Thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật (QPPL); rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản QPPL; pháp điển hệ thống QPPL, trên cơ sở theo dõi, kiểm tra và tổng hợp báo cáo của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước và UBND các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình thực hiện công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL; rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản QPPL; pháp điển hệ thống QPPL trong năm 2014 như sau:
PHẦN THỨ NHẤT
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
A. CÔNG TÁC KIỂM TRA, XỬ LÝ VĂN BẢN QPPL
I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Công tác chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện
Đầu năm 2014, trên cơ sở kết quả của Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL (2003 - 2013); nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2014 và kết luận chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị toàn quốc triển khai công tác tư pháp năm 2014, ngày 20/01/2014, Bộ Tư pháp đã ban hành Công văn số 191/BTP-KTrVB “V/v tăng cường chỉ đạo công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL” gửi Bộ trưởng, Thủ trưởng các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL. Công văn nêu trên của Bộ Tư pháp đã nhấn mạnh các giải pháp cần triển khai thực hiện gồm: Một là, chỉ đạo thực hiện nghiêm Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND năm 2004, Nghị định số 40/2010/NĐ-CP về kiểm tra, xử lý văn bản QPPL và các văn bản hướng dẫn thi hành; Hai là, tăng cường chỉ đạo công tác tự kiểm tra và kiểm tra văn bản QPPL theo thẩm quyền, đặc biệt tập trung vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội có nhiều bức xúc; xử lý triệt để, kịp thời những văn bản trái pháp luật đã được phát hiện hoặc được thông báo; Ba là, quan tâm hoàn thiện thể chế, bố trí biên chế, kinh phí, xây dựng hệ cơ sở dữ liệu và các điều kiện đảm bảo khác trong thực hiện công tác soạn thảo, thẩm định, ban hành, kiểm tra, xử lý văn bản QPPL; bố trí biên chế làm công tác pháp chế tại các Sở, ngành theo quy định tại Nghị định 55/2011/NĐ-CP; Bốn là, chỉ đạo thực hiện công tác phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, hiệu quả giữa tổ chức pháp chế với Sở Tư pháp, Bộ Tư pháp trong thực hiện công tác soạn thảo, thẩm định, ban hành, kiểm tra, xử lý văn bản QPPL.
Trong năm 2014, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính thành lập các Đoàn công tác liên ngành tăng cường thực hiện việc kiểm tra văn bản theo địa bàn kết hợp kiểm tra công tác soạn thảo, ban hành, kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL. Thông qua việc kiểm tra trực tiếp tại các Bộ và địa phương, Bộ Tư pháp đã kịp thời hướng dẫn, giải quyết các vấn đề khó khăn vướng mắc trong thực hiện công tác soạn thảo, ban hành, kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL; trao đổi, làm rõ các văn bản có dấu hiệu vi phạm về nội dung, thẩm quyền, hiệu lực và đề nghị các Bộ, địa phương tự tổ chức kiểm tra, xử lý và thông báo kết quả xử lý cho Bộ Tư pháp. Đối với các văn bản sai về thể thức, kỹ thuật trình bày, đề nghị cơ quan ban hành nghiêm túc xem xét rút kinh nghiệm, đảm bảo ban hành văn bản đúng quy định của pháp luật. Hoạt động kiểm tra trực tiếp của các Đoàn công tác liên ngành do Bộ Tư pháp chủ trì đã giúp Lãnh đạo các cơ quan cấp Bộ, UBND các địa phương đã có sự quan tâm hơn đối với công tác này, chỉ đạo các tổ chức pháp chế, Sở Tư pháp khắc phục những hạn chế về công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL, tạo được nhiều chuyển biến tích cực.
2. Kết quả kiểm tra, xử lý văn bản
2.1. Về tự kiểm tra, xử lý văn bản
Năm 2014, các Bộ, cơ quan ngang Bộ (bao gồm cả Bộ Tư pháp) và địa phương đã tự kiểm tra được 1.255.808 văn bản (tăng 23,35% so với năm 2013), trong đó có 42.410 văn bản là văn bản QPPL. Cụ thể: các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã tự kiểm tra được 2.389 văn bản (trong đó có 1.009 văn bản QPPL); các địa phương tự kiểm tra được 1.253.419 văn bản (trong đó có 41.401 văn bản QPPL).
Qua tự kiểm tra, đã phát hiện được 6.872 văn bản vi phạm quy định tại Điều 3 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP (cấp Bộ: 12 văn bản; địa phương: 6.860 văn bản). Trong đó, số văn bản QPPL là 3.378 (cấp Bộ: 10 văn bản; địa phương: 3.368 văn bản), còn lại là văn bản không phải là văn bản QPPL nhưng có chứa QPPL. Cụ thể: 316 văn bản QPPL sai về thẩm quyền ban hành và nội dung; 217 văn bản QPPL sai về thẩm quyền ban hành văn bản; 431 văn bản QPPL sai về nội dung; 2.414 văn bản QPPL sai về hiệu lực văn bản, căn cứ pháp lý, thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản.
Trong số các văn bản đã phát hiện vi phạm (6.872 văn bản), các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương đã xử lý cụ thể như sau: đã xử lý xong 5.997 văn bản (trong đó có 5.133 văn bản đã được xử lý theo quy định của pháp luật, còn lại là số văn bản sai về kỹ thuật trình bày văn bản đã được cơ quan ban hành văn bản xem xét, rút kinh nghiệm); còn lại 875 văn bản trái pháp luật đã được đưa vào kế hoạch để xử lý theo quy định và hiện đang được cơ quan ban hành văn bản nghiên cứu, xử lý.
2.2. Về kiểm tra, xử lý văn bản theo thẩm quyền
a) Kiểm tra văn bản tại cơ quan kiểm tra do cơ quan ban hành gửi đến
Năm 2014, trên cơ sở văn bản do các cơ quan ban hành gửi đến, các Bộ, cơ quan ngang Bộ (bao gồm cả Bộ Tư pháp) và địa phương đã kiểm tra được 495.737 văn bản (giảm 33,3% so với năm 2013); trong đó, các Bộ, cơ quan ngang Bộ kiểm tra được 7.393 văn bản (trong đó có 7.036 văn bản QPPL), các địa phương kiểm tra được 488.344 văn bản (trong đó có 36.494 văn bản QPPL).
Qua công tác kiểm tra văn bản theo thẩm quyền, toàn Ngành đã phát hiện 1.642 văn bản sai về thẩm quyền ban hành và nội dung (trong đó có 293 văn bản của cấp Bộ; 1349 văn bản của địa phương) và 5.482 văn bản QPPL sai sót về hiệu lực văn bản, căn cứ pháp lý, thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản.
Trên cơ sở các văn bản đã phát hiện có dấu hiệu vi phạm các điều kiện về tính hợp pháp của văn bản nêu trên, cơ quan kiểm tra văn bản đã tiến hành phân loại và tùy vào mức độ vi phạm của văn bản mà tiến hành xử lý văn bản đó theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý văn bản theo quy định. Đối với những văn bản chỉ có dấu hiệu vi phạm về kỹ thuật trình bày, cơ quan kiểm tra văn bản chỉ trao đổi với các cơ quan ban hành văn bản xem xét, rút kinh nghiệm; đối với những văn bản có dấu hiệu vi phạm về căn cứ pháp lý, thẩm quyền, nội dung, cơ quan kiểm tra văn bản đã tổ chức họp, thảo luận, trao đổi trực tiếp với cơ quan đã ban hành văn bản và các cơ quan có liên quan để thống nhất về nội dung có dấu hiệu vi phạm tính hợp pháp của văn bản và biện pháp xử lý. Theo đó, trong năm 2014, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương đã xử lý được 8.360 văn bản (trong đó có 7.159 văn bản đã được xử lý theo quy định của pháp luật, còn lại là số văn bản sai về kỹ thuật trình bày văn bản đã được cơ quan ban hành văn bản xem xét, rút kinh nghiệm); còn 1.319 văn bản trái pháp luật đã được đưa vào kế hoạch để xử lý và hiện đang được cơ quan ban hành văn bản nghiên cứu để xử lý theo quy định.
b) Kiểm tra văn bản theo địa bàn và chuyên đề
Trong năm 2014, một số Bộ như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Xây dựng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội …và nhiều địa phương như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Cao Bằng…đã chú trọng tổ chức thực hiện kiểm tra văn bản trực tiếp tại các cơ quan, đơn vị do mình quản lý và kiểm tra theo chuyên đề, tập trung vào các lĩnh vực: Tài nguyên - môi trường, thương mại, xây dựng, giáo dục - đào tạo, dân tộc, văn hóa, y tế… Trên cơ sở đó ra kết luận kiểm tra, thông báo văn bản sai, kiến nghị xử lý gửi đến cơ quan đã ban hành văn bản và cơ quan có thẩm quyền để chỉ đạo thực hiện.
Đối với Bộ Tư pháp, trong năm 2014, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các cơ quan liên quan thành lập các Đoàn công tác liên ngành thực hiện việc kiểm tra văn bản theo địa bàn kết hợp kiểm tra công tác soạn thảo, ban hành, kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL tại 13 địa phương và tại 04 Bộ. Bên cạnh đó, Bộ đã tổ chức triển khai kiểm tra theo chuyên đề văn bản QPPL về lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, điều kiện kinh doanh; chuyên đề về văn bản QPPL về lĩnh vực đấu giá tài sản và bán đấu giá quyền sử dụng đất do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương ban hành. Trên cơ sở kết quả kiểm tra văn bản QPPL về các lĩnh vực nêu trên, Bộ đã đề xuất, kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các biện pháp cụ thể để xử lý các bất cập, hạn chế từ thực tiễn, hoàn thiện pháp luật trên các lĩnh vực này.
c) Kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin
Trong năm 2014, từ các nguồn thông tin (các phương tiện thông tin đại chúng, cơ quan, tổ chức và công dân), Bộ Tư pháp đã triển khai kiểm tra, phát hiện nội dung không phù hợp với quy định pháp luật của nhiều văn bản được dư luận xã hội quan tâm để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xử lý như: Thông tư số 04/2013/TT-BLĐTBXH sửa đổi, bổ sung Thông tư số 32/2010/TT-BLĐTBXH ngày 25/10/2010 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp; Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BKHCN-BCT-BCA-BGTVT ngày 28/02/2013 quy định về sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh và sử dụng mũ bảo hiểm cho người đi xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp máy; Thông tư số 01/2013/TT-BKHĐT ngày 21/1/2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp; Quyết định số 1726/2014/QĐ-UBND ngày 04/6/2014 của UBND tỉnh Thanh Hoá về việc ban hành Quy chế quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá; Công văn số 131/NTBD-PQL ngày 07/3/2014 của Cục Nghệ thuật biểu diễn - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch v/v tạm dừng cho phép bà Lưu Thị Diễm Hương tham gia biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, thi người đẹp, người mẫu; Công văn số 1747/UBND-KTN ngày 14/5/2014 của UBND tỉnh Quảng Nam về việc hỗ trợ sử dụng xi măng sản xuất trên địa bàn tỉnh để xây dựng các công trình bê tông hóa mặt đường GTNT; Công văn số 5290/UBND-CNTM ngày 28/7/2014 của UBND tỉnh Nghệ An về việc chung tay góp sức hỗ trợ doanh nghiệp tiêu thụ các sản phẩm bia sản xuất trên địa bàn tỉnh…vv.
