Thông cáo báo chí văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 10 năm 2024Thực hiện khoản 2, khoản 3 Điều 12 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 và Thông tư số 07/2021/TT-BTP ngày 01/11/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về quy định việc ban hành thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ Chính phủ ban hành, Bộ Tư pháp ra Thông cáo báo chí về một số văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 10 năm 2024, cụ thể như sau:I. DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT ĐƯỢC BAN HÀNH
Trong tháng 10 năm 2024, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 25 văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể:
Các Nghị định của Chính phủ:
1. Nghị định số 121/2024/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 139/2018/NĐ-CP ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ quy định về kinh doanh dịch vụ kiểm định xe cơ giới, được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 30/2023/NĐ-CP ngày 08 tháng 6 năm 2023 của Chính phủ;
2. Nghị định số 122/2024/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên;
3. Nghị định số 123/2024/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai;
4. Nghị định số 124/2024/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 86/2018/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2018 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục;
5. Nghị định số 125/2024/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục;
6. Nghị định số 126/2024/NĐ-CP ngày 08 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội;
7. Nghị định số 127/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về công tác dân tộc;
8. Nghị định số 128/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại;
9. Nghị định số 129/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 91/2026/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ về quản lý hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế; Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế;
10. Nghị định số 130/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về thu phí sử dụng đường bộ cao tốc đối với phương tiện lưu thông trên tuyến đường bộ cao tốc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác;
11. Nghị định số 131/2024/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định thương mại tự do giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Nhà nước I-xra-en giai đoạn 2024 - 2027;
12. Nghị định số 132/2024/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí;
13. Nghị định số 133/2024/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều, phụ lục của Nghị định số 58/2021/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2021 của Chính phủ quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng;
14. Nghị định số 134/2024/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ về chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn tỉnh Thanh Hóa;
15. Nghị định số 135/2024/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ;
16. Nghị định số 136/2024/NĐ-CP ngày 23 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện;
17. Nghị định số 137/2024/NĐ-CP ngày 23 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước và hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử;
18. Nghị định số 138/2024/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng chi thường xuyên ngân sách nhà nước để mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng;
19. Nghị định số 139/2024/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định thể thức bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay;
20. Nghị định số 140/2024/NĐ-CP ngày 25 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về thanh lý rừng trồng;
21. Nghị định số 141/2024/NĐ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS);
22. Nghị định số 142/2024/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật.
Các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ:
1. Quyết định số 15/2024/QĐ-TTg ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Quyết định số 38/2021/QĐ-TTg ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ;
2. Quyết định số 16/2024/QĐ-TTg ngày 14 tháng 10 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh;
3. Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg ngày 25 tháng 10 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg ngày 12 tháng 8 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần.
II. HIỆU LỰC THI HÀNH, SỰ CẦN THIẾT, MỤC ĐÍCH BAN HÀNH VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Trên cơ sở thông tin do các bộ, cơ quan ngang bộ cung cấp, Bộ Tư pháp thông tin về hiệu lực thi hành, sự cần thiết, mục đích ban hành và nội dung chủ yếu của 25 văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 10 năm 2024 như sau:
1. Nghị định số 121/2024/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 139/2018/NĐ-CP ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ quy định về kinh doanh dịch vụ kiểm định xe cơ giới, được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 30/2023/NĐ-CP ngày 08 tháng 6 năm 2023 của Chính phủ
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05 tháng 10 năm 2024
- Điều khoản chuyển tiếp: Đơn vị đăng kiểm đã bị thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định xe cơ giới trước ngày Nghị định này có hiệu lực thì được áp dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Nghị định này.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Việc ban hành Nghị định nhằm ngăn ngừa tái diễn tình trạng ùn tắc phương tiện đến kiểm định như đã từng xảy ra trong những tháng đầu năm 2023, đặc biệt là nếu không kịp thời điều chỉnh sẽ có những địa phương không còn đơn vị đăng kiểm để phục vụ người dân và doanh nghiệp do có nhiều đăng kiểm viên sẽ bị thu hồi chứng chỉ đăng kiểm viên, nhiều đơn vị đăng kiểm sẽ bị tạm dừng hoạt động[1]; ngoài ra cần sửa đổi quy định về thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định xe cơ giới cho phù hợp với thực tiễn để tránh thiệt hại cho doanh nghiệp; đồng thời rút kinh nghiệm từ kết quả điều tra của Cơ quan Công an thời gian vừa qua để bổ sung biện pháp quản lý hành chính Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm định.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 03 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 139/2018/NĐ-CP ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ quy định về kinh doanh dịch vụ kiểm định xe cơ giới, được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 30/2023/NĐ-CP ngày 08 tháng 6 năm 2023 của Chính phủ, cụ thể như sau:
- Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 139/2018/NĐ-CP ngày 08/10/2018 của Chính phủ quy định về kinh doanh dịch vụ kiểm định xe cơ giới, được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 30/2023/NĐ-CP ngày 08/6/2023 của Chính phủ.
- Điều 2. Ngưng hiệu lực thi hành, bãi bỏ một số điểm, khoản, điều tại Nghị định số 139/2018/NĐ-CP và Nghị định số 30/2023/NĐ-CP.
- Điều 3: Điều khoản thi hành.
- Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng: Nghị định không sửa đổi, bổ sung nội dung về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Nghị định số 139/2018/NĐ-CP và Nghị định số 30/2023/NĐ-CP.
Nội dung cơ bản của Nghị định
Nghị định có 02 nội dung chính được dư luận quan tâm, đó là việc thu hồi chứng chỉ đăng kiểm viên và việc tạm dừng hoạt động của đơn vị đăng kiểm có thể dẫn đến ùn tắc kiểm định, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp khi đưa xe đi kiểm định. Những vấn đề này được giải quyết tại các quy định như sau:
- Bãi bỏ quy định tạm đình chỉ hoạt động của đơn vị đăng kiểm có từ 02 lượt hoặc 03 lượt đăng kiểm viên bị xử phạt hoặc 02 đăng kiểm viên bị thu hồi chứng chỉ đăng kiểm viên (bãi bỏ điểm b khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 10 Nghị định số 139/2018/NĐ-CP).
- Ngưng hiệu lực thi hành thu hồi chứng chỉ đăng kiểm viên trong trường hợp “Bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án do vi phạm các quy định liên quan đến lĩnh vực kiểm định xe cơ giới” cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2025.
2. Nghị định số 122/2024/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 12 năm 2024.
- Khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 2 Nghị định số 122/2024/NĐ-CP có quy định lộ trình thời gian như sau:
2. Trong năm 2029, Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định việc điều chỉnh số lần được miễn thuế và số tiền được miễn thuế cho nhập khẩu hàng hoá theo hình thức mua bán, trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới.
3. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2029, khi thực hiện hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa qua biên giới, cư dân biên giới phải có mặt để làm thủ tục xuất nhập khẩu.
4. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2030, hàng hoá chỉ được làm thủ tục xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu quốc tế; cửa khẩu chính (cửa khẩu song phương); cửa khẩu phụ; lối thông quan, đường chuyên dụng vận chuyển hàng hóa thuộc cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính (cửa khẩu song phương); lối mở biên giới đã hoàn thành trình tự mở, nâng cấp cửa khẩu biên giới, lối mở biên giới theo quy định pháp luật hiện hành và đã đạt thỏa thuận song phương về cho phép xuất khẩu, nhập khẩu, trao đổi hàng hóa
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Hoạt động thương mại biên giới trong những năm gần đây đã có bước phát triển tốt, đóng góp đáng kể trong thương mại song phương của Việt Nam với các nước có chung biên giới. Thương mại biên giới đã góp phần tích cực trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước; tạo điều kiện cho cư dân biên giới, trong đó có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số ổn định cuộc sống, cư trú lâu dài tại khu vực biên giới; góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo và đảm bảo quốc phòng, an ninh tại khu vực biên giới, miền núi, vùng sâu, vùng xa của đất nước.
Nghị định số 14/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên giới (Nghị định số 14/2018/NĐ-CP) đã tạo khung pháp lý và thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại biên giới dựa trên cơ sở các Luật, Nghị định và Điều ước quốc tế liên quan tạo động lực phát triển kinh tế vùng biên giới, kết nối các vùng sản xuất trong nước, tạo thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam và nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu cần thiết để phục vụ sản xuất trong nước. Việc triển khai Nghị định số 14/2018/NĐ-CP đã tạo ra sự thông thoáng trong thực hiện các thủ tục hành chính một cách nhanh chóng, kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho thương nhân, doanh nghiệp và cư dân biên giới mua bán, trao đổi hàng hóa ở khu vực biên giới, góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại biên giới hiệu quả. Ngoài ra, Nghị định số 14/2018/NĐ-CP đưa ra những cơ chế, chính sách hướng tới mục tiêu phát triển ổn định nhằm tạo môi trường thuận lợi, đa dạng trong các hình thức kinh doanh đối với thương nhân và sinh hoạt của cư dân biên giới; bên cạnh đó, tạo khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra, kiểm soát, kiểm dịch tại khu vực cửa khẩu, phòng ngừa gian lận trong hoạt động ngoại thương với các nước có chung đường biên giới.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 14/2018/NĐ-CP đã phát sinh một số vấn đề trong hoạt động thương mại biên giới, cụ thể như sau:
(i) Hoạt động thương mại khu vực biên giới tuy có tăng trưởng qua các năm nhưng nhìn chung chưa thật sự sôi động, quy mô còn hạn chế, mặt hàng xuất nhập khẩu chưa phong phú, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có.
(ii) Khu vực cửa khẩu biên giới một số nơi chưa được đầu tư xây dựng đồng bộ; việc huy động, thu hút các nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực cửa khẩu còn hạn chế, tiến độ xây dựng còn chậm.
