực hiện việc trợ giúp pháp lý. JLSC là tổ chức công được thành lập với kinh phí từ ngân sách nhà nước. Khung quản lý, điều hành của hệ thống này được thực hiện theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2004 của Nhật Bản. Theo đó, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nhật Bản có thẩm quyền chỉ đạo JLSC để hoàn thành các mục tiêu trung hạn (4 năm) và hàng năm do Bộ trưởng đề ra. Chủ tịch JLSC được bổ nhiệm bởi Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nhật Bản sau khi có ý kiến của Tòa án tối cao. JLSC được hoạt động độc lập để nâng cao chất lượng dịch vụ và hoàn thành các chỉ tiêu theo chỉ đạo. Mọi hoạt động của hệ thống này phải đảm bảo nguyên tắc công bằng, minh bạch và công khai.
- Các cơ quan trực tiếp thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm: Trung tâm trợ giúp pháp lý được thành lập tại địa phương có trụ sở của tòa án quận; Chi nhánh của Trung tâm trợ giúp pháp lý được thành lập tại thành phố có dân số đông hoặc có nhiều vụ việc phải tham gia tố tụng mà Trung tâm trợ giúp pháp lý tại quận không thể đáp ứng hết nhu cầu; Tiểu chi nhánh; Văn phòng luật tại các khu vực nông thôn nơi không có hoặc có rất ít luật sư.
- Điều kiện để được trợ giúp pháp lý: Về thu nhập (thu nhập hàng tháng hoặc tổng tài sản phải dưới mức nhất định); khả năng thành công của vụ việc; sự phù hợp với mục đích trợ giúp pháp lý.
- Về người thực hiện trợ giúp pháp lý: Ở Nhật Bản, người thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm luật sư nhân viên do Nhà nước trả lương hàng tháng và luật sư tư ký hợp đồng với tổ chức trợ giúp pháp lý. Tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ của luật sư nhân viên và luật sư tư là như nhau, đều phải là thành viên của Liên đoàn Luật sư Nhật Bản.
- Lĩnh vực trợ giúp pháp lý: Các Trung tâm trợ giúp pháp lý, Chi nhánh, Tiểu chi nhánh và Văn phòng luật thực hiện trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực dân sự (bao gồm hành chính, hôn nhân gia đình) và lĩnh vực hình sự.
- Các Trung tâm trợ giúp pháp lý, Chi nhánh, Tiểu chi nhánh và Văn phòng luật cung cấp các loại dịch vụ trợ giúp pháp lý sau:
+ Cung cấp thông tin;
+ Trợ giúp pháp lý dân sự;
+ Trợ giúp pháp lý cho bị cáo trong vụ án hình sự;
+ Giúp đỡ những nơi dịch vụ pháp lý hạn chế;
+ Hỗ trợ nạn nhân tội phạm.
Đối tượng trợ giúp pháp lý có thể đến Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhật Bản hoặc văn phòng luật sư tư đã ký hợp đồng với Cơ quan Trợ giúp pháp lý Nhật Bản để yêu cầu trợ giúp pháp lý, các luật sư giới thiệu đối tượng đến Trung tâm trợ giúp pháp lý, Chi nhánh hoặc Tiểu chi nhánh để kiểm tra điều kiện trợ giúp pháp lý, nếu khẳng định đối tượng đủ điều kiện trợ giúp pháp lý thì luật sư mới thụ lý, giải quyết vụ việc.
Một điểm đáng chú ý là đối với lĩnh vực trợ giúp pháp lý dân sự, về việc hỗ trợ tài chính, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhật Bản chỉ đóng vai trò như một hệ thống cho người sử dụng dịch vụ vay trước để trả các khoản phí pháp lý và phí dịch vụ. Người yêu cầu được trợ giúp pháp lý phải đồng ý trả góp các khoản phí sau đó. Tùy vào tình hình tài chính của người nhận trợ giúp pháp lý, các khoản trả góp có thể được hoãn hoặc miễn (tuy nhiên, có rất ít trường hợp được miễn).