3. Các điều kiện đảm bảo triển khai thực hiện kiểm tra, xử lý văn bản
Trong năm 2014, các công tác phục vụ hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản như về thể chế, về kiện toàn tổ chức, bố trí biên chế và kinh phí tiếp tục được các Bộ, ngành và địa phương quan tâm củng cố, tạo điều kiện để từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác kiểm tra, xử lý văn bản. Cụ thể:
3.1. Về thể chế
Trên cơ sở quy định của Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản QPPL liên quan, đến nay phần lớn các Bộ, ngành và 100% tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành các văn bản quy định cụ thể về trình tự, thủ tục kiểm tra, xử lý văn bản QPPL, tổ chức, biên chế, cộng tác viên, kinh phí và các điều kiện bảo đảm khác tạo điều kiện thuận lợi và phù hợp cho việc triển khai công tác này ở Bộ, ngành và địa phương mình. Chỉ một số ít các Bộ, ngành chưa xây dựng thể chế về công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL tại cơ quan mình (hoặc không báo cáo về Bộ Tư pháp), như: Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Bộ Thông tin & truyền thông.
Trong năm 2014, nhiều Bộ, ngành (như Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Công thương, Bộ Xây dựng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch...) đã chú trọng đến việc kiểm tra theo thẩm quyền các VBQPPL thuộc lĩnh vực của Bộ, ngành mình quản lý. Các địa phương như Bình Phước, Bình Thuận, Thanh Hoá, Yên Bái, Tuyên Quang, Hậu Giang, Kon Tum, Phú Yên, Thừa Thiên -Huế... đã ban hành Chỉ thị tăng cường công tác kiểm tra, xử lý VBQPPL trên địa bàn tỉnh. Nhiều địa phương: Hà Giang, Lai Châu, Hòa Bình, Sơn La, Thái Nguyên, Điện Biên, Hải Phòng, Hà Nam, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, An Giang, Vĩnh Long, Đồng Nai, Bình Phước, Phú Yên, Khánh Hòa...đã ban hành Quy chế về kiểm tra văn bản tại địa phương.
3.2. Về việc kiện toàn tổ chức, bố trí biên chế và kinh phí thực hiện
Trong năm 2014, công tác xây dựng tổ chức, bố trí biên chế để thực hiện công tác kiểm tra văn bản QPPL tiếp tục được nhiều Bộ, ngành và địa phương quan tâm, tạo điều kiện củng cố, kiện toàn.
Ở cấp Bộ, tổ chức pháp chế đã được bố trí biên chế phù hợp để giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện việc kiểm tra văn bản. Ngoài Bộ Tư pháp, một số Bộ có phòng chuyên trách về kiểm tra văn bản QPPL, như: Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng. Đối với địa phương cấp tỉnh, đến nay phần lớn các Sở Tư pháp đã thành lập Phòng Kiểm tra văn bản (hoặc Phòng Kiểm tra văn bản và theo dõi thi hành pháp luật; Phòng xây dựng và kiểm tra văn bản) và bố trí từ 03 đến 05 biên chế có trình độ chuyên môn nghiệp vụ để tham mưu giúp Chủ tịch Ủy ban nhân tỉnh thực hiện việc kiểm tra văn bản theo thẩm quyền; số ít tỉnh còn lại, nhiệm vụ kiểm tra văn bản giao cho Phòng Văn bản pháp quy thực hiện, như: Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Gia Lai, An Giang... Tại các sở, ngành đã thành lập được phòng pháp chế theo Nghị định 55/2011/NĐ-CP đã bố trí cán bộ pháp chế giúp Thủ trưởng cơ quan chuyên môn trong việc kiểm tra, xử lý văn bản theo quy định của pháp luật. Ở cấp huyện, Phòng Tư pháp phân công cán bộ triển khai công tác kiểm tra, xử lý văn bản. Ở cấp xã, công chức tư pháp, hộ tịch giúp Ủy ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ này.
Ngoài đội ngũ cán bộ công chức được giao nhiệm vụ kiểm tra, xử lý văn bản, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương đã chú trọng củng cố, phát triển đội ngũ cộng tác viên kiểm tra văn bản để huy động các chuyên gia có trình độ, kinh nghiệm trong các lĩnh vực chuyên môn khác, xây dựng mạng lưới cộng tác viên ở nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác kiểm tra văn bản.
Trên cơ sở các mục chi và mức chi đã được quy định tại Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp về việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL, lãnh đạo các Bộ, ngành và Hội đồng nhân dân các cấp đã quan tâm cấp kinh phí cho công tác này để tổ chức triển khai công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL.
3.3. Về công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ
Trong năm 2014, một số Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương đã quan tâm việc tổ chức tập huấn cho cán bộ, công chức và cộng tác viên làm công tác kiểm tra văn bản tại các Bộ, ngành, địa phương cấp huyện, cấp xã và công chức làm công tác pháp chế các sở, ngành, qua đó, đã đôn đốc, hướng dẫn triển khai thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, xử lý văn bản, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện nhiệm vụ, đồng thời, phổ biến, trao đổi các kinh nghiệm nhằm nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ phát hiện và xử lý văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho cán bộ, công chức thuận lợi cho việc tra cứu, sử dụng về văn bản QPPL nói chung và phục vụ công tác kiểm tra, rà soát văn bản, một số địa phương đã chủ động phát hành các tập hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật do địa phương ban hành còn hiệu lực pháp luật.
Đối với Bộ Tư pháp, trong năm 2014 đã tổ chức 01 lớp bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ kiểm tra, rà soát văn bản QPPL tại Hà Nội cho cán bộ làm công tác kiểm tra, rà soát văn bản của các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Ngoài ra, cán bộ, công chức của Cục Kiểm tra văn bản đã tham gia tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra, rà soát văn bản QPPL theo đề nghị của một số Bộ, ngành, địa phương khác.
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL trong năm 2014 đã cơ bản được thực hiện đúng theo phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác của Ngành Tư pháp năm 2014.
1. Bộ Tư pháp đã tăng cường công tác quản lý nhà nước về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra tình hình thực hiện tại các Bộ, ngành và địa phương. Công tác kiểm tra, xử lý văn bản theo thẩm quyền tại Bộ Tư pháp được đẩy mạnh, có trọng tâm, trọng điểm, nhất là lĩnh vực, văn bản có biểu hiện lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, lĩnh vực pháp luật cần ưu tiên hoàn thiện thể chế; bảo đảm sự gắn kết giữa công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật với công tác theo dõi thi hành pháp luật và kiểm soát thủ tục hành chính.
Qua kiểm tra, theo dõi, Bộ Tư pháp thấy rằng: sau Hội nghị tổng kết 10 năm công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL (2003 - 2013), với sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp, lãnh đạo các cấp, các ngành, công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL trong toàn quốc đã có sự chuyển biến đáng kể. Nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, xử lý văn bản của Lãnh đạo các Bộ và địa phương đã từng bước được nâng cao, nhiều cơ quan đã quan tâm chỉ đạo thực hiện nghiêm công tác tự kiểm tra, xử lý văn bản do cơ quan mình ban hành và tập trung kiểm tra, xử lý văn bản QPPL theo thẩm quyền đối với văn bản QPPL của các cấp chính quyền địa phương thuộc ngành, lĩnh vực quản lý của mình; bước đầu triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp, đặc biệt là công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế của Bộ, ngành về kiểm tra, xử lý văn bản; bố trí biên chế để tổ chức thực hiện nhiệm vụ; tập huấn công tác kiểm tra, xử lý văn bản cho cán bộ của ngành. Công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL tại các Bộ, ngành và địa phương đã được tổ chức triển khai thực hiện theo kế hoạch hàng năm gắn với việc rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL.
2. Công tác kiểm tra, xử lý văn bản đã được các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các địa phương chú trọng tăng cường, tập trung vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội có nhiều bức xúc. Một số Bộ, cơ quan ngang Bộ đã quan tâm chỉ đạo Vụ Pháp chế thông qua công tác góp ý, thẩm định, kiểm soát thủ tục hành chính các dự thảo văn bản kịp thời phát hiện, ngăn chặn những sai sót ngay từ khâu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Trong quá trình thực hiện kiểm tra, xử lý văn bản bảo đảm phối hợp chặt chẽ giữa đơn vị chủ trì soạn thảo với tổ chức pháp chế của Bộ, các Sở ở địa phương và phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp để thực hiện có hiệu quả công tác soạn thảo, thẩm định, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của pháp luật.
3. Một số địa phương đã chú trọng triển khai tương đối đồng bộ, tích cực công tác kiểm tra, xử lý văn bản kết hợp với việc rà soát và hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn, qua đó tạo cơ sở để kịp thời thống nhất về cơ chế, chính sách, góp phần củng cố hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý nhà nước, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, tạo môi trường và hành lang pháp lý đảm bảo cho việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội thuận lợi, nâng cao đời sống về tinh thần, vật chất cho người dân. Kết quả kiểm tra, xử lý văn bản đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và doanh nghiệp, được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, đồng thời, đã góp phần nâng cao nhận thức của các cơ quan hành chính nhà nước, làm cho các cơ quan chú trọng hơn trong việc tuân thủ kỷ luật kỷ cương trong quá trình soạn thảo, ban hành văn bản.
4. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương đã quan tâm tổ chức kiểm tra văn bản theo thẩm quyền. Việc gửi văn bản để cơ quan có thẩm quyền kiểm tra đã bước đầu được chấn chỉnh; công tác phối hợp trong kiểm tra văn bản cũng được tăng cường. Nhìn chung, công tác xử lý văn bản QPPL đã được các Bộ, ngành, địa phương chú trọng hơn, khi nhận được thông báo về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật đã tổ chức tự kiểm tra và xử lý văn bản trái pháp luật theo quy định; đặc biệt, qua kiểm tra tại Cục Kiểm tra văn bản QPPL (Bộ Tư pháp), sau khi trao đổi, thảo luận tại cuộc họp, một số Bộ đã tiếp thu ý kiến ngay và khẩn trương có phương án xử lý đúng quy định; ngoài ra, các thông tin, số liệu về tình hình xử lý văn bản có dấu hiệu trái pháp luật được phân tích cụ thể hơn, giảm việc báo cáo chung chung…
III. HẠN CHẾ, KHÓ KHĂN VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Hạn chế, khó khăn
a) Về hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL
- Việc triển khai hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản ở nhiều cơ quan cấp Bộ và địa phương vẫn còn chậm và chưa thường xuyên, đặc biệt là công tác tự kiểm tra, xử lý văn bản để kịp thời phát hiện những quy định không phù hợp với pháp luật.
- Nhiều Bộ, cơ quan ngang Bộ chưa coi trọng triển khai đồng đều các phương thức kiểm tra văn bản; chưa chú trọng việc kiểm tra văn bản theo chuyên đề, địa bàn, kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin. Việc triển khai kiểm tra văn bản thuộc các lĩnh vực kinh tế - xã hội có nhiều bức xúc được dư luận quan tâm và việc kiểm tra văn bản trên cơ sở yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại của cơ quan, tổ chức, các cơ quan thông tin đại chúng và của cá nhân còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế.
Vẫn còn tình trạng việc tác nghiệp kiểm tra văn bản chủ yếu là về thể thức, kỹ thuật trình bày, chưa đi sâu vào việc xem xét nội dung văn bản, nhất là những văn bản thuộc các lĩnh vực kinh tế - xã hội có nhiều bức xúc được dư luận quan tâm.