(iii) Công tác tuyên truyền quy định pháp luật về thương mại biên giới đã được thực hiện nhưng còn hạn chế. Trình độ dân trí, nhận thức của cư dân biên giới đa phần vẫn còn hạn chế, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số. Đời sống của đa số cư dân vùng biên giới nhìn chung còn thấp. Một bộ phận cư dân biên giới không có nghề nghiệp ổn định, khó khăn trong cuộc sống nên dễ bị các đối tượng buôn lậu lôi kéo, lợi dụng thực hiện các hành vi vi phạm.
(iv) Tình trạng ùn tắc hàng hóa tại khu vực cửa khẩu vẫn còn diễn ra khi vào thời điểm thu hoạch chính vụ hoặc vào các dịp Lễ, Tết, đặc biệt tại các cửa khẩu biên giới phía Bắc.
(v) Một số quy định hiện nay được đánh giá là không còn phù hợp hoặc không theo kịp tình hình phát triển thương mại biên giới trong thực tế cũng như chính sách, định hướng quản lý biên giới, phát triển xuất nhập khẩu nói chung hiện nay.
+ Các quy định hiện nay rất thông thoáng đối với hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa qua biên giới đất liền, đặc biệt là với xuất khẩu, cụ thể: (i) mọi tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh (thương nhân) đều được quyền xuất khẩu hàng hóa qua biên giới. Cá nhân không có đăng ký kinh doanh, nếu cư trú tại khu vực biên giới, cũng được quyền xuất khẩu hàng hóa qua biên giới nếu đó là hàng sản xuất tại Việt Nam. Nói chung, thương nhân và cư dân có thể xuất khẩu tất cả các loại hàng hóa, trừ hàng hóa cấm xuất khẩu; (ii) việc xuất khẩu hàng hóa có thể được thực hiện ở tất cả các cửa khẩu cũng như lối mở; (iii) thương nhân và cư dân không nhất thiết phải xuất trình hợp đồng mua bán bằng văn bản với cơ quan hải quan khi xuất khẩu hàng hóa. Thương nhân có thể tự lập bảng kê hàng hóa để thay cho hợp đồng; (iv) đồng tiền thanh toán và phương thức thanh toán đối với hoạt động xuất khẩu cũng rất linh hoạt.
Điều này đã và đang phần nào gây khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước, các lực lượng chức năng thực thi tại khu vực cửa khẩu trong công tác thống kê chính xác số liệu xuất nhập khẩu theo đúng mục đích, hình thức thương mại; trong công tác kiểm dịch, kiểm tra, kiểm soát hàng hóa, phòng chống gian lận thương mại, buôn lậu một cách có hiệu quả.
+ Tại Điều 21, Điều 22, Chương V của Nghị định số 14/2018/NĐ-CP quy định công dân hai Bên có chung biên giới Việt Nam - Lào và Việt Nam - Campuchia có thể sử dụng chứng minh nhân dân/căn cước công dân qua lại biên giới và chợ biên giới, tuy nhiên quy định tại các điều này chưa toàn diện để đảm bảo thực thi đầy đủ các nghĩa vụ trong các điều ước quốc tế mà Việt nam đã ký kết cũng như Luật xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam (Luật số 49/2019/QH14 ngày 22 tháng 11 năm 2019), Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 (Luật số 47/2014/QH13 ngày 16 tháng 6 năm 2014), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam (Luật số 51/2019/QH14 ngày 25 tháng 11 năm 2019) và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan (các giấy tờ được phép xuất nhập cảnh qua biên giới với Lào không bao gồm chứng minh nhân dân
+ Riêng đối với tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc, hoạt động xuất nhập khẩu theo hình thức trao đổi cư dân biên giới hay còn gọi là “xuất khẩu tiểu ngạch” diễn ra khá sôi động.
Bên cạnh hoạt động xuất nhập khẩu theo thông lệ quốc tế tại khu vực biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, hoạt động xuất nhập khẩu theo hình thức trao đổi cư dân biên giới diễn ra khá sôi động. Theo quy định của Trung Quốc, hàng hoá nhập khẩu vào thị trường Trung Quốc theo hình thức trao đổi cư dân biên giới sẽ được hưởng một số ưu đãi nhất định, ví dụ như được miễn kiểm dịch, không cần hợp đồng, không cần thanh toán qua ngân hàng và được miễn thuế nếu giá trị hàng hóa trao đổi không vượt quá 8.000 Nhân dân tệ/người/ngày. Đặc biệt, nhiều nông sản của Việt Nam mặc dù chưa được phép nhập khẩu chính thức vào Trung Quốc (như nhiều loại trái cây, thịt lợn, trâu bò,…) nhưng vẫn có thể bán vào Trung Quốc theo hình thức trao đổi cư dân. Do có các ưu đãi này, các doanh nghiệp Trung Quốc đã tận dụng hình thức trao đổi cư dân để buôn bán lớn, cụ thể là lập danh sách cư dân, sau đó gom tiêu chuẩn miễn thuế của cư dân để nhập khẩu các lô hàng lớn. Đây chính là hoạt động “tiểu ngạch” như vẫn được đề cập tới thời gian qua. Hàng hóa xuất khẩu theo hình thức trao đổi cư dân biên giới, sau khi qua biên giới, sẽ được gom về tiêu thụ tại các chợ biên giới bên phía Trung Quốc.
Có thể nói, các ưu đãi của Trung Quốc đối với hình thức trao đổi cư dân biên giới kết hợp với chính sách có tính tương thích cao của Việt Nam là nguyên nhân chính dẫn đến việc hình thành hình thức “xuất khẩu tiểu ngạch”. Dù chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng xuất khẩu sang Trung Quốc nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các mặt hàng chưa được phép xuất khẩu chính thức vào Trung Quốc (như na, roi) hoặc chưa đáp ứng được tiêu chuẩn của Trung Quốc (như không có mã số vùng trồng, mã số doanh nghiệp v.v..). Thậm chí, để tận dụng ưu đãi thuế, một số mặt hàng tuy đã được phép xuất khẩu chính thức vào Trung Quốc (như sản phẩm sắn, quả vải, quả dưa hấu v.v. ) vẫn chủ động chuyển sang hình thức tiểu ngạch để xuất khẩu vào Trung Quốc.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã: (i) tăng cường quản lý, kiểm soát hoạt động nhập khẩu tại khu vực biên giới; (ii) tổ chức truyền thông nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp và người tiêu dùng Trung Quốc về vệ sinh an toàn thực phẩm; (iii) siết chặt công tác kiểm dịch, kiểm nghiệm và quản lý chất lượng sản phẩm nông sản nhập khẩu thông qua các thủ tục mang tính kỹ thuật như truy xuất nguồn gốc, yêu cầu đăng ký vùng nuôi trồng và doanh nghiệp xuất khẩu đối với nông sản, thực phẩm; quản lý an toàn thực phẩm xuất nhập khẩu (Trung Quốc đã ban hành và chính thức áp dụng Lệnh 248, Lệnh 249 từ ngày 01 tháng 01 năm 2022); v.v.. Chính vì vậy, phương thức xuất khẩu tiểu ngạch ngày càng bấp bênh, không bền vững, không còn có nhiều cơ hội cho hàng nông thủy sản của Việt Nam, đặc biệt là những hàng nông thủy sản chưa đăng ký truy xuất nguồn gốc, mã số vùng trồng.
Từ các vấn đề thực tiễn nêu trên, việc ban hành Nghị định số 122/2024/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên giới là cần thiết.
- Mục đích ban hành:
+ Hoàn thiện cơ sở pháp lý, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động thương mại biên giới.
+ Khắc phục những vấn đề phát sinh từ thực tiễn thi hành Nghị định số 14/2018/NĐ-CP như khắc phục tình trạng ùn tắc hàng hoá tại các cửa khẩu biên giới thời gian qua, thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá (đặc biệt là nông sản) qua các cửa khẩu biên giới phía Bắc theo hình thức thương mại chính ngạch.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 02 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên, cụ thể như sau:
- Điều 1: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên giới.
- Điều 2: Điều khoản thi hành.
Các quy định chính, nội dung mới
- Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 3 và khoản 1 Điều 16 Nghị định số 14/2018/NĐ-CP để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành liên quan đến quy định về nơi cư trú của chủ thể tham gia hoạt động thương mại biên giới.
- Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định số 14/2018/NĐ-CP theo hướng phương thức thanh toán bằng tiền mặt chỉ được áp dụng đối với hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới để hạn chế rủi ro cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa (đặc biệt tại biên giới Việt Nam-Trung Quốc) và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cơ quan chức năng trong công tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, gây bất ổn cho xã hội đối với khu vực biên giới.
- Bổ sung Điều 4a quy định về tiêu chuẩn hàng hóa trong hoạt động thương mại biên giới vào sau Điều 4 Nghị định số 14/2018/NĐ-CP, trong đó quy định hàng hóa trong hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa qua biên giới của thương nhân, cư dân biên giới phải đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn, chất lượng, quy định về truy xuất nguồn gốc và các điều kiện khác theo quy định pháp luật của nước nhập khẩu để nâng cao ý thức của người dân, doanh nghiệp sản xuất và định hướng chính sách, phản ánh xu hướng thị trường đối với người sản xuất (cả sản xuất lớn và sản xuất nhỏ): ngày càng yêu cầu cao hơn chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trường (kể cả thị trường trong và ngoài nước, không chỉ thị trường Trung Quốc mà còn là thị trường của hơn 200 nước khác mà Việt Nam đã xuất khẩu hàng hóa), từ đó xây dựng hình ảnh, thương hiệu hàng hóa, sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế; góp phần vào mục tiêu xuất khẩu bền vững, gia tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.
- Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 16, khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 22 Nghị định số 14/2018/NĐ-CP để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết cũng như quy định pháp luật hiện hành về các loại giấy tờ xuất nhập cảnh qua lại biên giới
- Sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 21 và khoản 3 Điều 22 Nghị định số 14/2018/NĐ-CP để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với các quy định pháp luật hiện hành về quản lý cửa khẩu biên giới đất liền.
- Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định số 14/2018/NĐ-CP để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với các quy định pháp luật hiện hành về hải quan.
- Để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa theo hình thức thương mại chính ngạch, khắc phục tình trạng ùn tắc hàng hóa tại các cửa khẩu biên giới, ngăn ngừa hiện tượng lợi dụng chính sách ưu đãi cho cư dân biên giới, lập danh sách cư dân sau đó gom tiêu chuẩn miễn thuế để nhập khẩu các lô hàng lớn rồi bán lại, Nghị định số 122/2024/NĐ-CP đã quy định lộ trình như sau:
(i) Trong năm 2029, Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định việc điều chỉnh số lần được miễn thuế và số tiền được miễn thuế cho nhập khẩu hàng hoá theo hình thức mua bán, trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới.
(ii) Từ ngày 01 tháng 01 năm 2029, khi thực hiện hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa qua biên giới, cư dân biên giới phải có mặt để làm thủ tục xuất nhập khẩu.
(iii) Từ ngày 01 tháng 01 năm 2030, hàng hoá chỉ được làm thủ tục xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu quốc tế; cửa khẩu chính (cửa khẩu song phương); cửa khẩu phụ; lối thông quan, đường chuyên dụng vận chuyển hàng hóa thuộc cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính (cửa khẩu song phương); lối mở biên giới đã hoàn thành trình tự mở, nâng cấp cửa khẩu biên giới, lối mở biên giới theo quy định pháp luật hiện hành và đã đạt thỏa thuận song phương về cho phép xuất khẩu, nhập khẩu, trao đổi hàng hóa.
3. Nghị định số 123/2024/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 04 tháng 10 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Căn cứ chính trị, pháp lý
- Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII, trong đó đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp:“... Tăng cường công tác quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng đất, đặc biệt là đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên... ... tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý và sử dụng đất. Tăng cường kiểm soát quyền lực, thường xuyên kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất đai, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về đất đai; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực đất đai...”
- Luật Đất đai số 31/2024/QH15 ngày 18 tháng 01 năm 2024.
- Quyết định số 222/QĐ-TTg ngày 05 tháng 3 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Đất đai số 31/2024/QH15.
- Chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại các văn bản số: 282/TTg-NN ngày 06 tháng 5 năm 2024, số 202/TTg-NN ngày 26 tháng 3 năm 2024, số 2710/VPCP-NN ngày 23 tháng 4 năm 2024 và số 2892/VPCP-NN ngày 30 tháng 4 năm 2024 của Văn phòng Chính phủ.
- Chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại Công văn số 2353/VPCP-NN ngày 09 tháng 4 năm 2024 và Thông báo số 168/TB-VPCP ngày 17 tháng 4 năm 2024 của Văn phòng Chính phủ.
Cơ sở thực tiễn
Luật Đất đai năm 2013 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2014. Để tổ chức thi hành Luật Đất đai, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày 10 tháng 11 năm 2014 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đã góp phần tạo hành lang pháp lý đồng bộ, chặt chẽ và khả thi cho việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật đất đai, tăng tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật.
Quá trình tổ chức triển khai thi hành Luật Đất đai năm 2013, Nghị định số 102/2014/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường luôn lắng nghe ý kiến phản hồi từ phía địa phương, người dân và doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, Bộ đã tham mưu để Chính phủ ban hành Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai và Nghị định số 04/2022/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; tài nguyên nước và khoáng sản; khí tượng thủy văn; đo đạc bản đồ. Các Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai nêu trên đã góp phần tạo hành lang pháp lý đồng bộ, chặt chẽ và khả thi cho việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật đất đai, tăng tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật.
Mặc dù đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên, công tác quản lý và sử dụng đất đai còn tồn tại, hạn chế như: tranh chấp đất đai, khiếu nại, tố cáo, vi phạm pháp luật về đất đai còn nhiều nhưng việc xử lý còn hạn chế. Nguyên nhân là do đất đai có tính lịch sử, phức tạp; việc thi hành pháp luật về đất đai ở một số nơi còn chưa nghiêm; chính sách, pháp luật còn có những bất cập, một số nội dung của pháp luật có liên quan chưa thống nhất, đồng bộ với pháp luật về đất đai; việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý chưa được thực hiện tốt; một số nội dung phát sinh mới trong thực tiễn nhưng pháp luật chưa có quy định điều chỉnh.
Ngày 18 tháng 01 năm 2024, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 5, Quốc hội khóa XV thông qua Luật Đất đai số 31/2024/QH15 với 16 chương 260 điều (Luật Đất đai năm 2024). Luật Đất đai năm 2024 có nhiều nội dung mới mang tính đột phá quan trọng, trong đó có các quy định để tăng cường công tác thanh tra kiểm tra, xử lý vi phạm về đất đai. Tại Luật Đất đai năm 2024 và các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật đã bổ sung nhiều quy định yêu cầu các tổ chức, cá nhân thực hiện để quản lý, sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả; một số hành vi vi phạm, hình thức, mức xử phạt đã không còn phù hợp đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình thực tế, bảo đảm tính khả thi.
Ngày 05 tháng 3 năm 2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 222/QĐ-TTg phân công các Bộ, ngành chuẩn bị nội dung quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai, trong đó đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì xây dựng Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Đối với quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian qua, xong vẫn còn tồn tại một số bất cập sau:
Thứ nhất, mức xử phạt còn nhẹ, chưa bảo đảm tính răn đe.
Thứ hai, do lịch sử quá trình quản lý, sử dụng đất đai phức tạp, nhiều hành vi vi phạm đã xảy ra trong quá khứ chưa được phát hiện, xử lý, sau đó người sử dụng đất lại tiếp tục mua bán, chuyển nhượng qua nhiều lần không đúng quy định của pháp luật (giấy tờ viết tay), có những trường hợp người chuyển nhượng đã chết, chuyển đi nơi khác, tổ chức đã giải thể, không còn hoạt động... Đến nay, nhiều trường hợp người đang sử dụng đất không phải là người vi phạm, vì vậy việc xử lý là rất khó khăn, phức tạp, việc xác định hành vi sử dụng đất sai mục đích, lấn, chiếm đất đai, vi phạm các quy định về thực hiện quyền của người sử dụng đất… nhất là các hành vi vi phạm đã xảy ra trước ngày 15/10/1993 (cách đây hơn 30 năm) là rất khó xác định, thời hiệu xử phạt đã hết (không xử phạt nhưng vẫn phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả). Việc yêu cầu phải xử lý vi phạm đối với các trường hợp này là rất khó khăn, đặc biệt là biện pháp khắc phục hậu quả “buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất” trong khi nhiều trường hợp việc sử dụng đất hiện tại lại phù hợp với quy hoạch đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt tại thời điểm hiện tại...
Luật Đất đai năm 2003, 2013, 2024 đều cho phép xem xét, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các trường hợp đã sử dụng đất trước ngày 15/10/1993. Mặt khác, Điều 236 Bộ Luật Dân sự quy định về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đã quy định: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.
Trường hợp vẫn quy định phải xử lý đối với trường hợp nêu trên thì sẽ phát sinh nhiều thủ tục đi kèm như: phải lập biên bản vi phạm, xác định đối tượng vi phạm, xác định thời điểm sử dụng đất, ra quyết định xử phạt… sau đó mới làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận cho người sử dụng đất, như vậy sẽ mất thời gian, tăng chi phí xã hội do phải thực hiện thủ tục hành chính, tốn kém cho ngân sách nhà nước.
Thứ ba, một số biện pháp khắc phục hậu quả chưa phù hợp với thực tế, cụ thể như sau:
- Nghị định số 91/2019/NĐ-CP quy định một trong những biện pháp khắc phục hậu quả đối với trường hợp đã nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất không phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt là buộc trả lại đất. Tuy nhiên, một số trường hợp bên chuyển nhượng, góp vốn, cho thuê quyền sử dụng đất là tổ chức đã giải thể, cá nhân đã chết hoặc không tìm thấy nên không thể trả lại đất. Đồng thời, Luật Đất đai lại không quy định nếu không trả lại được đất thì Nhà nước thu hồi. Do vậy không có cơ sở để thu hồi đất. Điều này gây khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện.
- Nghị định số 91/2019/NĐ-CP quy định một trong các biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi hủy hoại đất là buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm. Thực tế cho thấy hậu quả của hành vi “hủy hoại đất” rất đa dạng (làm biến dạng địa hình, làm suy giảm chất lượng đất...), tuy nhiên không phải hậu quả nào cũng phải hoặc có thể khôi phục lại tình trạng như ban đầu, có những trường hợp sau vi phạm việc sử dụng đất lại mang lại hiệu quả hơn (đào đất làm đường, đào ao thả cá, lấp ao để trồng cây...). Do vậy, khi áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả này, một số địa phương gặp lúng túng khi yêu cầu người có hành vi vi phạm khôi phục lại tình trạng ban đầu của thửa đất.
Thứ tư, tại Nghị định số 91/2019/NĐ-CP một số khái niệm, thuật ngữ, hành vi vi phạm cụ thể còn chưa rõ, khó xác định trên thực tế dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng xử lý vi phạm trong lĩnh vực đất đai;
Thứ năm, Luật Đất đai năm 2024 có nhiều điểm mới so với Luật Đất đai năm 2013, như việc cho phép cấp Giấy chứng nhận đối với các trường hợp không có giấy tờ mà sử dụng ổn định trước ngày 01/7/2014 (kể cả các trường hợp mua bán bằng giấy tờ viết tay trước ngày 01/7/2014); hành vi sử dụng đất không đúng mục đích không còn là hành vi bị nghiêm cấm mà còn cho phép được sử dụng đa mục đích đối với một số trường hợp (Điều 218 Luật Đất đai năm 2024); điều kiện để nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp cũng được mở rộng đối tượng, hạn mức...
Từ những lý do trên, việc ban hành Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là cần thiết, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 4 chương và 36 điều quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, cụ thể như sau:
- Chương I: Điều 1- Điều 7.