Việc chỉ định luật sư cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý trong các vụ việc hình sự hiện nay luật sư mới chỉ được tiếp cận từ giai đoạn điều tra. Song để bảo đảm quyền được bào chữa (quyền tiếp cận trợ giúp pháp lý) và quyền giữ im lặng của người phạm tội, từ năm 2018, luật sư sẽ được tiếp cận để thực hiện trợ giúp pháp lý ngay từ giai đoạn đối tượng bị bắt giữ.
Ngoài ra, trong vụ việc tham gia tố tụng, vụ việc có tính chất nghiêm trọng mà đối tượng trợ giúp pháp lý là người có nhược điểm về tâm thần thì Cơ quan Trợ giúp pháp lý Nhật Bản sẽ cho vay tiền để chi trả chi phí cho bác sĩ tâm lý tham gia cùng. Nếu vì lý do bệnh tật mà đối tượng không thể trực tiếp đến thì Trung tâm trợ giúp pháp lý, Chi nhánh, Tiểu chi nhánh, Văn phòng luật sẽ cử luật sư đến tận nơi ở hoặc bệnh viện để tiếp nhận và tư vấn.
4. Về hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
Hiện nay ở Nhật Bản, do vấn đề già hóa dân số nên thị trường trong nước bị thu hẹp nhu cầu nộp đơn đăng ký quyền sở hữu trí tuệ trong nước giảm. Các doanh nghiệp Nhật Bản tìm hướng phát triển ra thị trường nước ngoài, trong đó có các nước ASEAN. Để giúp các doanh nghiệp Nhật Bản bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ khi gia nhập thị trường các nước, Cục Sở hữu trí tuệ Nhật Bản đã nỗ lực hợp tác với Cơ quan Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) và JICA trong việc giới thiệu hệ thống pháp luật và áp dụng pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ của các nước ASEAN đến các doanh nghiệp Nhật Bản. Trong những trường hợp cần thiết, hỗ trợ cải cách hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của các nước ASEAN và giới thiệu pháp luật về sở hữu trí tuệ của Nhật Bản đến các nước ASEAN.
Theo pháp luật Nhật Bản, thì quyền sở hữu trí tuệ là tài sản có thể thế chấp ở ngân hàng. Tuy nhiên, khó khăn đặt ra là làm thế nào để định giá được chính xác giá trị của quyền sở hữu trí tuệ (hiện nay chưa có phương pháp tính thống nhất, chủ yếu sử dụng phương pháp kế toán do ngân hàng cho vay hoặc doanh nghiệp muốn vay xác định, hoặc xác định giá trị của các sáng chế đó trên cơ sở giá trị của doanh nghiệp). Nhà nước cũng đang huy động sự tham gia của hệ thống ngân hàng vào việc này mặc dù ngân hàng có thể có những rủi ro. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu phát triển đất nước thì việc chấp nhận rủi ro là việc cần thiết.
5. Thi hành dân sự
Luật về lĩnh vực này, ở Nhật Bản gọi là Luật Thi hành dân sự (Law on civil execution), còn ở Việt Nam gọi là Luật Thi hành án dân sự.
Về phạm vi điều chỉnh, Luật Thi hành dân sự Nhật Bản quy định chủ yếu về cưỡng chế thi hành, bán đấu giá để thực hiện quyền bảo đảm, bán đấu giá để chuyển thành tiền và việc công khai tài sản của bên có nghĩa vụ (gọi chung là thi hành dân sự). Cưỡng chế thi hành được thực hiện dựa trên các "chứng thư nghĩa vụ dân sự".
 Theo Luật Thi hành dân sự thì cơ quan thi hành dân sự của Nhật Bản gồm có Tòa thi hành và Chấp hành viên. Đối với việc thi hành định đoạt dân sự do Tòa án tiến hành thì Tòa án có nghĩa vụ thi hành theo quy định của Luật Thi hành dân sự là Tòa thi hành, đối với việc thi hành định đoạt dân sự do Chấp hành viên tiến hành thì Tòa án địa phương mà Chấp hành viên trực thuộc sẽ là Tòa thi hành.