- Trong một số trường hợp, việc xử lý các văn bản QPPL có dấu hiệu trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền của các cơ quan, người ban hành văn bản sau khi nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền còn chậm trễ, hoặc chưa triệt để, chưa đúng quy định của pháp luật, thậm chí còn chờ ban hành văn bản mới để thay thế nên các văn bản trái pháp luật này vẫn được áp dụng, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, thậm chí gây bức xúc trong xã hội.
b) Về các điều kiện đảm bảo thực hiện
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã bước đầu xây dựng các văn bản phục vụ cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL tại Bộ, ngành mình. Tuy nhiên, ở một số Bộ, ngành, các văn bản quy định về kiểm tra, xử lý văn bản còn thiếu các quy định để đảm bảo cho việc triển khai công tác này hiệu quả, phù hợp với đặc điểm, lĩnh vực công tác của Bộ, ngành mình.
- Theo phản ánh của đa số các Bộ, ngành và địa phương, biên chế bố trí cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản vẫn là vấn đề rất đáng quan tâm, còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả công tác này. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra văn bản nhìn chung còn thiếu về số lượng và còn hạn chế về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ (nhất là ở cấp huyện và cấp xã) nên chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Hoạt động của cộng tác viên còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa cao.
- Tại phần lớn các Bộ và địa phương, kinh phí phục vụ công tác kiểm tra, xử lý văn bản còn hạn hẹp, được bố trí từ nguồn chi thường xuyên của đơn vị, do đó chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và khối lượng công việc được giao và đặc thù của công tác này. Chế độ chính sách cho cán bộ và cộng tác viên kiểm tra văn bản chưa thực sự khuyến khích, còn phụ thuộc vào việc khoán kinh phí hành chính, làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản. Tại một số cơ quan, đơn vị, còn có tình trạng nhiệm vụ mới đã được triển khai thực hiện nhưng chưa được bố trí kinh phí.
- Công tác tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ kiểm tra văn bản ở nhiều Bộ, ngành và địa phương chưa được chú trọng triển khai, hoặc có được triển khai thực hiện nhưng chất lượng và hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác này, đặc biệt là đối với cán bộ, công chức làm công tác tư pháp nói chung, kiểm tra văn bản QPPL nói riêng ở cấp huyện và cấp xã.
- Việc thực hiện chế độ báo cáo công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL theo quy định tại Nghị định số 40/2010/NĐ-CP và Thông tư số 20/2010/TT-BTP về cơ bản đã được các Bộ, ngành và địa phương thực hiện, các thông tin, số liệu tương đối đầy đủ và cụ thể, phục vụ cho công tác tổng hợp cũng như quản lý, điều hành của Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, việc thực hiện báo cáo, thống kê về công tác kiểm tra văn bản còn thụ động, hàng năm, chỉ có một số ít cơ quan cấp Bộ và địa phương kịp thời gửi báo cáo công tác năm về Bộ Tư pháp kèm theo các Biểu thống kê quy định tại Thông tư số 20/2013/TT-BTP hướng dẫn một số nội dung về hoạt động thống kê của ngành Tư pháp.
Vẫn còn nhiều cơ quan cấp Bộ và địa phương gửi báo cáo chậm, phải đôn đốc nhiều lần; chất lượng báo cáo của một số cơ quan chưa đảm bảo, thông tin còn chung chung, chưa đầy đủ theo quy định, chưa phản ánh đúng tình hình thực tế về công tác kiểm tra, xử lý văn bản tại Bộ, ngành, địa phương mình.
Số liệu thống kê của nhiều địa phương không chuẩn xác, còn có tình trạng thống kê nhầm lẫn giữa loại văn bản phải tự kiểm tra và loại văn bản phải kiểm tra theo thẩm quyền (theo quy định tại Nghị định 40/2010/NĐ-CP của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật và Thông tư số 20/2010/TT-BTP của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 40/2010/NĐ-CP) với văn bản hành chính nói chung, dẫn đến việc gộp chung số liệu văn bản hành chính được ban hành tại địa phương với số liệu văn bản tự kiểm tra và văn bản kiểm tra theo thẩm quyền.
- Hệ cơ sở dữ liệu phục vụ công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL còn chưa đầy đủ; việc ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng hệ cơ sở dữ liệu phục vụ cho các công tác nêu trên còn gặp nhiều khó khăn, chưa được thực hiện tốt.
2. Nguyên nhân
a)Về chủ quan:
- Lãnh đạo một số Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương chưa thực sự quan tâm, tạo điều kiện đúng mức để đảm bảo tốt cho công tác kiểm tra, xử lý văn bản. Việc đầu tư thời gian và nguồn lực về biên chế, kinh phí và các điều kiện bảo đảm khác cho công tác kiểm tra văn bản QPPL còn hạn chế, chưa phù hợp với vị trí, vai trò, yêu cầu, tính chất phức tạp của công việc này. Một số Bộ, cơ quan, địa phương còn có sự dè dặt, nể nang trong kiểm tra, xử lý một số văn bản đã phát hiện có dấu hiệu vi phạm. Chưa có cơ chế kiểm soát (tiền kiểm) hiệu quả đối với thông tư, thông tư liên tịch.
- Đội ngũ làm công tác kiểm tra, rà soát văn bản nhìn chung còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng chuyên môn. Đội ngũ làm công tác pháp chế tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ, tổ chức pháp chế của cơ quan chuyên môn thuộc UBND còn kiêm nhiệm nhiều việc nên chưa thực sự phát huy được hiệu quả trong việc giúp thủ trưởng cơ quan chuyên môn rà soát, kiểm tra văn bản thuộc lĩnh vực quản lý chuyên ngành và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, xử lý văn bản QPPL theo quy định của pháp luật.
b)Về khách quan:
- Thể chế về công tác soạn thảo, ban hành và kiểm tra, xử lý văn bản còn nhiều khiếm khuyết, như: khái niệm văn bản QPPL còn chưa rõ và chưa thống nhất; việc quy định về thời điểm có hiệu lực của văn bản (sau 45 ngày kể từ ngày ký ban hành) là chưa thực sự phù hợp, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực (tài chính, ngân hàng...); chưa làm rõ thế nào là văn bản ban hành trong tình trạng khẩn cấp; chưa có hướng dẫn cụ thể về việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với cán bộ, công chức trong việc tham mưu soạn thảo, thẩm định, trình, thông qua và ký ban hành văn bản trái pháp luật; chưa quy định đầy đủ việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với cán bộ, công chức trong việc tham mưu soạn thảo, thẩm định, trình, thông qua và ký ban hành văn bản trái pháp luật...
- Chất lượng của công tác xây dựng, ban hành văn bản còn nhiều hạn chế dẫn đến thực tế là trong một số trường hợp, văn bản làm cơ sở pháp lý để kiểm tra (luật, nghị định, thông tư) có nội dung chưa đảm bảo tính rõ ràng, thống nhất, gây khó khăn cho các Bộ, ngành và địa phương trong việc quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành để tổ chức thực hiện - Đây cũng là một nguyên nhân đáng kể dẫn đến việc cơ quan ban hành các quy định không phù hợp với pháp luật và tình hình thực tế.
B. CÔNG TÁC RÀ SOÁT, HỆ THỐNG HÓA VĂN BẢN QPPL
I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Về rà soát văn bản
Năm 2014 là năm thứ hai công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL được thực hiện thống nhất trên phạm vi cả nước theo quy trình chung được quy định tại Nghị định số 16/2013/NĐ-CP và Thông tư số 09/2013/TT-BTP ngày 15/6/2013 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành Nghị định số 16/2013/NĐ-CP. Theo quy định của Nghị định số 16/2013/NĐ-CP thì hoạt động rà soát văn bản phải được tiến hành thường xuyên, ngay khi có căn cứ rà soát văn bản nhằm phục vụ yêu cầu áp dụng, thi hành và xây dựng pháp luật. Vì vậy, trong năm 2014, công tác rà soát thường xuyên theo văn bản là căn cứ pháp lý và rà soát căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội được các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương từng bước triển khai bài bản, kịp thời.
Ngoài ra, một số Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương cũng đã chủ động tổ chức rà soát văn bản theo chuyên đề, lĩnh vực, địa bàn phục vụ nhu cầu quản lý nhà nước hoặc theo đề nghị, yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, như các chuyên đề: Rà soát văn bản phục vụ tổng kết thực tiễn thi hành Luật Thương mại năm 2005; rà soát văn bản nhằm hoàn thiện Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện; rà soát các văn bản đối với nhóm đối tượng dễ bị tổn thương; rà soát giấy phép thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; rà soát văn bản để xây dựng Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư; rà soát văn bản về bán đấu giá tài sản và bán đấu giá quyền sử dụng đất; rà soát văn bản liên quan đến lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch; rà soát các vản bản thuộc các lĩnh vực quản lý của Bộ Xây dựng, Bộ Ngoại giao, Bộ Thông tin và truyền thống, Ngân hàng nhà nước...
Tổng hợp kết quả rà soát văn bản của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương đã có thông tin về Bộ Tư pháp như sau :
a) Tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ
Tổng số văn bản phải được rà soát: 11.382 văn bản.
- Số văn bản đã được rà soát: 10.463 văn bản (đạt 91.93 % số văn bản phải rà soát).
Trong đó:
+ Số văn bản còn hiệu lực (không bao gồm văn bản hết hiệu lực một phần): 7.437 văn bản.
+ Số văn bản hết hiệu lực toàn bộ: 2.381 văn bản.
+ Số văn bản hết hiệu lực một phần: 645 văn bản.
+ Số văn bản kiến nghị xử lý: 541 văn bản (chiếm 7.27 % tổng số văn bản còn hiệu lực).
Trong đó: Số văn bản đã xử lý: 328 (đạt 60.63 % số văn bản kiến nghị xử lý);
Số văn bản chưa xử lý: 213 (chiếm 39.37 % số văn bản kiến nghị xử lý).
- Số văn bản chưa được rà soát: 919 văn bản (chiếm 8.07 % số văn bản phải rà soát).
b) Tại UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Tổng số văn bản phải được rà soát: 36.269 văn bản.
- Số văn bản đã được rà soát: 35.990 văn bản (đạt 99.23 % số văn bản phải rà soát).
Trong đó:
+ Số văn bản còn hiệu lực (không bao gồm văn bản hết hiệu lực một phần): 21.303 văn bản.
+ Số văn bản hết hiệu lực toàn bộ: 13.551 văn bản.
+ Số văn bản hết hiệu lực một phần: 1.226 văn bản.
+ Số văn bản kiến nghị xử lý: 7.261 văn bản (chiếm 34.08 % tổng số văn bản còn hiệu lực)
Trong đó: Số văn bản đã xử lý: 5.580 (đạt 76.85% số văn bản kiến nghị xử lý);
Số văn bản chưa xử lý: 1.681 (chiếm 23.07% số văn bản kiến nghị xử lý).
- Số văn bản chưa được rà soát: 277 văn bản (chiếm 0.76% số văn bản phải rà soát).