- Chương II: Điều 8 - Điều 29.
- Chương III: Điều 30 – Điều 33.
- Chương IV: Điều 34 – Điều 36.
4. Nghị định số 124/2024/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 86/2018/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2018 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 20 tháng 11 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Nghị định ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ một số điều của Nghị định 86/2018/NĐ-CP ngày 06/6/2024 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục. Để giải quyết một số điểm bất cập, chưa phù hợp với thực tế, liên quan đến các vấn đề như: Đối tượng liên kết giáo dục; Quy hoạch; Việc thực hiện công khai các yếu tố nước ngoài của cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài; Quyền tự chủ của cơ sở giáo dục, tăng cường hậu kiểm; Lộ trình đầu tư; việc quản lý, đánh giá nội dung chương trình; Quy định, thủ tục thành lập và hoạt động của phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học nước ngoài tại Việt Nam; Trách nhiệm thanh kiểm tra, đánh giá và giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm theo thẩm quyền của địa phương.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 3 điều sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 86/18/NĐ-CP ngày 06/6/2024 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục và 01 Phụ lục, cụ thể như sau:
- Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 86/2018/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2018 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục
- Điều 2. Bổ sung, thay thế, bỏ một số từ, cụm từ tại một số điều của Nghị định số 86/2018/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2018 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục
- Điều 3. Hiệu lực thi hành.
- Phụ lục: Các mẫu văn bản về phê duyệt, gia hạn, chấm dứt liên kết giáo dục với nước ngoài; thành lập văn phòng đại điện; cho phép hoạt động giáo dục của cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; giải thể cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông có yếu tố nước ngoài; đề cương báo cáo;…
Nghị định tập trung sửa đổi một số các quy định
- Bổ sung quy định liên kết tổ chức thi cấp chứng chỉ năng lực ngoại ngữ của nước ngoài là việc hợp tác giữa cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc tổ chức được thành lập và hoạt động hợp pháp trong lĩnh vực giáo dục tại Việt Nam với cơ quan, tổ chức, cơ sở đánh giá năng lực ngoại ngữ được thành lập và hoạt động hợp pháp ở nước ngoài thông qua văn bản thỏa thuận hoặc hợp đồng liên kết để tổ chức thi cấp chứng chỉ năng lực ngoại ngữ của nước ngoài tại Việt Nam.
- Cơ sở giáo dục hoặc tổ chức kinh tế sau khi nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp thì phải đáp ứng các điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật Đầu tư, điều kiện thành lập cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài tại Nghị định số 86/2018/NĐ-CP, Nghị định này và các điều kiện liên quan đến nghĩa vụ tài chính về tiền thuê đất đối với thời gian thuê đất còn lại (nếu có), các khoản thuế và phí liên quan theo quy định của pháp luật về đất đai trong quá trình triển khai hoạt động của cơ sở giáo dục.
- Bổ sung 01 Điều quy định về Đối tượng liên kết giáo dục (Điều 6), theo đó:
+ Bên Việt Nam: Cơ sở giáo dục mầm non tư thục, cơ sở giáo dục phổ thông tư thục do nhà đầu tư trong nước đầu tư và bảo đảm điều kiện hoạt động, được thành lập và hoạt động tại Việt Nam.
+ Bên nước ngoài:
(i) Cơ sở giáo dục được thành lập và hoạt động hợp pháp ở nước ngoài, có thời gian hoạt động ít nhất 05 năm ở nước ngoài tính đến ngày nộp hồ sơ và không vi phạm pháp luật của nước sở tại trong thời gian hoạt động, có giảng dạy trực tiếp, có giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục còn hiệu lực hoặc được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về giáo dục của nước ngoài công nhận về chất lượng giáo dục;
(ii) Tổ chức cung cấp chương trình giáo dục được thành lập và hoạt động hợp pháp ở nước ngoài, có thời gian hoạt động cung cấp chương trình giáo dục mầm non hoặc phổ thông ít nhất là 05 năm tính đến ngày nộp hồ sơ xin thực hiện liên kết giáo dục.
- Nghị định bổ sung khoản 5a Điều 35 về việc dự án đầu tư thành lập phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học nước ngoài tại Việt Nam phải có vốn đầu tư tối thiểu là 500 tỷ đồng (không bao gồm các chi phí sử dụng đất). Đến thời điểm thẩm định cho phép thành lập phân hiệu trường đại học, giá trị đầu tư phải thực hiện được trên 250 tỷ đồng.
Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 6 Điều 35, theo đó: Đối với các cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài không xây dựng cơ sở vật chất mới mà chỉ thuê lại hoặc do bên việt Nam góp vốn bằng cơ sở vật chất sẵn có để triển khai hoạt động thì mức đầu tư ít nhất phải đạt 70% các mức quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5a Điều này. Đến thời điểm thẩm định cho phép hoạt động giáo dục, giá trị đầu tư phải thực hiện được trên 50% tổng số vốn đầu tư và nhà đầu tư phải cam kết đầu tư đủ số vốn trong thời hạn 5 năm kể từ ngày có quyết định cho phép hoạt động.
- Về chương trình giáo dục: Nghị định sửa đổi bổ sung khoản 1 Điều 37 theo hướng: Chương trình giáo dục của nước ngoài được thực hiện tại Việt Nam phải bảo đảm các yêu cầu sau:
+ Được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về giáo dục của nước sở tại công nhận hoặc kiểm định chương trình giáo dục đạt tiêu chuẩn chất lượng theo tiêu chuẩn nước sở tại; được giảng dạy trực tiếp ít nhất 05 năm ở nước sở tại tính đến ngày nộp hồ sơ đăng ký hoạt động; được cơ sở, tổ chức giáo dục nước ngoài sở hữu chương trình giáo dục chấp thuận cho phép sử dụng tại Việt Nam;
+ Không có nội dung gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích cộng đồng; không truyền bá tôn giáo, xuyên tạc lịch sử; không ảnh hưởng xấu đến văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam;
+ Bảo đảm liên thông giữa các cấp học và trình độ đào tạo và tính liên thông khi học sinh chuyển sang học tập tại cơ sở giáo dục công lập theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
+ Chương trình giáo dục của nước ngoài giảng dạy cho học sinh người Việt Nam phải bảo đảm mục tiêu giáo dục phù hợp với mục tiêu giáo dục của Việt Nam và đáp ứng quy định tại điểm a, điểm b và điểm c khoản này.
- Nghị định sửa đổi bổ sung nhiều điểm kỹ thuật như: điểm b khoản 1 Điều 7 về Chương trình tích hợp; khoản 2 Điều 14 về trách nhiệm của các bên liên kết giáo dục; khoản 1 Điều 15 về đối tượng liên kết đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ; khoản 2 Điều 17 về việc đáp ứng yêu cầu của chương trình đào tạo; khoản 2 Điều 18; sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 20 về kiểm tra, thi, đánh giá, công nhận tốt nghiệp và cấp văn bằng, chứng chỉ; Điều 22 về thẩm quyền phê duyệt liên kết đào tạo; bổ sung khoản 8, 9 Điều 32 về quyền và nghĩa vụ của cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài; khoản 1, bổ sung khoản 3 Điều 33 về điều kiện về giáo dục để cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; khoản 2 Điều 35 về vốn đầu tư …và nhiều nội dung quan trọng khác.
- Nghị định cũng bổ sung nhiều quy định chuyển tiếp quan trọng nhằm tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục.
5. Nghị định số 125/2024/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20 tháng 11 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Nghị định số 125 ban hành để thay thế Nghị định 46/2017/NĐ-CP 21/4/2017 của Chính phủ quy định về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và Nghị định số 135/2018/NĐ-CP ngày 04/10/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 46/2017/NĐ-CP (sau đây gọi là Nghị định 46 và 135) nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập tại Nghị định số 46 và 135; thực hiện chủ trương của Chính phủ về cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, cải cách TTHC; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành (Luật Giáo dục năm 2019, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục năm 2018, Luật Đầu tư năm 2020,...).
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 09 chương, 122 điều và 4 Phụ lục quy định về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, cụ thể như sau:
Nghị định này áp dụng đối với cơ sở giáo dục mầm non; nhóm trẻ độc lập, lớp mẫu giáo độc lập, lớp mầm non độc lập; cơ sở giáo dục phổ thông; cơ sở giáo dục thường xuyên; trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập; trường chuyên biệt; trường cao đẳng thực hiện hoạt động giáo dục nghề nghiệp đối với nhóm ngành đào tạo giáo viên có trình độ cao đẳng; cơ sở giáo dục đại học; tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục; tổ chức kinh doanh dịch vụ tư vấn du học; tổ chức và cá nhân khác thực hiện hoạt động giáo dục. Nghị định này không áp dụng đối với tổ chức hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp và kinh doanh dịch vụ tư vấn du học về giáo dục nghề nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
- Điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục:
+ Thành lập hoặc cho phép thành lập, cho phép hoạt động giáo dục, đình chỉ hoạt động giáo dục, sáp nhập, chia, tách, giải thế đối với: Cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, trường chuyên biệt;
+ Thành lập hoặc cho phép thành lập, đình chỉ hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể đối với: Cơ sở giáo dục thường xuyên, trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập;
+ Thành lập hoặc cho phép thành lập trường cao đẳng sư phạm; cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp đối với nhóm ngành đào tạo giáo viên trình độ cao đẳng; đình chỉ hoạt động giáo dục nghề nghiệp đối với nhóm ngành đào tạo giáo viên trình độ cao đẳng; thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp đối với nhóm ngành đào tạo giáo viên trình độ cao đẳng; sáp nhập, chia, tách, giải thể trường cao đẳng sư phạm; sáp nhập trường cao đẳng vào trường đại học;
+ Thành lập hoặc cho phép thành lập trường đại học, phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học; cho phép trường đại học, phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học hoạt động đào tạo; đình chỉ hoạt động đào tạo của cơ sở giáo dục đại học, phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học; sáp nhập, chia, tách cơ sở giáo dục đại học; giải thể cơ sở giáo dục đại học, phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học; công nhận đại học vùng, đại học quốc gia;
+ Thành lập hoặc cho phép thành lập, cho phép hoạt động, đình chỉ hoạt động, giải thể tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục của Việt Nam; công nhận tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài hoạt động tại Việt Nam;
+ Đăng ký kinh doanh dịch vụ tư vấn du học; đình chỉ kinh doanh dịch vụ tư vấn du học; thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ tư vấn du học.