Để được làm Chấp hành viên phải có 10 năm làm công tác pháp luật, trừ một số đối tượng khác. Có kỳ thi tuyển dụng, mở rộng cho tất cả mọi người dân đều được thi. Mỗi năm 01 lần thi tuyển theo biên chế số lượng, biên chế mỗi năm mỗi thay đổi. Đề thi thống nhất trên toàn quốc nhưng mỗi Toà tổ chức riêng. Chấp hành viên có thể được chuyển công tác từ nơi này đến nơi khác. Chấp hành viên của Nhật Bản không hưởng lương mà thu nhập bằng phí thủ tục do người được thi hành án nộp. Chấp hành viên không bổ nhiệm theo nhiệm kỳ.
Các thủ tục thi hành dân sự ở Nhật Bản bao gồm: Cưỡng chế thi hành, thi hành bảo đảm, bán đấu giá hình thức, công khai tài sản.
6. Hành chính bảo vệ quyền con người
Cơ quan bảo vệ nhân quyền của Bộ Tư pháp, bao gồm hai nhóm: Nhóm 1: Cục Bảo vệ nhân quyền thuộc Bộ Tư pháp, Cục Pháp chế, Sở Tư pháp địa phương; Nhóm 2: Ủy viên bảo vệ nhân quyền. Các cơ quan bảo vệ nhân quyền này đều là thiết chế trung ương, do trung ương quản lý.
Các cơ quan bảo vệ nhân quyền của Bộ Tư pháp bao gồm những hoạt động như: Tư vấn về nhân quyền (các trường hợp tư vấn như: Bị bắt nạt tại trường học, bị xâm phạm quyền riêng tư trên internet, trẻ em bị ngược đãi...); trợ giúp điều tra (các cơ quan này tham gia ở vị trí trung lập với tư cách một cơ quan nhà nước, việc điều tra được tiến hành khi có sự hợp tác tự nguyện của người có liên quan và biện pháp hỗ trợ này không có tính cưỡng chế); nâng cao nhận thức về quyền con người.
Ủy viên bảo vệ nhân quyền là công dân được Bộ trưởng Bộ Tư pháp ủy nhiệm, là những người làm những ngành nghề khác nhau (như giáo viên, luật sư, bác sĩ...). Họ thực hiện công việc như một tình nguyện viên, chủ yếu phụ trách việc nâng cao nhận thức về nhân quyền, tư vấn về nhân quyền và không hưởng lương.
Tư vấn về nhân quyền do nhân viên Cục Pháp chế và ủy viên bảo vệ nhân quyền thực hiện, những người được tư vấn không mất phí, không cần thủ tục phức tạp và được bảo mật thông tin tuyệt đối.
7. Pháp luật về giải quyết tranh chấp và trọng tài ở Nhật Bản
Luật về giải quyết tranh chấp của Nhật Bản được ban hành năm 2004, theo đó, hòa giải và trọng tài là phương pháp giải quyết tranh chấp dân sự giữa các bên không thông qua khởi kiện với sự tham gia của bên thứ ba công tâm. Tại Nhật Bản, giải quyết tranh chấp ngoài tòa án được trển khai trên ba lĩnh vực tư pháp hình sự; hành chính và lĩnh vực tư. Mục tiêu của cơ chế giải quyết tranh chấp là nhằm đưa ra quy trình giải quyết tranh chấp phát sinh nhanh chóng, thuận tiện và bảo vệ được quyền lợi của các bên.
Trọng tài là cơ chế giải quyết tranh chấp hiện đại và phát triển trong thời gian gần đây, áp dụng đối với tranh chấp trong nước và quốc tế. Đạo luật về trọng tài ban hành và có hiệu lực từ 01/3/2004 thay thế cho đạo luật cũ ban hành từ năm 1890. Về cơ bản, nội dung của Luật trọng tài ở Nhật Bản tương thích với UNCITRAL, có bổ sung một số quy định cho phù hợp với truyền thống pháp luật và điều kiện đặc thù của Nhật.