Trên cơ sở kết quả rà soát thường xuyên, 19/21 Bộ, cơ quan ngang Bộ và 45/63 địa phương đã thực hiện định kỳ công bố văn bản hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong năm 2014 theo quy định tại Điều 20 Nghị định số 16/2013/NĐ-CP với tổng số văn bản hết hiệu lực trong năm 2014 đã được công bố là 3.003 văn bản. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương chưa thực hiện công bố định kỳ văn bản hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong năm 2014 bao gồm: 02 Bộ (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ngoại giao) và 18 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (An Giang, Bắc Kạn, Bình Định, Bình Phước, Đà Nẵng, Hải Dương, Hải Phòng, Khánh Hòa, Lai Châu, Lào Cai, Nam Định, Nghệ An, Ninh Bình, Quảng Trị, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Thừa Thiên - Huế, Tuyên Quang).
(Xin xem thông tin chi tiết tại Phụ lục số B1)
Đối với việc định kỳ công bố văn bản hết hiệu lực trong năm 2013 (theo quy định sẽ được thực hiện trong tháng 01/2014), nhiều Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương đã kết hợp với việc công bố kết quả hệ thống hóa kỳ đầu thống nhất trong cả nước tính đến ngày 31/12/2013 nên không ban hành Quyết định riêng để công bố định kỳ theo quy định. Tuy nhiên, việc công bố vẫn được nhiều Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương thực hiện theo quy định, cụ thể: 17/21 Bộ, cơ quan ngang Bộ và 23/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện công bố.
(Xin xem thông tin chi tiết về việc định kỳ công bố văn bản hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần tại Phụ lục số B2).
Tại cấp huyện, cấp xã, công tác rà soát văn bản đã từng bước được triển khai theo quy định. Nhận thức được tầm quan trọng của việc rà soát văn bản đối với việc xây dựng, áp dụng và thi hành pháp luật cũng như mức độ khó khăn, phức tạp của nghiệp vụ rà soát văn bản, trong năm 2014, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã chủ động tham mưu UBND cấp mình tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ rà soát cho cán bộ tư pháp cấp huyện, cấp xã, đồng thời quán triệt nội dung các quy định của Nghị định số 16/2013/NĐ-CP và Thông tư số 09/2013/TT-BTP. Thông qua một số hoạt động như hệ thống hóa văn bản kỳ đầu thống nhất trong cả nước, định kỳ công bố danh mục văn bản hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần hàng năm có thể thấy cấp huyện, cấp xã tại một số địa phương đã thực hiện tương đối tốt công tác rà soát văn bản như thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Giang... Tuy nhiên, việc triển khai công tác này tại phần lớn cấp huyện, cấp xã còn hạn chế, nhiều địa phương còn chưa thực hiện, thậm chí còn nhầm lẫn giữa hoạt động kiểm tra văn bản và rà soát văn bản.
2. Kết quả rà soát văn bản theo Hiến pháp năm 2013
Thực hiện nhiệm vụ rà soát, lập danh mục đề xuất văn bản QPPL cần bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới phù hợp quy định của Hiến pháp năm 2013 quy định tại Mục 2 Phần II Kế hoạch của Chính phủ tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 251/QĐ-TTg ngày 13/02/2014 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương thực hiện việc rà soát văn bản QPPL theo thẩm quyền, trách nhiệm được giao. Trên cơ sở báo cáo của 22/22 Bộ, cơ quan ngang Bộ và 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Bộ Tư pháp đã tổng hợp và đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 340/BC-BTPm ngày 09/12/2014. Theo đó, tổng số văn bản được rà soát là 102.036 văn bản; số văn bản được kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới là 282 văn bản (trong đó, số văn bản của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ được rà soát là 11.786 văn bản, số văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới là 241 văn bản; số văn bản của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp được rà soát là 90.520 văn bản, số văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới là 41 văn bản).
Sau khi xét Báo cáo của Bộ Tư pháp, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo đối với kết quả rà soát văn bản QPPL (tại Công văn số 55/VPCP-PL ngày 09/01/2015 về việc thông báo ý kiến Thủ tướng về kết quả rà soát văn bản quy phạm pháp luật). Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương đang tích cực cập nhật kết quả rà soát và thực hiện việc xử lý kết quả rà soát văn bản.
3. Kết quả hệ thống hóa văn bản kỳ đầu thống nhất trong cả nước
Thực hiện nhiệm vụ hệ thống hóa văn bản kỳ đầu thống nhất trong cả nước quy định tại Khoản 1 Điều 22 Nghị định số 16/2013/NĐ-CP, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương đã tích cực triển khai hoạt động hệ thống hóa văn bản. Trên cơ sở báo cáo của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương, ngày 19/8/2014, Bộ Tư pháp đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình hệ thống hóa văn bản kỳ đầu thống nhất trong cả nước tại văn bản số 209/BC-BTP. Theo đó, tính đến hết ngày 30/7/2014, mới có 07/22 Bộ, cơ quan ngang Bộ và 41/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương công bố kết quả hệ thống hóa văn bản. Sau khi xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp tại Báo cáo số 209/BC-BTP, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo “Bộ trưởng Bộ Tư pháp tăng cường đôn đốc, chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản của các Bộ, ngành, địa phương, bảo đảm thực hiện đúng Kế hoạch đã được phê duyệt” (Theo Công văn số 7145/VPCP-PL ngày 15/9/2014 của Văn phòng Chính phủ về việc thông báo ý kiến của Thủ tướng về tình hình hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật kỳ đầu thống nhất trong cả nước). Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ngày 30/9/2014, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 4118/BTP-KTrVB về việc đôn đốc việc công bố, gửi báo cáo và xử lý kết quả hệ thống hóa văn bản kỳ đầu thống nhất trong cả nước gửi các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trong đó đề nghị các Bộ, ngành và địa phương khẩn trương hoàn thành việc hệ thống hóa văn bản, thực hiện việc công bố kết quả hệ thống hóa văn bản và tham mưu cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới văn bản để bảo đảm sự phù hợp, thống nhất của hệ thống pháp luật.
Trên cơ sở đó, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương đã khẩn trương hoàn thành việc hệ thống hóa và thực hiện công bố kết quả hệ thống hóa. Đến nay, tình hình công bố kết quả hệ thống hóa văn bản như sau:
- Số cơ quan đã công bố: 16/21 Bộ, cơ quan ngang Bộ và 60/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Số cơ quan chưa công bố: 05/21 Bộ (bao gồm: Khoa học và Công nghệ; Kế hoạch và Đầu tư; Lao động, Thương binh và Xã hội; Xây dựng; Thanh tra Chính phủ) và 03/63 tỉnh (bao gồm: Lai Châu, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc).
Tổng hợp kết quả hệ thống hóa văn bản của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương như sau:
- Văn bản của trung ương:
+ Tổng số văn bản còn hiệu lực: 10.889 văn bản;
+ Tổng số văn bản hết hiệu lực toàn bộ hoặc hết hiệu lực một phần: 10.656 văn bản;
+ Tổng số văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới: 1.752 văn bản.
- Văn bản của HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương:
+ Tổng số văn bản còn hiệu lực: 25.840 văn bản;
+ Tổng số văn bản hết hiệu lực toàn bộ hoặc hết hiệu lực một phần: 19.102 văn bản;
+ Tổng số văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới: 5.686 văn bản.
(Xin xem thông tin chi tiết tại Phụ lục số B 3).
4. Các điều kiện đảm bảo triển khai thực hiện rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL
Theo quy định tại Điều 31 Nghị định số 16/2013/NĐ-CP thì trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm bố trí kinh phí, biên chế và các điều kiện bảo đảm khác phục vụ cho công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản. Theo đó, các Bộ, ngành, địa phương đã quan tâm, bố trí các điều kiện bảo đảm cho công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản như sau:
- Về biên chế: Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương đều đã bố trí biên chế cho công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản.
- Về kinh phí: Tất cả các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương đều đã bố trí kinh phí cho công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản. Việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản được thực hiện theo Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP ngày 17/8/2011 của liên Bộ Tài chính, Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL.
- Về việc xây dựng Cơ sở dữ liệu rà soát, hệ thống hóa văn bản: Hiện nay, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương bước đầu xây dựng được Cơ sở dữ liệu văn bản theo lĩnh vực quản lý hoặc do địa phương ban hành để phục vụ nhu cầu tra cứu văn bản của cơ quan và người dân. Theo đó, Cơ sở dữ liệu văn bản của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương đang từng bước được kết nối chung với Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật do Bộ Tư pháp được giao chủ trì xây dựng.
- Về hoạt động phối hợp trong thực hiện rà soát, hệ thống hóa văn bản:
Hiện nay, trách nhiệm rà soát, hệ thống hóa văn bản được quy định cụ thể đến các cơ quan, đơn vị chuyên môn thuộc Bộ, Ủy ban nhân dân nhằm nâng cao tính kịp thời, chủ động và bảo đảm chất lượng của văn bản được rà soát, hệ thống hóa. Theo đó, cơ quan, đơn vị pháp chế, tư pháp làm nhiệm vụ đầu mối, kiểm tra, đôn đốc việc rà soát, hệ thống hóa văn bản. Vì vậy, công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ của tất cả cơ quan, đơn vị có liên quan. Trên tinh thần đó, phần lớn các cơ quan, đơn vị chuyên môn đều đã phối hợp với cơ quan tư pháp, tổ chức pháp chế để thực hiện rà soát, hệ thống hóa văn bản thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của cơ quan, đơn vị mình. Một số cơ quan đã ban hành Quy chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản, trong đó nêu rõ trách nhiệm, phạm vi, nội dung, cách thức phối hợp nhằm bảo đảm hiệu quả trong phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị.
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Từ sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2013/NĐ-CP, công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản đã được các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương quan tâm, triển khai thực hiện hiệu quả hơn. Trong năm 2014, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương đã tập trung thực hiện 02 nhiệm vụ lớn đó là hệ thống hóa văn bản kỳ đầu thống nhất trong cả nước và rà soát toàn bộ hệ thống văn bản để bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Thông qua việc thực hiện hai nhiệm vụ trên, toàn bộ hệ thống văn bản từ trung ương đến địa phương đã được rà soát một cách tổng thể, từ đó phát hiện những văn bản có nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, trái pháp luật hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội để kịp thời xử lý, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật. Cũng thông qua hoạt động rà soát, hệ thống hóa văn bản nêu trên, các cơ quan nhà nước đánh giá được chất lượng công tác xây dựng, ban hành văn bản thuộc trách nhiệm rà soát, hệ thống hóa của cơ quan mình. Hiện nay, trên cơ sở kết quả hệ thống hóa văn bản, rà soát văn bản theo Hiến pháp năm 2013, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương đang tiến hành xử lý các văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
III. HẠN CHẾ, KHÓ KHĂN VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Hạn chế, khó khăn
- Nhiều Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương còn lúng túng về cách thức triển khai, kỹ năng nghiệp vụ về rà soát văn bản QPPL, chỉ mới thực hiện rà soát hiệu lực của văn bản mà chưa thực hiện rà soát phần nội dung để phát hiện các quy định chưa phù hợp, trái, mâu thuẫn, chồng chéo với các căn cứ rà soát để xử lý hoặc kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý theo đúng quy định. Điều này làm giảm hiệu quả, ý nghĩa của công tác rà soát đối với việc xây dựng và thi hành pháp luật. Việc thống kê số liệu về rà soát chưa chính xác, chưa phản ánh đúng thực chất việc triển khai công tác này trên thực tế.