- Ban hành kèm theo Nghị định 04 Phụ lục:
+ Phụ lục I: Mẫu văn bản đối với cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, trường chuyên biệt, cơ sở giáo dục thường xuyên;
+ Phụ lục II: Mẫu văn bản về trường cao đẳng sư phạm;
+ Phụ lục III: Mẫu văn bản về cơ sở giáo dục đại học, phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học;
+ Phụ lục IV: Mẫu văn bản về tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục, kinh doanh dịch vụ tư vấn du học.
6. Nghị định số 126/2024/NĐ-CP ngày 08 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 26 tháng 11 năm 2024.
Nghị định số 126/2024/NĐ-CP thay thế Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội và Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13/4/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP; Bãi bỏ Quyết định số 68/2010/QĐ-TTg ngày 01/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định hội có tính chất đặc thù và Quyết định số 71/2011/QĐ-TTg ngày 20/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ về bảo đảm, hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước đối với các hội có tính chất đặc thù.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Tính đến 31/12/2023 cả nước có 71.891 hội. Các hội phát triển đa dạng và phong phú, có quy mô, phạm vi hoạt động khác nhau. Cơ bản các hội đã phát huy vai trò, chức năng tập hợp, đoàn kết và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên, vai trò, vị trí của hội ngày càng được nâng cao và có những đóng góp thiết thực vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, một số hội hoạt động còn hình thức, hiệu quả chưa cao, chưa tuân thủ quy định của pháp luật và điều lệ hội trong tổ chức và hoạt động.
Công tác quản lý nhà nước về hội trong thời gian vừa qua đã nảy sinh nhiều vấn đề bất cập về phương thức tổ chức, hoạt động của hội, chế độ chính sách của Nhà nước đối với hội và người làm việc tại hội, thiếu chế tài xử lý vi phạm, thiếu quy định, chưa rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, công tác kiểm tra, quy trình, thủ tục thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất hội... chưa đảm bảo tính chặt chẽ.
Sau hơn 14 năm thực hiện Nghị định số 45/2010/NĐ-CP đến nay, nhiều nội dung của Nghị định không còn phù hợp, chưa bao quát, điều chỉnh hết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn tổ chức, hoạt động của hội, cũng như công tác quản lý nhà nước đặt ra trong tình hình hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.
Đồng thời, Ban Bí thư đã ban hành các văn bản chỉ đạo về hội: Kết luận số 102-KL/TW[2]; Thông báo kết luận số 158-TB/TW[3]; Quyết định số 118-QĐ/TW[4]. Để cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo nêu trên và tạo điều kiện cho tổ chức, công dân Việt Nam thực hiện quyền lập hội, thể hiện đầy đủ quyền công dân, quyền và trách nhiệm của tổ chức; có chính sách hỗ trợ hội khi thực hiện nhiệm vụ được giao; minh bạch và đơn giản hoá một số thủ tục hành chính về hội. Đồng thời tiếp tục thể chế quan điểm, chủ trương của Đảng về hội quần chúng, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng thể hiện đầy đủ quyền công dân, tổ chức được quy định trong Hiến pháp 2013 và đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ của hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành về hội, vừa khắc phục được các tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ an ninh quốc gia trong bối cảnh hiện nay, Bộ Nội vụ đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 126/2024/NĐ-CP.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 08 chương 53 điều, thêm 11 Điều so với Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, cụ thể như sau:
- Chương I. Quy định chung, gồm 09 Điều (từ Điều 1 đến Điều 9);
- Chương II. Thành lập hội, gồm 08 Điều (từ Điều 10 đến Điều 17);
- Chương III. Tổ chức hội, gồm 05 Điều (từ Điều 18 đến Điều 22);
- Chương IV. Hoạt động của hội, gồm 07 Điều (từ Điều 23 đến Điều 30);
- Chương V. Chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, đình chỉ có thời hạn, giải thể và đổi tên hội, gồm 06 Điều (từ Điều 31 đến Điều 36);
- Chương VI. Một số quy định đối với hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ, gồm 06 Điều (từ Điều 37 đến Điều 42);
- Chương VII. Quản lý nhà nước đối với hội, trong đó quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, gồm 08 Điều (từ Điều 43 đến Điều 50);
- Chương VIII. Điều khoản thi hành, gồm 03 Điều (từ Điều 51 đến Điều 53).
- Các Phụ lục I, II, III kèm theo.
Các nội dung mới của Nghị định
- Nhóm quy định chung cho các hội
+ Bổ sung đối tượng không chịu sự điều chỉnh của Nghị định: “cơ sở tín ngưỡng”; “tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp theo quy định của Bộ luật Lao động” tại điểm b, c Điều 2.
+ Bổ sung quy định về giải thích từ ngữ “không vì mục tiêu lợi nhuận”; “cơ sở dữ liệu hội” tại khoản 2, khoản 3 Điều 3.
+ Bổ sung quy định hội sinh viên tại các trường đại học, cao đẳng được xác định tương đương hội hoạt động trong phạm vi cấp xã cho phù hợp thực tế hiện nay (khoản 4 Điều 4)
+ Bổ sung Điều 7 về chính sách của Nhà nước đối với hội, Điều 8 về cấp có thẩm quyền giao nhiệm vụ cho hội, Điều 9 cơ sở dữ liệu về hội.
+ Về thẩm quyền giải quyết các thủ tục về hội: đã phân cấp và bổ sung Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết các thủ tục về hội, phê duyệt điều lệ đối với hội hoạt động trong phạm vi huyện, xã.
+ Thẩm quyền công nhận ban vận động thành lập hội quy định tại khoản 2 Điều 12 gồm: (1) Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chính mà hội dự kiến hoạt động quyết định công nhận ban vận động thành lập hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc hoặc liên tỉnh; (2) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định công nhận ban vận động thành lập hội hoạt động trong phạm vi tỉnh; (3) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định công nhận ban vận động thành lập hội hoạt động trong phạm vi huyện, xã.
- Nhóm quy định về quyền và nghĩa vụ, chính sách, chế độ, hoạt động của hội nói chung và hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ nói riêng:
Thể chế hoá chủ trương của Đảng tại Kết luận số 102-KL/TW của Bộ Chính trị: “không quy định hội có tính chất đặc thù”; Quyết định số 118-QĐ/TW ngày 22/8/2023 của Ban Bí thư quy định danh sách hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở Trung ương, theo đó, Nghị định số 126/2024/NĐ-CP đã bỏ tên gọi hội đặc thù, quy định cụ thể “hội do đảng Nhà nước giao nhiệm vụ”.
+ Về quyền và nghĩa vụ của hội: cập nhật, bổ sung những quy định của pháp luật chuyên ngành giao cho hội Điều 23, Điều 24 Nghị định số 126/2024/NĐ-CP đã bổ sung quyền, nghĩa vụ của hội:
(i) Thành lập và quản lý chặt chẽ tổ chức thuộc hội theo quy định của pháp luật và điều lệ hội phù hợp với tôn chỉ, mục đích và lĩnh vực hoạt động của hội (khoản 9 Điều 23);
(ii) Được cấp chứng chỉ hành nghề, chứng chỉ năng lực, chứng chỉ khác liên quan đến lĩnh vực hoạt động của hội khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật (khoản 10 Điều 23);
(iii) Không được lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện các hoạt động mê tín, dị đoan; hoạt động tài chính, kinh doanh trái phép làm rối loạn thị trường trong nước (khoản 2 Điều 24);
(iv) Không công nhận, vinh danh, suy tôn, phong tặng các danh hiệu trái quy định của pháp luật (khoản 3 Điều 24);
(v) Tuân thủ các quy định về tiếp nhận, quản lý và sử dụng viện trợ nước ngoài và các quy định pháp luật khác có liên quan; quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài trợ, viện trợ và chịu trách nhiệm là chủ khoản viện trợ theo quy định của pháp luật (khoản 8 Điều 24);
(vi) Báo cáo việc thành lập các tổ chức thuộc hội với cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập hội, cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chính mà hội hoạt động tương ứng với phạm vi hoạt động của hội và chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý trực tiếp, toàn diện tổ chức, hoạt động của các tổ chức này theo quy định của pháp luật và điều lệ hội (khoản 11 Điều 24);
(vii) Báo cáo kết quả giải quyết tranh chấp, đơn, thư phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo liên quan đến hội với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (khoản 13 Điều 24);
(viii) Đăng ký mã số thuế và kê khai thuế, nộp thuế, phí, lệ phí và thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán, thống kê theo quy định của pháp luật (khoản 17 Điều 24);
(ix) Ban hành các quy chế trong tổ chức và hoạt động của hội phù hợp với quy định pháp luật và điều lệ hội (khoản 18 Điều 24);
(x) Cập nhật tình hình tổ chức, hoạt động của hội vào cơ sở dữ liệu về hội và phối hợp xây dựng, vận hành cơ sở dữ liệu về hội (khoản 20 Điều 24);
(xi) Thực hiện các quy định của pháp luật về phòng chống tham nhũng, phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố (khoản 21 Điều 24);
+ Về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ được quy định tại Điều 38 Nghị định.
+ Bổ sung quy trình hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước đối với nhiệm vụ được giao (Điều 27). Đối với các hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 39 Nghị định.