Tại Nhật Bản, Luật Trọng tài áp dụng đối với cả trọng tài trong nước và trọng tài quốc tế, không phân biệt giữa trọng tài thương mại và trọng tài phi thương mại. Khái niệm phán quyết trọng tài nước ngoài theo Luật Trọng tài Nhật Bản tương thích với quy định của Công ước NewYork năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, theo đó phán quyết của trọng tài nước ngoài là phán quyết được tuyên ngoài lãnh thổ của Nhật Bản. Nhật Bản có quy định về xử phạt hình sự đối với tội tham nhũng của trọng tài. Hầu như các phán quyết của trọng tài đều được toà án trong nước công nhận và cho thi hành, góp phần nâng cao hiệu quả của phương thức trọng tài.
Trong pháp luật về trọng tài ở Nhật bản, quy định về khoản tài trợ của bên thứ ba (Third Party Funding) thể hiện nét đặc thù riêng và tiến bộ. Bên thứ ba không phải là các bên tranh chấp, sẽ chấp thuận trả các chi phí trọng tài cho một bên để đổi lại một thỏa thuận nhất định, ở đây khoản tài trợ này gần giống như một khoản đầu tư. Trường hợp bên được chi trả thắng vụ việc, bên thứ ba sẽ có quyền nhận được nghĩa vụ đã thỏa thuận từ phía bên được chi trả này, ngược lại, nếu vụ việc bị thua, bên thứ ba sẽ không thu lại được khoản tiền tài trợ đó. Có thể nói, chế định này giống như quy định về một thỏa thuận đầu tư có rủi ro giữa một bên tranh chấp và bên thứ ba.
8. Liên đoàn Luật sư Nhật Bản
Liên đoàn Luật sư Nhật Bản được thành lập ngày 01/9/1949, là pháp nhân được thành lập dựa trên Luật Luật sư. Theo quy định của pháp luật Nhật Bản, thì Liên đoàn Luật sư có quyền thẩm tra tư cách đăng ký luật sư, kỷ luật luật sư; quyền giám sát đối với Đoàn Luật sư địa phương (quyền này chỉ mang tính hạn chế). Liên đoàn Luật sư và Đoàn Luật sư hoạt động độc lập nhau. Đoàn Luật sư được thành lập tại các địa phương tương ứng với khu vực thẩm quyền của các Tòa án khu vực. Riêng ở Tokyo, vì lý do phát triển nên có ba Đoàn Luật sư được thành lập.
Đoàn Luật sư là đơn vị quản lý trực tiếp các luật sư mà không phải là Chính phủ hay Bộ Tư pháp. Để thực hiện triệt để chế độ tự quản, Liên đoàn Luật sư không nhận sự hỗ trợ tài chính từ Nhà nước mà hoạt động thông qua hội phí được đóng góp từ các hội viên.
Hoạt động chủ yếu của Liên đoàn Luật sư là: Những hoạt động bảo đảm nhân quyền, hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai, giáo dục pháp luật, cải thiện khả năng tiếp cận nền tư pháp và hoạt động quốc tế.
Về kỷ luật luật sư: Luật Luật sư Nhật Bản quy định một cách trìu tượng, theo đó, luật sư thực hiện hành vi không chính đáng sẽ bị kỷ luật. Liên đoàn Luật sư xây dựng những quy tắc cơ bản để kỷ luật luật sư. Ở Nhật Bản, bất kỳ ai cũng có thể yêu cầu kỷ luật luật sư. Trên Tạp chí của Liên đoàn Luật sư Nhật Bản sẽ ghi rõ tên, tuổi, lý do kỷ luật luật sư. Hiện nay, Nhật Bản đang nghiên cứu sửa đổi Luật Luật sư và cũng có quan điểm khác nhau về việc kỷ luật luật sư, trong đó có ý kiến cho rằng cần có cơ quan, tổ chức của Chính phủ giám sát việc kỷ luật luật sư để bảo đảm tính khách quan.
Ngoài ra, để tìm hiểu về thực tiễn nghề luật tại Nhật Bản, đoàn đến thăm và học hỏi kinh nghiệm tại Toà án Nagoya, Trung tâm giải quyết tranh chấp Aichi, Văn phòng luật Anderson Mori & Tomotsune tại Nagoya và Tokyo, thăm nhà tù Kasamatsu, Cục Bảo vệ nhân quyền của Bộ Tư pháp Nhật Bản và Liên đoàn Luật sư Nhật Bản.
Bùi Huyền