- Công tác rà soát văn bản chưa thực sự gắn kết với công tác xây dựng, theo dõi thi hành pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính.
- Hầu hết các cơ quan chưa xây dựng được Cơ sở dữ liệu rà soát, hệ thống hóa văn bản bao gồm các nội dung như văn bản phục vụ rà soát, hệ thống hóa, thông tin về tình trạng pháp lý của văn bản, hồ sơ rà soát văn bản, kết quả hệ thống hóa văn bản theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 Nghị định số 16/2013/NĐ-CP, hoặc nếu có xây dựng thì chỉ mới ở dưới hình thức lưu trữ dữ liệu thô, dưới hình thức văn bản.
2. Nguyên nhân:
a) Về chủ quan:
- Việc hiểu, thực hiện, theo dõi hoạt động rà soát, hệ thống hóa văn bản tại nhiều Bộ, cơ quan ngang Bộ, địa phương chưa đầy đủ, chưa đúng quy định của Nghị định số 16/2013/NĐ-CP, Thông tư số 09/2013/TT-BTP. Nhận thức về trách nhiệm thực hiện, tầm quan trọng của công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản tại một số cơ quan, đơn vị còn hạn chế, có nơi coi đây là nhiệm vụ chỉ của cơ quan tư pháp và tổ chức pháp chế nên không chủ động, tích cực thực hiện nhiệm vụ, thiếu sự phối hợp giữa cơ quan chuyên môn với tổ chức pháp chế, cơ quan tư pháp trong triển khai hệ thống hóa; sự phối hợp giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhiều khi còn chưa kịp thời, ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng rà soát, hệ thống hóa văn bản.
- Dù đã được bố trí biên chế để triển khai thực hiện, tuy nhiên cơ cấu tổ chức của các cơ quan có trách nhiệm thực hiện hoạt động rà soát, hệ thống hoá văn bản còn chưa được kiện toàn. Số lượng biên chế chuyên trách làm công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản còn thiếu so với yêu cầu nhiệm vụ, phần lớn mới chỉ bố trí được một đến hai biên chế và chủ yếu là kiêm nhiệm, trong khi tổ chức pháp chế, cơ quan tư pháp hiện nay đang được giao thực hiện rất nhiều nhiệm vụ mới. Ngoài ra, công việc rà soát văn bản là công việc khó, đòi hỏi người rà soát không chỉ có kiến thức về pháp luật mà còn phải có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực văn bản điều chỉnh.
b) Về khách quan:
- Hoạt động rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL là nhiệm vụ tương đối khó khăn, phức tạp và lần đầu được triển khai trên diện rộng từ trung ương đến địa phương, thống nhất trong cả nước; việc xác định và tập hợp đầy đủ các văn bản để rà soát hoặc văn bản phục vụ hệ thống hóa gặp nhiều khó khăn, do việc lưu trữ các văn bản thuộc nguồn văn bản phục vụ rà soát, hệ thống hóa theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 16/2013/NĐ-CP tại các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm rà soát, hệ thống hóa văn bản còn nhiều bất cập. Ngoài ra, việc xác định tình trạng pháp lý của văn bản được rà soát gặp nhiều khó khăn do nhiều văn bản được ban hành chưa tuân thủ đúng quy định về kỹ thuật xây dựng văn bản, đặc biệt là quy định về hiệu lực của văn bản hoặc được ban hành trước khi Luật Ban hành văn bản QPPL năm 1996 có hiệu lực, nhiều trường hợp chưa phân định được là văn bản QPPL hay văn bản hành chính; bên cạnh đó, có văn bản được sửa đổi, bổ sung rất nhiều lần nhưng chưa có văn bản thay thế đã gây khó khăn cho việc xác định các nội dung hết hiệu lực và còn hiệu lực. Hơn nữa, với việc pháp luật cho phép nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL và với số lượng văn bản QPPL lớn như hiện nay thì để phát hiện ra những nội dung chồng chéo, mâu thuẫn, không còn phù hợp, bảo đảm sự thống nhất, minh bạch của hệ thống pháp luật là một nhiệm vụ không dễ dàng. Qua hoạt động rà soát văn bản cho thấy, đang tồn tại không ít văn bản có nội dung chồng chéo, mâu thuẫn cũng như không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều văn bản được ban hành đã lâu, nội dung đã được điều chỉnh tại văn bản khác, song chưa được xử lý về mặt hiệu lực, thậm chí nhiều văn bản không xác định được tình trạng hiệu lực cũng như các thông tin khác liên quan đến văn bản. Bên cạnh đó, các cơ sở dữ liệu rà soát, hệ thống hóa văn bản bao gồm tất cả các nội dung quy định tại Khoản 1 Điều 35 Nghị định số 16/2013/NĐ-CP vẫn ở dưới hình thức lưu trữ văn bản (trừ nội dung văn bản phục vụ rà soát, hệ thống hóa và thông tin về tình trạng pháp lý của văn bản), chưa được tin học hóa, do đó gây hạn chế trong việc quản lý tài liệu và tra cứu kết quả rà soát, hệ thống hóa.
- Hiện nay, quy định về hỗ trợ kinh phí cho công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản được thực hiện theo Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP. Tuy nhiên, nhiều nội dung chi tại Thông tư còn chưa rõ ràng, cụ thể hoặc chưa đầy đủ dẫn đến việc nhiều cơ quan chưa dành kinh phí thỏa đáng cho công tác này. Trong khi đó, đây là công việc hết sức nặng nề, không chỉ thuộc trách nhiệm của tổ chức pháp chế hay cơ quan tư pháp mà là trách nhiệm của tất cả cơ quan, đơn vị chuyên môn được giao quản lý nhà nước, tham mưu cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL.
C. CÔNG TÁC HỢP NHẤT VĂN BẢN QPPL; PHÁP ĐIỂN HỆ THỐNG VĂN BẢN QPPL
I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Về công tác hợp nhất văn bản QPPL
Trong năm 2014, thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các Bộ, cơ quan ngang Bộ triển khai thực hiện công tác rà soát, hệ thống hoá, hợp nhất văn bản QPPL theo quy định của Pháp lệnh hợp nhất văn bản QPPL năm 2012 và Kế hoạch của Chính phủ về hợp nhất văn bản QPPL được ban hành trước ngày Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012 có hiệu lực (ban hành kèm theo Quyết định số 63/QĐ-TTg ngày 07/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ), trên cơ sở tổng hợp thông tin về tình hình hợp nhất văn bản QPPL từ các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Bộ Tư pháp đã có Báo cáo số 224/BC-BTP ngày 11/9/2014 về tình hình thực hiện hợp nhất văn bản QPPL tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ (tính đến ngày 25/8/2014) để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo.
Bộ Tư pháp báo cáo về tình hình thực hiện hợp nhất văn bản QPPL tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ từ sau ngày 25/8/2014 như sau:
1.1. Về hợp nhất văn bản QPPL được ban hành trước ngày Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012 có hiệu lực (trước ngày 01/7/2012)
a) Đối với các cơ quan có thẩm quyền thực hiện hợp nhất văn bản QPPL thuộc phạm vi Chính phủ
Trên cơ sở kết quả được nêu tại Báo cáo số 224/BC-BTP ngày 11/9/2014 về tình hình thực hiện hợp nhất văn bản QPPL tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ (sau đây gọi là Báo cáo số 224), Bộ Tư pháp thường xuyên theo dõi, đôn đốc, cập nhật tình hình thực hiện của 06/22 Bộ, cơ quan ngang Bộ chưa hoàn thành việc hợp nhất văn bản QPPL được ban hành trước ngày Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012 có hiệu lực. Tính đến nay, kết quả thực hiện của 06 Bộ cụ thể như sau:
(Xin xem thông tin chi tiết tại Phụ lục số C1).
Theo báo cáo của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong quá trình tiến hành hợp nhất, nhiều văn bản QPPL được ban hành trước ngày Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012 có hiệu lực mặc dù đã được thống kê, đưa vào Danh mục văn bản cần hợp nhất (trong giai đoạn rà soát) nhưng khi triển khai các Bộ, cơ quan ngang Bộ không tiến hành hợp nhất vì những văn bản này đã có hoặc sắp có văn bản mới thay thế hoặc việc hợp nhất thuộc trường hợp khó thực hiện (văn bản bị sửa đổi, bổ sung quá nhiều lần, hình thức văn bản không thống nhất, khó áp dụng kỹ thuật hợp nhất...), nếu vẫn tiến hành hợp nhất sẽ không bảo đảm được mục đích, ý nghĩa của hoạt động này. Bộ Tư pháp thường xuyên tiếp nhận, giải đáp, hướng dẫn các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong việc xử lý đối với các trường hợp này.
b) Đối với các cơ quan có thẩm quyền thực hiện hợp nhất văn bản QPPL ngoài phạm vi Chính phủ (bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Văn phòng Quốc hội; Kiểm toán nhà nước)
Qua theo dõi, cập nhật thông tin của Bộ Tư pháp về tình hình, kết quả thực hiện việc hợp nhất văn bản QPPL của các cơ quan nêu trên (thông qua điện thoại, email, Công báo Chính phủ) thì Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước không có văn bản QPPL được ban hành trước ngày Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012 có hiệu lực cần tiến hành hợp nhất. Văn phòng Quốc hội đã hoàn thành việc hợp nhất các văn bản QPPL được ban hành trước ngày Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012 có hiệu lực với tổng số 25 văn bản hợp nhất đã được ký xác thực.
1.2. Về hợp nhất văn bản QPPL được ban hành kể từ ngày Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012 có hiệu lực tính đến hết ngày 31/12/2013
a) Đối với các cơ quan có thẩm quyền thực hiện hợp nhất văn bản QPPL thuộc phạm vi Chính phủ
Việc hợp nhất văn bản QPPL được ban hành sau ngày Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012 có hiệu lực được các cơ quan có trách nhiệm hợp nhất văn bản QPPL xác định là nhiệm vụ thường xuyên. Do đó, hầu hết các cơ quan đã nghiêm túc triển khai theo quy định. Tuy nhiên, theo Báo cáo số 224/BC-BTP thì việc triển khai thực hiện hợp nhất văn bản QPPL tại một số Bộ, cơ quan ngang Bộ đôi khi còn chậm dẫn đến còn 06/22 Bộ, cơ quan ngang Bộ chưa hoàn thành việc thực hiện hợp nhất văn bản QPPL được ban hành kể từ ngày Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012 có hiệu lực tính đến ngày 31/12/2013. Tính đến nay, kết quả thực hiện của 06 Bộ cụ thể như sau:
- 05/06 Bộ đã hoàn thành việc hợp nhất văn bản QPPL được ban hành kể từ ngày Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012 có hiệu lực tính đến ngày 31/12/2013, gửi đăng Công báo, đăng Cổng thông tin điện tử theo quy định, gồm: Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Ngoại giao; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Xây dựng; Bộ Y tế.