+ Quy định chương riêng về hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ (từ Điều 37 đến Điều 42)
+ Điều 37 xác định Hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở Trung ương và địa phương: Quy định danh sách 30 hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở Trung ương; đồng thời giao Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ điều kiện, yêu cầu nhiệm vụ của địa phương để xác định hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở địa phương;
+ Điều 38 quy định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm vụ hội: Ngoài những quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm chung (Điều 23, Điều 24) thì hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ có một số quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm riêng.
+ Điều 39, Điều 40 quy định riêng về chính sách của Nhà nước đối với hội và người làm việc tại hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ;
+ Thể chế hoá Điều 2, Điều 3, Điều 9, Điều 10, Điều 11 Quyết định số 118-QĐ/TW: Điều 41 Nghị định số 126/2024/NĐ-CP quy định cơ quan lãnh đạo của hội gồm đại hội, ban chấp hành, ban thường vụ, thường trực hội; Điều 42 quy định về tiêu chuẩn chủ tịch, phó chủ tịch và quy trình nhân sự đối với hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ; đồng thời quy định cụ thể số lượng phó chủ tịch chuyên trách.
- Nhóm quy định về thành lập hội, tổ chức và hoạt động của hội:
+ Về điều kiện thành lập hội (Điều 10): bổ sung thêm điều kiện mới là “Có tài sản để đảm bảo hoạt động của hội” nhằm đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự đảm bảo kinh phí và để hội có thể tổ chức và hoạt động phải có kinh phí.
+ Bổ sung nội dung sử dụng chung điều lệ đối với tất cả các hội có cùng lĩnh vực hoạt động chính (khoản 5 Điều 21).
+ Về Ban vận động thành lập hội (Điều 11, Điều 12):
(i) Quy định tất cả các thành viên tham gia ban vận động thành lập hội phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, đảm bảo sức khoẻ và không có án tích (có sơ yếu lý lịch, lý lịch tư pháp). Thành viên ban vận động thành lập hội nếu thuộc diện quản lý của cấp có thẩm quyền và được cấp có thẩm quyền đồng ý thì không phải cung cấp phiếu lý lịch tư pháp số 1 (điểm c khoản 1 Điều 12); số thành viên ban vận động thành lập hội phải đảm bảo tính đại diện cho các vùng miền (đối với hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc hoặc liên tỉnh); tại hai đơn vị hành chính cấp huyện trở lên (đối với hội hoạt động trong phạm vi tỉnh) và có ít nhất 03 thành viên (đối với hội hoạt động trong phạm vi huyện, xã) (khoản 5 Điều 11).
(ii) Về thời hạn của Quyết định công nhận Ban Vận động được quy định là 12 tháng (trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày quyết định công nhận ban vận động thành lập hội có hiệu lực, ban vận động thành lập hội không hoàn thiện 01 bộ hồ sơ thành lập hội theo quy định gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì quyết định công nhận ban vận động thành lập hội đương nhiên hết hiệu lực (khoản 4 Điều 12).
(iii) Về thời gian xem xét cho phép thành lập hội: Nghị định số 126/2024/NĐ-CP điều chỉnh lại thời gian xem xét cho phép thành lập hội từ 30 ngày làm việc lên thành 60 ngày làm việc.
(iv) Về hội viên (Điều 17): Kế thừa các nội dung còn phù hợp tại Điều 15, Điều 16, Điều 17 và Điều 18 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP để xây dựng thành Điều 17 Nghị định số 126/2024/NĐ-CP quy định về hội viên; trong đó không quy định hội viên là các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tham gia làm hội viên chính thức, hội viên liên kết, hội viên danh dự.
- Nhóm quy định về tổ chức của hội:
+ Quy định về đại hội (Điều 19):
(i) Kế thừa các quy định về hồ sơ báo cáo tổ chức đại hội nhiệm kỳ, đại hội bất thường và cách tính thời hạn tổ chức Đại hội từ Thông tư số 03/2013/TT-BNV; Thông tư số 01/2022/TT-BNV;
(ii) Bổ sung quy định về hồ sơ báo cáo tổ chức đại hội thành lập;
(iii) Bổ sung quy định đối với nhân sự dự kiến tham gia chấp hành, ban thường vụ hoặc giữ các chức danh chủ tịch, phó chủ tịch hội phải có ý kiến đồng ý của cơ quan có thẩm quyền theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ (điểm h khoản 9 Điều 19);
(iv) Bổ sung quy định về hình thức tổ chức Đại hội: Đại hội có thể tổ chức trực tiếp hoặc qua nền tảng ứng dụng trực tuyến hoặc kết hợp cả hai hình thức trực tiếp và trực tuyến để nhằm tạo điều kiện cho các hội trong công tác tổ chức Đại hội (khoản 3 Điều 19).
(v) Bổ sung quy định trước khi tổ chức đại hội 45 ngày làm việc (đối với đại hội nhiệm kỳ, đại hội bất thường) hoặc 15 ngày làm việc (đối với đại hội thành lập), ban chấp hành hội hoặc ban vận động thành lập hội gửi 01 bộ hồ sơ báo cáo cơ quan nhà nước theo quy định (Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định là trước khi tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 30 ngày).
+ Báo cáo kết quả đại hội, phê duyệt điều lệ hội (Điều 21):
(i) Kế thừa nội dung Điều 12, Điều 13 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP và tích hợp thành Điều 21 Nghị định số 126/2024/NĐ-CP quy định về báo cáo kết quả đại hội, phê duyệt Điều lệ hội; bổ sung trường hợp điều lệ hội thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, thì hội có trách nhiệm gửi đề nghị phê duyệt điều lệ về Bộ Nội vụ để xem xét trình Thủ tướng Chính phủ theo quy định (Khoản 3 Điều 21);
(ii) Bổ sung trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập hội có văn bản thông báo tính hợp pháp khi hội đã tổ chức đại hội thành công, đúng quy định (khoản 6 Điều 21);
+ Ban chấp hành, ban thường vụ, chủ tịch hội (Điều 22)
(i) Bổ sung quy định tạm đình chỉ công tác và cho phép công tác trở lại đối với các chức danh trên. Đối với hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ phải báo cáo cấp có thẩm quyền cho ý kiến trước khi thực hiện (khoản 3 Điều 22).
(ii) Bổ sung quy định khi miễn nhiệm, bãi nhiệm chủ tịch hội phải đồng thời bầu chủ tịch khác để thay thế hoặc phân công người điều hành hoạt động của hội trong thời gian chưa bầu được chủ tịch hội. Chủ tịch hội bị tạm đình chỉ công tác thì phó chủ tịch thường trực điều hành hoạt động của hội; trường hợp, hội không có phó chủ tịch thường trực thì phân công một phó chủ tịch điều hành hoạt động của hội để điều hành công việc của hội được thông suốt và hiệu quả không bị gián đoạn, ảnh hưởng (khoản 4 Điều 22).
+ Tiêu chuẩn, điều kiện của Chủ tịch hội: (i) Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt và không giữ chức danh chủ tịch quá 02 hội; (ii) Không phải là cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức đang trực tiếp quản lý hoặc tham mưu quản lý nhà nước về lĩnh vực hoạt động chính của hội; trừ trường hợp được cấp có thẩm quyền quyết định theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ; (iii) Ngoài những tiêu chuẩn, điều kiện chung quy định nêu trên, hội quy định cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện, độ tuổi, sức khỏe, nhiệm kỳ của chủ tịch hội.
- Nhóm quy định về hoạt động của hội:
+ Quy định về chi nhánh, văn phòng đại diện, chi hội, các phòng, ban chuyên môn và tổ chức có tư cách pháp nhân thuộc hội (Điều 25): Kế thừa các quy định tại Điều 4, Điều 6 Thông tư số 03/2013/TT-BNV và đảm bảo quyền của pháp nhân trong Bộ luật Dân sự, Nghị định số 126/2024/NĐ-CP đã xây dựng Điều 25: bổ sung quy định hội có trách nhiệm quản lý chặt chẽ, toàn diện các tổ chức thuộc hội, đảm bảo nguyên tắc không vì mục tiêu lợi nhuận trong quá trình tổ chức và hoạt động. Đồng thời bổ sung quy định, hội phải lấy ý kiến của cơ quan nhà nước cho phép thành lập hội về việc thành lập tổ chức pháp nhân trước khi gửi hồ sơ thành lập đến cơ quan có thẩm quyền; khi hội giải thể thì các tổ chúc thuộc hội đương nhiên chấm dứt hoạt động và phải thực hiện giải thể.
+ Bổ sung quy định về tài chính, tài sản của hội (Điều 26, kỷ luật và giải quyết phản ánh, kiến nghị, tranh chấp, khiếu nại, tố cáo trong nội bộ hội (Điều 29.
- Nhóm quy định về đổi tên, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, đình chỉ có thời hạn và giải thể hội:
+ Bổ sung quy định trường hợp hội chia, tách, sáp nhập, hợp nhất và giải thể hội khi thay đổi địa giới hành chính; đã bổ sung quy định hội tự giải thể trong trường hợp theo đề nghị của trên 1/2 tổng số hội viên chính thức hoặc nghị quyết của ban chấp hành hội (điểm c khoản 1 Điều 34);
+ Bổ sung Điều 30 về xử lý vi phạm, Điều 33 về đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với hội, Điều 35 về hội bị giải thể.
+ Sửa đổi Điều 31 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP thành Điều 36 (Giải quyết tài sản, tài chính khi hội chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, đình chỉ hoạt động có thời hạn, giải thể và thu hồi con dấu của hội) trong đó quy định chi tiết việc giải quyết tài sản, tài chính của hội khi hội bị đình chỉ, việc thanh toán các khoản nợ khi hội giải thể; đồng thời bổ sung quy định về thu hồi con dấu của hội (khoản 7 Điều 36) để phù hợp với quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng con dấu.
- Nhóm quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý nhà nước đối với hội:
+ Bổ sung rõ trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, trong đó có trách nhiệm của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ngoại giao, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp huyện tại Điều 43, Điều 44, Điều 45, Điều 46, Điều 47, Điều 48, Điều 49, Điều 50;
+ Bổ sung trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp huyện tại Điều 50.
+ Bổ sung nhiệm vụ quản lý, cập nhật, phối hợp xây dựng, vận hành cơ sở dữ liệu về hội tại khoản 12 Điều 43, khoản 12 Điều 44, khoản 14 Điều 49 và khoản 7 Điều 50 để đảm bảo đồng bộ, quản lý, chia sẻ cơ sở dữ liệu giữa các cơ quan liên quan.
+ Phân định rõ trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.
- Nhóm quy định về điều khoản thi hành: Nghị định số 126/2024/NĐ-CP đã bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật đã được tích hợp vào Nghị định số 126/2024/NĐ-CP[5]; quy định điều khoản chuyển tiếp, hiệu lực thi hành và quy định mẫu trình bày văn bản trên cơ sở kế thừa toàn bộ mẫu trình bày văn bản tại Thông tư số 03/2013/TT-BNV của Bộ Nội vụ và bổ sung mẫu về sơ yếu lý lịch cá nhân; quyết định đình chỉ hoạt động có thời hạn và quyết định cho phép hội hoạt động trở lại... để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ khi thực hiện.
7. Nghị định số 127/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về công tác dân tộc
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 12 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Cơ sở chính trị, pháp lý
+ Thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác dân tộc, chính sách dân tộc tại văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng[6], Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng[7], Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/03/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới[8], Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 23/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030…
+ Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013[9], các đạo luật và Nghị quyết của Quốc hội[10] có nội dung liên quan đến quyền con người, quyền công dân, chính sách dân tộc, Điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên[11]…, đảm bảo các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được triển khai thực hiện toàn diện, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và phát huy lợi thế, tiềm năng của vùng và tinh thần tự lực của đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, đưa ra được các biện pháp quản lý nhà nước tổ chức triển khai thực hiện công tác dân tộc, chính sách dân tộc thống nhất, đồng bộ, hiệu lực, hiện quả.
Cơ sở thực tiễn:
Tiếp tục kế thừa, phát huy những kết quả đạt được của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, đồng thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Nghị định số 05/2011/NĐ-CP (như một số nội dung không còn phù hợp với hệ thống văn bản, pháp luật hiện hành, một số nội dung chưa thống nhất, đồng bộ và chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn về lĩnh vực công tác dân tộc, chính sách dân tộc trong tình hình mới[12]; thiếu biện pháp, giải pháp cụ thể về cơ chế, nguồn lực tài chính; một số chính sách dân tộc đã và đang triển khai trên thực tế nhưng chưa được thể chế hóa vào Nghị định[13]
- Mục đích ban hành:
+ Tiếp tục thể chế hóa đầy đủ, toàn diện đường lối, chủ trương của Đảng về công tác dân tộc, chính sách dân tộc.
+ Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 2013, các đạo luật, Nghị quyết của Quốc hội về lĩnh vực công tác dân tộc; quy phạm hóa các văn bản, chính sách để khắc phục những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, nội dung không còn phù hợp của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách dân tộc, đảm bảo thống nhất, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, góp phần đạt được nhiều thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tiếp tục củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 04 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về công tác dân tộc, cụ thể như sau:
- Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP.
- Điều 2. Bổ sung, thay thế, bỏ một số từ, cụm từ tại một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP.
- Điều 3. Trách nhiệm tổ chức thực hiện.
- Điều 4. Hiệu lực thi hành.
- Phạm vi điều chỉnh: Nghị định này sửa đổi, bổ sung một số điểm, khoản, điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP (gồm: Điều 4, 4a, 5, 7, 12, 12a, 17, 18, 21, 23, 24, 25), đảm bảo các nội dung của Nghị định phù hợp với thẩm quyền, nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ đối với công tác dân tộc theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Đối tượng áp dụng: Nghị định này áp dụng đối với cơ quan nhà nước khi thực hiện công tác dân tộc; tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài khi tham gia thực hiện chính sách dân tộc trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nội dung cơ bản của Nghị định
- Sửa đổi, bổ sung làm rõ từ ngữ “Công tác dân tộc”, “Vùng đồng bào dân tộc thiểu số” tại Điều 4. Theo đó, quy định rõ nội hàm của “Vùng đồng bào dân tộc thiểu số” là địa bàn cấp tỉnh, huyện, xã, thôn có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ổn định (là căn cứ để phân định những địa bàn này theo trình độ phát triển)... đảm bảo thể chế hoá Kết luận 65-KL/TW[14], đảm bảo sử dụng thuật ngữ này thống nhất, đồng bộ với quy định của Hiến pháp năm 2013 (khoản 3 Điều 61 và khoản 2 Điều 75), Nghị quyết 88/2019/QH14 và hệ thống chính sách, pháp luật hiện hành về công tác dân tộc.
- Bổ sung Điều 4a vào sau Điều 4 về “Phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo trình độ phát triển” (phân định 3 khu vực) để thể chế hóa Kết luận số 65-KL/TW, đồng thời, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong tổ chức thực hiện phân định 3 khu vực như hiện nay, làm cơ sở để triển khai thực hiện chính sách dân tộc ổn định, lâu dài, có trọng tâm, trọng điểm.
- Bổ sung hành vi “Lợi dụng, kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi”[15] tại Điều 7 để đảm bảo có sự nêu gương của cán bộ, đảng viên; nâng cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân và người dân trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm thúc đẩy các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
- Sửa đổi, bổ sung tên Điều 12 thành “Chính sách đối với người có uy tín, biểu dương, tôn vinh điển hình tiên tiến trong đồng bào dân tộc thiểu số”; quy định cụ thể hơn về các chế độ đối với người có uy tín đã thực hiện ổn định tại Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg ngày 06/3/2018 (được sửa đổi, bổ sung theo Quyết định số 28/2023/QĐ-TTg ngày 23/11/2023); đồng thời, bổ sung các hoạt động biểu dương, tôn vinh, vinh danh đối với người có uy tín và các điển hình tiên tiến trong đồng bào dân tộc thiểu số... nhằm thể chế hoá điểm g khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 88/2019/QH14 và quy định tại Tiểu dự án 1 của Dự án 10 của Chương trình mục tiêu quốc gia theo Quyết định 1719/QĐ-TTg.
- Bổ sung Điều 12a vào sau Điều 12 quy định cụ thể về đối tượng, nội dung, định mức chi thăm hỏi, chúc mừng, tặng quà, động viên, gặp mặt đối với một số đơn vị, cá nhân là người dân tộc thiểu số để tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ và điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức triển khai thực hiện quy định này (thay thế Quyết định số 11/2010/QĐ-TTg và Quyết định số 199/QĐ-UBDT).
- Sửa đổi, bổ sung khoản 3, 4 Điều 17 đảm bảo đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả xây dựng, thực hiện chính sách dân tộc; tăng cường và nâng cao chất lượng sử dụng ngôn ngữ các dân tộc thiểu số trên các phương tiện thông tin đại chúng và hệ thống thông tin cơ sở …. nhằm thể chế hóa chủ trương “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; tăng cường đồng thuận xã hội; phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thách thức, hòa nhập phát triển cùng với đất nước; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và lòng tin của đồng bào với Đảng và Nhà nước” tại Nghị quyết 88/2019/QH14.
- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 18 cho phù hợp với khoản 4[16], bổ sung khoản 3a cho phù hợp với Điều 17 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật[17], Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý và Điều 12 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013; sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 18 để quy định cụ thể trách nhiệm của Ủy ban Dân tộc trong tổ chức thực hiện chính sách này.
- Sửa đổi, bổ sung một số điều khoản tại Chương 3 (Quản lý nhà nước về công tác dân tộc) theo hướng đảm bảo các quy định quản lý nhà nước về công tác dân tộc thể chế hóa toàn diện, đầy đủ đường lối, chủ trương Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc trong tình hình mới; xác định rõ trách nhiệm của Ủy ban Dân tộc và các bộ, ngành, địa phương liên quan nhằm nâng cao hiệu quản thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước về công tác dân tộc trên cơ sở các nhiệm vụ, giải pháp tại Kết luận 65, Nghị quyết số 88/2019/QH14, Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ ban hành Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị định số 66/2022/NĐ-CP ngày 20/9/2022 của Chính phủ định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân tộc, Chương trình mục tiêu quốc gia theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg.
- Thay thế, bãi bỏ một số từ, cụm từ tại một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP để đảm bảo tính thống nhất với quy định của Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết số 88/2019/QH14….
8. Nghị định số 128/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 12 năm 2024.
Các hồ sơ thực hiện thủ tục hành chính nộp trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì áp dụng quy định của Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Sau khi được ban hành, Nghị định số 81/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại đã đem lại nhiều thuận lợi cho thương nhân thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại (thủ tục hành chính đã được đơn giản hóa và thực hiện trên Cổng dịch vụ công, một số trường hợp không phải thực hiện thủ tục hành chính, thời gian thực hiện thủ tục hành chính được rút ngắn, các trường hợp khuyến mại với hạn mức lên đến 100% được triển khai thực hiện...).
Tuy nhiên để thực hiện chủ trương của Chính phủ tại Nghị quyết số 76/NQ-CP và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ trong việc cắt giảm, đơn giản hóa quy trình, thủ tục hành chính cho thương nhân hơn nữa, Bộ Công Thương đã chủ động rà soát, tiếp nhận ý kiến của các cơ quan, tổ chức, thương nhân có liên quan và xác định được những nội dung có thể xem xét, sửa đổi, bổ sung của Nghị định 81/2018/NĐ-CP theo thẩm quyền của Chính phủ được giao trong Luật Thương mại.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 03 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại, cụ thể như sau:
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.
Điều 2. Bổ sung, thay thế và bãi bỏ một số quy định của Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.
Điều 3. Điều khoản thi hành.