(Xin xem thông tin chi tiết tại Phụ lục số C2).
b) Các cơ quan có thẩm quyền thực hiện hợp nhất văn bản QPPL ngoài phạm vi Chính phủ:
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước không có văn bản QPPL được ban hành kể từ khi Pháp lệnh có hiệu lực tính đến ngày 31/12/2013 cần tiến hành hợp nhất. Văn phòng Quốc hội đã hoàn thành việc hợp nhất các văn bản QPPL được ban hành kể từ Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012 có hiệu lực tính đến ngày 31/12/2013 với tổng số 17 văn bản hợp nhất đã được ký xác thực.
a) Đối với các cơ quan có thẩm quyền thực hiện hợp nhất văn bản QPPL thuộc phạm vi Chính phủ
- 12/22 Bộ, cơ quan ngang Bộ đã hoàn thành việc hợp nhất văn bản QPPL, gửi đăng Công báo, đăng Cổng thông tin điện tử theo quy định, gồm: Bộ Công an; Bộ Quốc phòng; Bộ Giao thông vận tải; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Tài chính; Bộ Tư pháp; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Y tế; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Ủy ban dân tộc.
- 05/22 Bộ, cơ quan ngang Bộ không có văn bản QPPL cần hợp nhất, gồm: Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Ngoại giao; Bộ Thông tin và Truyền thông; Thanh tra Chính phủ; Văn phòng Chính phủ.
- 02/22 Bộ, cơ quan ngang Bộ không tiến hành hợp nhất đối với một số văn bản QPPL thuộc đối tượng cần thực hiện hợp nhất với lý do hiện nay đã có (hoặc đang xây dựng) văn bản mới thay thế, sửa đổi, bổ sung hoặc các văn bản QPPL này thuộc trường hợp khó tiến hành hợp nhất theo quy định tại Quyết định số 63/QĐ-TTg ngày 07/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ, gồm: Bộ Công thương; Bộ Nội vụ.
b) Đối với các cơ quan có thẩm quyền thực hiện hợp nhất văn bản QPPL ngoài phạm vi Chính phủ:
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao không có văn bản QPPL được ban hành kể từ ngày 01/01/2014 đến hết ngày 31/12/2014 cần tiến hành hợp nhất. Kiểm toán nhà nước không tiến hành hợp nhất đối với 02 văn bản QPPL thuộc đối tượng cần thực hiện hợp nhất với lý do hiện nay đã dự kiến xây dựng văn bản thay thế các văn bản QPPL này. Văn phòng Quốc hội đã hoàn thành việc hợp nhất các văn bản QPPL được ban hành kể từ ngày 01/01/2014 đến hết ngày 31/12/2014 với tổng số 20 văn bản hợp nhất đã được ký xác thực.
Tổng hợp kết quả thực hiện hợp nhất văn bản QPPL được ban hành kể từ ngày 01/01/2014 đến hết ngày 31/12/2014 của tất cả các cơ quan cụ thể như sau:
- Tổng số văn bản cần hợp nhất (theo kết quả rà soát): 293 văn bản;
- Tổng số dự thảo văn bản hợp nhất dự kiến cần soạn thảo (theo kết quả rà soát): 139 văn bản;
- Tổng số văn bản hợp nhất đã hoàn thành: 123 văn bản;
- Tổng số văn bản hợp nhất chưa hoàn thành: 08 văn bản;
- Tổng số văn bản không tiến hành hợp nhất: Tính theo số văn bản QPPL cần hợp nhất là 17 văn bản. Tính theo số lượng dự thảo văn bản hợp nhất (nếu phải thực hiện) là 08 văn bản.
(Xin xem thông tin chi tiết tại Phụ lục số C3).
2. Về công tác pháp điển hệ thống QPPL
2.1. Xây dựng văn bản để triển khai thực hiện Pháp lệnh pháp điển hệ thống QPPL.
Để triển khai thực hiện Pháp lệnh pháp điển hệ thống QPPL năm 2012 và Nghị định số 63/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, trong năm 2014, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các cơ quan ban hành, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản về công tác pháp điển hệ thống QPPL, đồng thời ban hành theo thẩm quyền văn bản hướng dẫn thực hiện (gồm: Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 06/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục các đề mục trong mỗi chủ đề và phân công cơ quan thực hiện pháp điển theo các đề mục; Quyết định số 1267/QĐ-TTg ngày 29/7/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng Bộ pháp điển; Thông tư số 13/2014/TT-BTP ngày 29/4/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn việc thực hiện pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật).
Cho đến nay, về cơ bản, các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết cũng như văn bản chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đầy đủ, bảo đảm các điều kiện pháp lý cần thiết cho việc xây dựng thành công Bộ pháp điển.
Thủ tướng Chính phủ đã xác lập cấu trúc của 45 chủ đề, 265 đề mục thuộc 45 chủ đề của Bộ pháp điển. Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ cũng đã phân công các cơ quan có trách nhiệm chủ trì thực hiện pháp điển theo đề mục và yêu cầu các cơ quan khác liên quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan chủ trì bảo đảm pháp điển thành công, hiệu quả, chất lượng kết quả pháp điển theo đề mục; xác lập lộ trình xây dựng Bộ pháp điển theo 3 giai đoạn trong 10 năm (2014-2023). Đây là các văn bản quan trọng để xác định thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cơ quan nhằm bảo đảm xây dựng thành công Bộ pháp điển theo lộ trình đã đề ra.
2.2. Công tác tổ chức triển khai thực hiện pháp điển
a) Tại các cơ quan thực hiện pháp điển
Năm 2014, các cơ quan có trách nhiệm thực hiện pháp điển đã tổ chức triển khai, thực hiện công tác pháp điển hệ thống QPPL tương đối đồng đều, thống nhất theo phạm vi thẩm quyền, trách nhiệm được giao. Cụ thể:
- Ban hành Kế hoạch chung triển khai, thực hiện pháp điển: Sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 843/QĐ-TTg và Quyết định số 1267/QĐ-TTg, đến nay, các cơ quan đã và đang tập trung xây dựng Kế hoạch triển khai nhiệm vụ pháp điển tại cơ quan mình; phân công, giao trách nhiệm cho từng đơn vị trực thuộc thực hiện pháp điển hệ thống QPPL.
- Thực hiện pháp điển các đề mục: Tập trung thực hiện các đề mục có hệ thống văn bản sử dụng để pháp điển ít, đơn giản, có tính ổn định. Đồng thời đang tập trung rà soát, hệ thống hóa các văn bản phục vụ pháp điển cho các đề mục còn lại trong các chủ đề thuộc giai đoạn 1.
b) Tại Bộ Tư pháp
Năm 2014, ngoài việc hoàn thiện thể chế, hướng dẫn các cơ quan triển khai thực hiện công tác pháp điển hệ thống QPPL, Bộ Tư pháp còn có trách nhiệm thực hiện pháp điển thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Bộ Tư pháp. Với vai trò là cơ quan chủ đạo giúp Chính phủ xây dựng Bộ pháp điển, Bộ Tư pháp đã chủ động triển khai kịp thời, có hiệu quả các công việc cụ thể sau:
- Ban hành các văn bản quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm cũng như mối quan hệ giữa các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp trong công tác pháp điển hệ thống QPPL, đồng thời xác lập các công cụ để theo dõi, xác định, đánh giá tình hình thực hiện pháp điển của các cơ quan (gồm: Quy chế phối hợp giữa các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp trong công tác pháp điển; Quy chế quản lý, sử dụng đội ngũ Cộng tác viên của Bộ Tư pháp làm công tác pháp điển; Bộ Tiêu chí đánh giá việc tổ chức thực hiện công tác pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật)
- Tổ chức xây dựng Trang thông tin điện tử (dự kiến đưa vào sử dụng trong quý II/2015) và phần mềm pháp điển (dự kiến đưa vào sử dụng trong quý IV/2015).
- Thực hiện pháp điển và thẩm định xong 03 đề mục, gồm: Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật; Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật; Rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật.
3. Các điều kiện đảm bảo triển khai thực hiện công tác hợp nhất văn bản QPPL và pháp điển hệ thống QPPL
- Về biên chế và kinh phí thực hiện: Hiện nay tất các cơ quan có trách nhiệm thực hiện hợp nhất văn bản QPPL và pháp điển hệ thống QPPL đều đã quan tâm bố trí biên chế làm các công tác này tại tổ chức pháp chế (hầu hết là biên chế làm kiêm nhiệm; riêng Vụ Pháp chế - Bộ Y tế bố trí 01 biên chế chuyên trách về công tác pháp điển) và bố trí nguồn kinh phí cho việc triển khai thực hiện hợp nhất văn bản QPPL theo quy định tại Thông tư liên tịch số 192/2013/TTLT-BTC-BTP ngày 13/12/2013 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác hợp nhất văn bản và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật.
- Công tác tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ: Trong năm 2014, Bộ Tư pháp đã tổ chức các Hội nghị triển khai các văn bản QPPL quy định về thực hiện pháp điển và các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 06/6/2014 phê duyệt Danh mục các đề mục trong mỗi chủ đề và phân công cơ quan thực hiện pháp điển theo các đề mục; Quyết định số 1267/QĐ-TTg ngày 29/7/2014 phê duyệt Đề án xây dựng Bộ pháp điển) để các cơ quan thực hiện pháp điển triển khai thống nhất và đồng bộ; đồng thời tổ chức các lớp tập huấn hướng dẫn nghiệp vụ về hợp nhất văn bản QPPL và pháp điển hệ thống QPPL cho cán bộ làm công tác pháp điển tại các cơ quan. Tại một số Bộ cũng đã tổ chức tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ pháp điển cho các đơn vị chuyên môn trực thuộc.
Bên cạnh đó, để giúp các cơ quan thuận tiện, dễ nghiên cứu các quy định về công tác pháp điển hệ thống QPPL và giúp người thực hiện pháp điển nắm rõ các quy định về kỹ thuật pháp điển, bảo đảm việc thực hiện pháp điển chất lượng, hiệu quả, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các cơ quan thực hiện pháp điển soạn thảo, in, phát hành Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ pháp điển hệ thống QPPL.
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Về công tác hợp nhất văn bản QPPL
- Qua hơn 02 năm triển khai thi hành Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012, công tác hợp nhất văn bản QPPL tại các cơ quan ngày càng đi vào nề nếp. Về cơ bản, việc tổ chức, chỉ đạo triển khai thi hành Pháp lệnh đã được thực hiện khá nghiêm túc, có sự phối hợp tốt giữa các đơn vị trực thuộc của cơ quan có thẩm quyền thực hiện hợp nhất văn bản QPPL. Hàng năm, nhiều cơ quan đã quan tâm, chủ động đưa vào chương trình, kế hoạch công tác các nội dung hoạt động liên quan đến công tác hợp nhất văn bản QPPL nhằm tổ chức kịp thời, hiệu quả việc hợp nhất văn bản QPPL được ban hành sau ngày 01/7/2012 theo quy định tại Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL, Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 28/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thi hành Pháp lệnh. Đồng thời, nhiều cơ quan còn thực hiện tương đối tốt công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung của Pháp lệnh; tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ cho các đơn vị chuyên môn trực thuộc; chuẩn bị các điều kiện bảo đảm cần thiết để thực hiện hợp nhất văn bản QPPL (nhân sự, kinh phí...);…
- Về chất lượng kết quả thực hiện hợp nhất văn bản QPPL:
Trên cơ sở theo dõi, đôn đốc hướng dẫn nghiệp vụ của Bộ Tư pháp đối với các cơ quan và tình hình, kết quả thực hiện hợp nhất văn bản QPPL trong năm 2014 của các cơ quan thể hiện tại báo cáo công tác cho thấy, hầu hết các cơ quan đã thực hiện việc hợp nhất văn bản QPPL (bao gồm các văn bản QPPL được ban hành trước ngày Pháp lệnh có hiệu lực và sau ngày Pháp lệnh có hiệu lực) theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung và kỹ thuật hợp nhất được quy định tại Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL, cơ bản đáp ứng yêu cầu về tổ chức thực hiện thường xuyên việc hợp nhất các văn bản QPPL được ban hành sau ngày Pháp lệnh có hiệu lực được nêu tại điểm b mục 1 của Chỉ thị số 26 của Thủ tướng. Cụ thể, các cơ quan đã xác định và tập hợp được tương đối chính xác, đầy đủ các văn bản QPPL cần hợp nhất, thực hiện việc hợp nhất văn bản QPPL theo đúng thẩm quyền quy định tại Điều 6, Điều 7 Pháp lệnh; đồng thời, các văn bản hợp nhất đã được gửi đăng tải trên Công báo và Trang thông tin điện tử theo quy định tại Điều 8 Pháp lệnh nhằm tạo thuận lợi trong việc sử dụng văn bản hợp nhất (chỉ trừ những văn bản hợp nhất có nội dung thuộc bí mật nhà nước).
Nhiều cơ quan khi gặp vấn đề khó khăn, vướng mắc về kỹ thuật thực hiện hợp nhất đã phản ánh trực tiếp về Bộ Tư pháp để trao đổi, tìm giải pháp tháo gỡ nhằm bảo đảm chất lượng thực hiện hợp nhất văn bản QPPL. Trong năm 2014, các cơ quan đã thực hiện hợp nhất văn bản QPPL được ban hành kể từ ngày 01/01/2014 đến hết ngày 31/12/2014 và đạt kết quả khá tốt (thực hiện kịp thời và hoàn thành việc hợp nhất đối với các tất cả các văn bản QPPL thuộc đối tượng cần hợp nhất) như: Bộ Công an; Bộ Quốc phòng; Bộ Giao thông vận tải; Bộ Tư pháp; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;….Một số cơ quan trong kỳ báo cáo trước chưa hoàn thành việc thực hiện hợp nhất đối với các văn bản QPPL được ban hành trước ngày Pháp lệnh có hiệu lực và sau ngày Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012 có hiệu lực tính đến 31/12/2013 thì đến nay cũng đã hoàn thành như: Bộ Ngoại giao; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Y tế. Công tác phối hợp giữa các đơn vị chuyên môn với đơn vị được giao làm đầu mối, tổ chức pháp chế tại các cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc hợp nhất văn bản QPPL ở nhiều cơ quan ngày càng được quan tâm, thực hiện tốt.
2. Về công tác pháp điển
- Sau khi Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh pháp điển và Chính phủ ban hành Nghị định số 63/2013/NĐ-CP, Bộ Tư pháp đã tích cực tham mưu, xây dựng để trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các Quyết định triển khai thực hiện, đồng thời phối hợp với các cơ quan thực hiện pháp điển ban hành các văn bản để hoàn thiện hệ thống thể chế cho công tác pháp điển hệ thống QPPL. Cho đến nay, hệ thống thể chế cho công tác pháp điển hệ thống QPPL đã đầy đủ.
- Trong thời gian qua, Thủ trưởng các cơ quan đã nhận thức tương đối rõ tầm quan trọng cũng như vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác xây dựng Bộ pháp điển. Qua đó, Thủ trưởng các cơ quan đã có nhiều chỉ đạo cụ thể như giao, phân công các đơn vị trực thuộc có trách nhiệm triển khai thực hiện pháp điển, trong đó có đơn vị làm đầu mối; kịp thời bố trí nhân sự phù hợp cho đơn vị đầu mối cũng như đơn vị phối hợp khác; tập trung xây dựng kế hoạch chung để triển khai thực hiện; xây dựng các văn bản chỉ đạo, quy định nội bộ nhằm tạo điều kiện cho việc triển khai công tác này được thuận lợi, hiệu quả. Một số cơ quan đã chủ động tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ cho các đơn vị trực thuộc nhằm xây dựng đội ngũ làm công tác pháp điển của cơ quan.
- Về cơ bản, các cơ quan đã và đang tập trung triển khai thực hiện công tác pháp điển hệ thống QPPL một cách chủ động, đồng đều, bảo đảm tiến độ theo lộ trình xây dựng Bộ pháp điển đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Các cơ quan đã rà soát, thực hiện pháp điển sớm các đề mục có hệ thống văn bản ít, đơn giản, có tính ổn định, mang tính thí điểm để rút kinh nghiệm thực hiện các đề mục khác.
III. HẠN CHẾ, KHÓ KHĂN VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Hạn chế, khó khăn
1.1. Về công tác hợp nhất văn bản QPPL
- Một số cơ quan thực hiện hợp nhất văn bản QPPL còn chưa kịp thời, chưa bảo đảm sự chính xác về nội dung và kỹ thuật hợp nhất. Vẫn còn một số cơ quan đến nay vẫn chưa hoàn thành việc thực hiện hợp nhất đối với các văn bản QPPL được ban hành kể từ ngày 01/01/2014 đến hết ngày 31/12/2014, thậm chí là chưa hoàn thành đối với các văn bản QPPL được ban hành trước ngày Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012 có hiệu lực và sau ngày Pháp lệnh có hiệu lực tính đến 31/12/2013 (mặc dù đã quá thời hạn theo quy định tương đối lâu và Bộ Tư pháp cũng đã quan tâm, đôn đốc). Việc thông tin, báo cáo định kỳ về tình hình, kết quả thực hiện công tác hợp nhất văn bản QPPL gửi về Bộ Tư pháp còn chưa bảo đảm về nội dung và thời hạn; số liệu báo cáo thống kê còn chưa đúng yêu cầu phải cập nhật...
- Việc đăng tải văn bản hợp nhất trên Công báo và Trang thông tin điện tử đã được nhiều cơ quan thực hiện. Tuy nhiên, việc gửi văn bản hợp nhất để đăng tải đôi khi còn chưa đầy đủ, chưa đúng thời hạn theo yêu cầu, ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp cận, sử dụng văn bản hợp nhất của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
1.2. Về công tác pháp điển hệ thống QPPL
Mặc dù được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Thủ trưởng cơ quan, tuy nhiên, cho đến nay, hầu hết các tổ chức pháp chế của các cơ quan chưa được bố trí biên chế chuyên trách làm công tác pháp điển (có duy nhất Bộ Y tế bố trí 01 biên chế chuyên trách làm công tác này).
2. Nguyên nhân
a) Về chủ quan:
- Bên cạnh các cơ quan đã quan tâm tổ chức triển khai công tác hợp nhất văn bản QPPL vẫn còn một số cơ quan chưa thực sự chủ động trong chỉ đạo, tổ chức triển khai công tác này, cụ thể như: Việc theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn thực hiện hợp nhất văn bản QPPL đối với các đơn vị trực thuộc chưa được sát sao, kịp thời; Lãnh đạo cơ quan chưa thực sự quan tâm, chỉ đạo bố trí đầy đủ nhân sự, biên chế và các điều kiện bảo đảm khác để tạo thuận lợi cho việc triển khai công tác hợp nhất văn bản QPPL;
- Tại một số cơ quan, nhận thức về trách nhiệm thực hiện công tác hợp nhất văn bản QPPL của các đơn vị chuyên môn trực thuộc còn chưa đầy đủ, có đơn vị vẫn coi đây là nhiệm vụ chủ yếu của tổ chức pháp chế nên chưa chủ động trong việc thực hiện hợp nhất văn bản QPPL; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa đơn vị chuyên môn với tổ chức pháp chế dẫn đến tiến độ và chất lượng thực hiện hợp nhất văn bản QPPL khó bảo đảm.
b) Về khách quan:
- Quá trình triển khai thực hiện cho thấy, nhiều quy định về kỹ thuật hợp nhất tại Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL còn chưa rõ ràng, thậm chí nhiều trường hợp phát sinh liên quan đến kỹ thuật hợp nhất cần có quy định để điều chỉnh, thực hiện thống nhất nhưng Pháp lệnh chưa có quy định cụ thể. Đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc lúng túng trong thực hiện hợp nhất văn bản QPPL, ảnh hưởng đến chất lượng kết quả của việc thực hiện hợp nhất văn bản QPPL; gây khó khăn không nhỏ khi sử dụng văn bản hợp nhất trong áp dụng, thi hành pháp luật. Để khắc phục, xử lý triệt để các hạn chế đã nêu.
Ngoài ra, hầu hết các cơ quan đều gặp khó khăn liên quan đến thời hạn hoàn thành việc thực hiện hợp nhất văn bản QPPL. Do quy trình thực hiện việc hợp nhất văn bản QPPL trải qua các giai đoạn (soạn thảo; gửi lấy ý kiến góp ý; chỉnh lý, hoàn thiện; trình ký xác thực), đồng thời hợp nhất văn bản QPPL cũng là công việc đòi hỏi sự chính xác, tỉ mỉ nên việc hoàn thành và bảo đảm yêu cầu về thời hạn thực hiện như quy định tại Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012 hiện nay là tương đối khó khăn (đây cũng là kiến nghị, phản ánh chung của rất nhiều cơ quan). Phần lớn các cơ quan đều có kiến nghị về việc sửa đổi theo hướng tăng thêm thời gian thực hiện hợp nhất văn bản QPPL, tối thiểu là 10 ngày làm việc kể từ ngày văn bản sửa đổi, bổ sung được công bố (đối với các văn bản QPPL cần hợp nhất thuộc trường hợp quy định tại Điều 5 của Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL); kể từ ngày nhận được văn bản (đối với văn bản cần hợp nhất thuộc Điều 6 Pháp lệnh ) hoặc tối thiểu là 10 ngày làm việc kể từ ngày ký ban hành văn bản QPPL cần hợp nhất (thuộc trường hợp quy định tại Điều 7 của Pháp lệnh).
- Theo quy định về công tác pháp điển hệ thống QPPL hiện nay, có đề mục thuộc thẩm quyền pháp điển của nhiều cơ quan, thậm chí có đề mục thuộc thẩm quyền pháp điển của tất cả các Bộ, cơ quan ngang Bộ như đề mục “Xử phạt vi phạm hành chính”. Như vậy, công tác phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện pháp điển là rất khó khăn, phức tạp.
- Công tác hợp nhất văn bản QPPL và pháp điển hệ thống QPPL là những hoạt động mới, khối lượng công việc rất lớn nhưng thiếu biên chế bổ sung cho các cơ quan để triển khai thực hiện các công tác này mà chỉ được bố trí trong tổng biên chế hiện có của các cơ quan.
PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ TRONG THỜI GIAN TỚI
I. Công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL
1. Tích cực thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Nghị quyết số 75/2014/QH13 ngày 24/6/2014 của Quốc hội (Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII đối với việc triển khai thi hành Hiến pháp; công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật và kiểm soát thủ tục hành chính) và Quyết định số 1246/QĐ-TTg ngày 24/7/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 75/2014/QH13 của Quốc hội.
2. Bám sát nội dung chương trình công tác hàng năm của ngành Tư pháp, sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương. Chú trọng kiểm tra văn bản theo một số chuyên đề thuộc những lĩnh vực kinh tế - xã hội có nhiều bức xúc, có tác động trực tiếp, rộng rãi đến người dân và tổ chức, cần quan tâm giải quyết như: Đất đai; quản lý khai thác khoáng sản; phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại; thuế, hải quan...vv. Chỉ đạo, đôn đốc quyết liệt trong việc tự kiểm tra, xử lý kịp thời, triệt để và đúng quy định đối với các văn bản đã được kiểm tra, phát hiện trái pháp luật; đề cao tính chịu trách nhiệm của cá nhân, cơ quan ban hành văn bản QPPL.
3. Tập trung hoàn thiện thể chế về công tác kiểm tra văn bản QPPL để đảm bảo phù hợp với các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Nghiên cứu, thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản QPPL, đặc biệt trong việc nắm thông tin, số liệu về tình hình công tác kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL; thiết lập cơ chế kiểm tra, xử lý văn bản QPPL do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp ban hành.
4. Tiến hành thường xuyên và đồng bộ công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL. Theo sát dư luận, phản biện xã hội về tình hình ban hành, thực thi văn bản QPPL; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tin, báo chí để cung cấp cũng như tiếp nhận và kịp thời xử lý các thông tin về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật.
5. Bộ Tư pháp chú trọng hướng dẫn nghiệp vụ, tập huấn cho cán bộ trực tiếp làm công tác soạn thảo, kiểm tra văn bản; đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động kiểm tra văn bản QPPL. Tích cực, chủ động trong việc phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát hệ thống văn bản QPPL và hướng dẫn, kiểm tra, nắm tình hình triển khai thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, xử lý văn bản QPPL để trao đổi, kịp thời giải quyết những tồn tại, vướng mắc về nghiệp vụ. Tăng cường tổ chức các Đoàn liên ngành về kiểm tra văn bản QPPL đến các cơ quan cấp Bộ và địa phương mà trong quá trình theo dõi và kiểm tra theo thẩm quyền thấy có số lượng văn bản được ban hành lớn hoặc phức tạp, có liên quan trực tiếp, ảnh hưởng lớn đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và doanh nghiệp hoặc có nhiều văn bản trái pháp luật hoặc xử lý văn bản trái pháp luật không kịp thời, không triệt để
II. Công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL
1. Tiếp tục quan tâm, chú trọng tổ chức triển khai công tác rà soát văn bản, ngay khi có căn cứ rà soát, kịp thời xử lý hoặc kiến nghị các cơ quan, người có thẩm quyền xử lý kết quả rà soát văn bản, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
2. Thực hiện rà soát hết các văn bản phải rà soát trong năm 2014, tiếp tục cập nhật kết quả rà soát và thực hiện việc xử lý kết quả rà soát văn bản theo Hiến pháp năm 2013, theo kết quả hệ thống hóa văn bản kỳ đầu thống nhất trong cả nước.
3. Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức sơ kết 02 năm triển khai thực hiện Nghị định số 16/2013/NĐ-CP; rà soát, hoàn thiện thể chế về rà soát, hệ thống hóa văn bản để phù hợp quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
III. Công tác hợp nhất văn bản QPPL và pháp điển hệ thống QPPL
1. Đối với các cơ quan thực hiện hợp nhất văn bản QPPL và pháp điển hệ thống QPPL:
- Tổ chức thực hiện thường xuyên việc hợp nhất văn bản QPPL theo quy định tại Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012;
- Tập trung thực hiện pháp điển xong các đề mục có số lượng văn bản pháp điển ít, đơn giản, có tính ổn định; rà soát, hệ thống hóa các văn bản QPPL phục vụ pháp điển cho các đề mục còn lại trong các chủ đề thuộc giai đoạn I.
- Tiếp tục củng cố về tổ chức, biên chế, bố trí các điều kiện bảo đảm cần thiết cho việc triển khai công tác hợp nhất văn bản QPPL và pháp điển hệ thống QPPL.
- Chú trọng bồi dưỡng, tập huấn về công tác hợp nhất văn bản QPPL và pháp điển hệ thống QPPL nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ làm các công tác này.
2.Đối với Bộ Tư pháp:
- Tăng cường theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn các cơ quan trong việc thực hiện công tác hợp nhất văn bản QPPL và pháp điển hệ thống QPPL.
- Tích cực phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng, hoàn thiện và đưa vào sử dụng Trang thông tin điện tử pháp điển hệ thống QPPL bảo đảm việc thông tin kịp thời, đầy đủ về tình hình triển khai thực hiện công tác pháp điển hệ thống QPPL; xây dựng và đưa vào sử dụng phần mềm pháp điển (dự kiến tháng 12/2015); nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Sổ tay nghiệp vụ kỹ thuật hợp nhất văn bản QPPL.
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức sơ kết 3 năm thực hiện Pháp lệnh pháp điển hệ thống QPPL năm 2012.
- Rà soát, chủ trì việc xây dựng, hoàn thiện thể chế về công tác hợp nhất văn bản QPPL và pháp điển hệ thống QPPL phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
PHẦN THỨ BA
ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Căn cứ vào tình hình thực tế việc thực hiện các công tác: Kiểm tra, xử lý văn bản QPPL; rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản QPPL; pháp điển hệ thống QPPL, để đảm bảo thực hiện ngày càng tốt hơn các công tác này trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đề ra, qua đó góp phần tích cực phục vụ việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Bộ Tư pháp xin kiến nghị Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương thực hiện tốt các nội dung sau:
I. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ CHUNG
1. Quán triệt, nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của các công tác: Kiểm tra, xử lý văn bản QPPL; rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản QPPL; pháp điển hệ thống QPPL đối với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo đồng bộ, thống nhất, khả thi, dễ tiếp cận; các Bộ, cơ quan ngang Bộ thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 28/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thi hành Pháp lệnh hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật và Pháp lệnh pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật.
2. Trong phạm vi thẩm quyền, trách nhiệm được giao, quan tâm bố trí biên chế và kinh phí phù hợp để đảm bảo thực hiện tốt các công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL; rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản QPPL; pháp điển hệ thống QPPl; chú trọng bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ để không ngừng nâng cao năng lực cho công chức thực hiện các công tác nêu trên nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
3. Thực hiện nghiêm túc, kịp thời, bảo đảm chất lượng việc báo cáo công tác và thống kê số liệu về kiểm tra, xử lý xử lý văn bản QPPL; rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản QPPL và pháp điển hệ thống QPPl theo quy định để phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ.
II. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI TỪNG CÔNG TÁC CỤ THỂ
1. Đối với công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL
1.1. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết số 75/2014/QH13 ngày 24/6/2014 của Quốc hội (Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII đối với việc triển khai thi hành Hiến pháp; công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật và kiểm soát thủ tục hành chính) và Quyết định số 1246/QĐ-TTg ngày 24/7/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 75/2014/QH13 của Quốc hội;
Quan tâm và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật trong công tác soạn thảo, thẩm định, ban hành, kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác soạn thảo, thẩm định, ban hành, kiểm tra, xử lý văn bản QPPL. Tăng cường, gắn kết công tác kiểm tra, rà soát văn bản với theo dõi thi hành pháp luật và kiểm soát thủ tục hành chính để kịp thời phát hiện những nội dung trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp để kịp thời kiến nghị các biện pháp xử lý, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;
Xác định công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các Bộ, ngành, địa phương; chú trọng công tác phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với Bộ Tư pháp để Bộ Tư pháp thực hiện tốt chức năng giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL nói riêng và các chức năng, nhiệm vụ khác của Bộ, của ngành Tư pháp nói chung.
1.2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND cấp tỉnh phải xử lý kịp thời và triệt để các văn bản có nội dung trái pháp luật đã được xác định, đặc biệt là các văn bản có liên quan trực tiếp, ảnh hưởng lớn đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức.
1.3. Kiến nghị Chính phủ xem xét, xác lập cơ chế hiệu quả trong việc xử lý trách nhiệm đối với cán bộ, công chức tham mưu soạn thảo, thẩm định, trình, thông qua và ký ban hành văn bản trái pháp luật; xử lý đối với cơ quan, người có thẩm quyền không xử lý hoặc xử lý không đúng quy định pháp luật đối với văn bản trái pháp luật đã được phát hiện.
2. Đối với công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL
2.1. Đẩy mạnh công tác rà soát văn bản, ngay khi có căn cứ rà soát, kịp thời xử lý hoặc kiến nghị các cơ quan, người có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản mới, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Khẩn trương rà soát hết các văn bản phải rà soát trong năm 2014, tiếp tục cập nhật kết quả rà soát và thực hiện việc xử lý kết quả rà soát văn bản theo Hiến pháp năm 2013, theo kết quả hệ thống hóa văn bản kỳ đầu thống nhất trong cả nước.
Năm 2015, tập trung thực hiện một số công việc trọng tâm trong công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản, đó là: Phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp tổ chức sơ kết 02 năm triển khai thực hiện Nghị định số 16/2013/NĐ-CP; rà soát, hoàn thiện thể chế về rà soát, hệ thống hóa văn bản bảo đảm phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
2.2. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa công tác rà soát văn bản với công tác xây dựng, kiểm tra, xử lý văn bản, theo dõi thi hành pháp luật và kiểm soát thủ tục hành chính.
2.3. Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương, giữa các cơ quan, đơn vị chuyên môn trực thuộc Bộ, ngành, địa phương với cơ quan tư pháp, tổ chức pháp chế trong công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản nhằm bảo đảm chất lượng công tác này.
2.4. UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tăng cường theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc triển khai công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản tại cấp huyện, cấp xã.
3. Đối với công tác hợp nhất văn bản QPPL
3.1. Chỉ đạo việc tiếp tục nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật về hợp nhất văn bản QPPL.
3.2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ chưa hoàn thành việc hợp nhất đối với các văn bản QPPL được ban hành trước ngày Pháp lệnh có hiệu lực và văn bản QPPL được ban hành kể từ ngày Pháp lệnh có hiệu lực tính đến hết ngày 31/12/2014 khẩn trương hoàn thành việc thực hiện hợp nhất; nghiêm túc tổ chức thực hiện thường xuyên việc hợp nhất các văn bản QPPL trong năm 2015 theo quy định tại Điều 6 và Điều 7 của Pháp lệnh, gửi đăng Công báo văn bản hợp nhất theo quy định tại Điều 8 của Pháp lệnh; định kỳ gửi báo cáo tình hình, kết quả thực hiện Pháp lệnh về Bộ Tư pháp để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ theo chỉ đạo tại Chỉ thị số 26 của Thủ tướng.
3.3. Đề nghị Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, Tổng Kiểm toán Nhà nước, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục quan tâm, chỉ đạo triển khai thi hành Pháp lệnh hợp nhất văn bản QPPL tại cơ quan mình; phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp trong việc hướng dẫn kỹ thuật hợp nhất văn bản QPPL, bồi dưỡng kỹ năng hợp nhất văn bản QPPL; chủ động bố trí các điều kiện bảo đảm cần thiết (tổ chức, biên chế, kinh phí, ...) cho công tác hợp nhất văn bản QPPL tại cơ quan mình.
Trên đây là Báo cáo của Bộ Tư pháp về các công tác: Kiểm tra, xử lý văn bản QPPL; rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản QPPL và pháp điển hệ thống QPPL trong năm 2014. Kính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo./.
Tuyên Quang, Yên Bái, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng, Tây Ninh, Bình Phước, Hà Giang, Phú Thọ, Nam Định, Thái Bình.
Quyết định số 42/2009/QĐ-TTg ngày 16/3/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nước; Thông tư 20/2010/TT-BTP ngày 30/11/2010 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật; Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP ngày 17/8/2011 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp quy định việc lập, dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý; rà soát; hệ thống hóa văn bản QPPL.