Các quy định chủ yếu, các nội dung của văn bản quy phạm pháp luật, nội dung mới của quy định so với văn bản trước đó
- Bổ sung vào khoản 1 và khoản 2 Điều 6 hình thức khuyến mại quy định tại khoản 9 Điều 92 Luật Thương mại không áp dụng hạn mức tối đa về giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại.
- Sửa đổi quy định về Chương trình khuyến mại tập trung tại khoản 4, điểm a khoản 5 Điều 6 và khoản 2 Điều 7 theo hướng làm rõ cách thức ban hành và bỏ quy định giới hạn thời gian;
- Sửa đổi quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 17 theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính (thương nhân thực hiện khuyến mại theo các hình thức khuyến mại được quy định tại khoản 8 Điều 92 Luật Thương mại và các Điều 8, Điều 9, Điều 10, Điều 11 Nghị định này sẽ không phải thực hiện thủ tục hành chính thông báo hoạt động khuyến mại);
- Sửa đổi, bổ sung các quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 21 theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho thương nhân khi báo cáo kết quả thực hiện chương trình khuyến mại và nộp ngân sách nhà nước đối với giải thưởng không có người trúng thưởng. Thời hạn nộp báo cáo kết quả thực hiện chương trình khuyến mại là 45 ngày kể từ ngày kết thúc thời hạn trao thưởng cần được giữ nguyên để đảm bảo công tác quản lý nhà nước được thực thi hiệu quả, đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng và thời gian này cũng đủ dài để thương nhân báo cáo (hồ sơ báo cáo đã được quy định đơn giản theo mẫu số 07 Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này).
- Sửa đổi quy định tại điểm c khoản 1 và điểm d khoản 4 Điều 32 theo hướng quy định trách nhiệm của Bộ Công Thương cho phù hợp với nội dung đã điều chỉnh tại Điều 21 và bổ sung thêm thời hạn, mẫu báo cáo kết quả công tác quản lý nhà nước về xúc tiến thương mại của các Sở Công Thương hàng năm.
- Thay thế một số cụm từ tại các điều, khoản, điểm để đảm bảo thống nhất với quy định của pháp luật hiện hành.
- Bổ sung thêm Mẫu số 6a, Mẫu số 15 “Báo cáo công tác quản lý nhà nước về xúc tiến thương mại” và thay thế các Mẫu số 01, 02, 03, 06, 07, 08, 10, 13 và 14.
- Bãi bỏ quy định tại điểm c khoản 3 Điều 17, điểm c khoản 2 Điều 18, điểm d khoản 4 Điều 19 và bãi bỏ Mẫu số 09.
Các nội dung sửa đổi, bổ sung quy định tại Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại tập trung vào cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm bớt gánh nặng chi phí tuân thủ thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, giảm bớt khối lượng công việc và chi phí quản lý cho cơ quan quản lý nhà nước có liên quan.
9. Nghị định số 129/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 91/2026/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ về quản lý hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế; Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 30 tháng 10 năm 2024.
- Quy định chuyển tiếp:
+ Các cơ sở sản xuất, mua bán, xuất khẩu, nhập khẩu, kiểm nghiệm, khảo nghiệm chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế đã gửi hồ sơ tại Bộ Y tế trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành được tiếp tục thực hiện theo quy định tại Nghị định số 91/2016/NĐ-CP và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP, trừ trường hợp cơ sở tự nguyện hoàn thiện hồ sơ theo quy định tại Nghị định này.
+ Chế phẩm có nhãn đúng quy định tại Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa, Nghị định số 111/2021/NĐ-CP ngày 09 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế đã được sản xuất, nhập khẩu, lưu thông trước thời điểm Nghị định này có hiệu lực thi hành được tiếp tục lưu thông, sử dụng đến hết hạn sử dụng ghi trên nhãn chế phẩm.
+ Nhãn chế phẩm đúng quy định tại Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa, Nghị định số 111/2021/NĐ-CP ngày 09 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế đã sản xuất, in ấn trước thời điểm Nghị định này có hiệu lực thi hành thì được tiếp tục sử dụng để sản xuất chế phẩm, nhưng không quá 02 năm kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Y tế chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về hoá chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế. Bộ Y tế đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 91/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 về quản lý hoá chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong gia dụng và y tế. Nghị định số 91/2016/NĐ-CP đã góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực hoá chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong gia dụng và y tế (sau đây viết gọn là hoá chất, chế phẩm), đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh hoá chất, chế phẩm.
Thực hiện chủ trương cắt giảm điều kiện kinh doanh trong các lĩnh vực do Bộ Y tế quản lý, năm 2018, Bộ Y tế đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế, trong đó bao gồm lĩnh vực quản lý hoá chất, chế phẩm.
Tiếp tục thực hiện chủ trương cắt giảm, đơn giản hoá điều kiện kinh doanh và quy định liên quan đến thủ tục hành chính, Bộ Y tế đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1661/QĐ-TTg ngày 04/10/2021 phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế. Tại Quyết định này, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phương án sửa đổi, bổ sung Nghị định số 91/2016/NĐ-CP.
Ngày 30/8/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1015/QĐ-TTg Phương án phân cấp trong giải quyết thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý của các bộ, cơ quan ngang bộ. Trong đó, có phương án phân cấp thủ tục hành chính quy định tại Nghị định số 91/2016/NĐ-CP.
Mặt khác, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 91/2016/NĐ-CP và một số quy định được sửa đổi tại Nghị định số 155/2018/NĐ-CP đến nay, qua phản ánh của các tổ chức, cá nhân và kết quả rà soát của Bộ Y tế, Nghị định có một số quy định bất cập, không còn phù hợp thực tế và còn thiếu một số quy định làm hạn chế hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Để thực hiện các phương án cắt giảm, đơn giản hoá, phân cấp quy định tại Quyết định số 1661/QĐ-TTg, Quyết định số 1015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nêu trên và sửa đổi, bổ sung những quy định còn thiếu hay không còn phù hợp tại Nghị định số 91/2016/NĐ-CP và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP, Bộ Y tế đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 129/2024/NĐ-CP.
c) Nội dung chủ yếu:Nghị định gồm 06 điều sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 91/2026/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ về quản lý hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế; Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế, cụ thể như sau:
- Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 91/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ quy định về quản lý hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế.
- Điều 2. Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế.
- Điều 3. Bãi bỏ, thay thế một số quy định của Nghị định số 91/2016/NĐ-CP và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP.
- Điều 4. Điều khoản chuyển tiếp.
- Điều 5. Điều khoản thi hành.
- Điều 6. Trách nhiệm thi hành
Các nội dung mới, quy định chính của Nghị định
- Phân cấp, đơn giản hóa 04 thủ tục hành chính (TTHC) về công bố đủ điều kiện kiểm nghiệm, khảo nghiệm, công bố điều kiện sản xuất chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn và cung cấp dịch vụ diệt côn trùng, diệt khuẩn:
+ Đơn giản hóa TTHC về công bố đủ điều kiện sản xuất chế phẩm; Đơn giản hóa TTHC về công bố đủ điều kiện cung cấp dịch vụ diệt côn trùng, diệt khuẩn bằng chế phẩm.
+ Phân cấp cơ quan giải quyết từ cấp Trung ương (Bộ Y tế) về cấp tỉnh (Sở Y tế), đồng thời đơn giản hóa TTHC về: công bố đủ điều kiện thực hiện kiểm nghiệm và Công bố đủ điều kiện thực hiện khảo nghiệm.
- Bổ sung quy định để giảm số lượng TTHC phải thực hiện của đơn vị đăng ký lưu hành khi có 1 chế phẩm có nhiều mùi hương khác nhau: bổ sung quy định chế phẩm có nhiều mùi hương khác nhau được cấp một số đăng ký lưu hành, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và vẫn đáp ứng yêu cầu quản lý chất lượng sản phẩm.
- Bổ sung quy định về cách thức thực hiện TTHC trực tuyến: qua Cổng Dịch vụ công quốc gia, qua đó đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức thực hiện TTHC, góp phần làm giảm áp lực giấy tờ, công việc lên chính các cơ quan quản lý nhà nước.
- Bổ sung quy định để đảm bảo an toàn và hiệu lực của chế phẩm cho người sử dụng:
+ Bổ sung quy định chế phẩm đã đăng ký lưu hành nhưng có thay đổi về thành phần hoạt chất, thay đổi phụ gia cộng hưởng thì phải đăng ký lưu hành mới (quy định cũ là đăng ký lưu hành bổ sung) để bảo đảm có đầy đủ thông tin đánh giá về an toàn và hiệu lực của chế phẩm trước khi cho phép lưu hành.
+ Bổ sung quy định rõ nhóm chế phẩm đã được cấp số đăng ký lưu hành nhưng thay đổi tác dụng, liều lượng sử dụng, phương pháp sử dụng, hàm lượng hoạt chất, hàm lượng phụ gia cộng hưởng, dạng chế phẩm, hạn sử dụng, nguồn hoạt chất thì phải đăng ký lưu hành bổ sung (có thực hiện kiểm nghiệm và khảo nghiệm) để bảo đảm có đầy đủ thông tin đánh giá về an toàn và hiệu lực của chế phẩm trước khi cho phép lưu hành tiếp.
+ Bổ sung quy định về đặt tên chế phẩm để tránh hiểu sai lệch về bản chất, công dụng, thành phần và xuất xứ của chế phẩm, gây nhầm lẫn giữa chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong gia dụng và y tế với thuốc bảo vệ thực vật.
+ Bổ sung nhiệm vụ của Bộ Y tế lấy ý kiến tư vấn hoặc tổ chức họp Hội đồng tư vấn cấp giấy chứng nhận đăng ký lưu hành chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế đối với các chế phẩm có chứa hoạt chất hoặc có dạng sản phẩm hoặc có phạm vi sử dụng hoặc có tác dụng lần đầu tiên đăng ký tại Việt Nam để có đủ cơ sở xem xét cấp hay không cấp giấy chứng nhận đăng ký lưu hành đối với những trường hợp đặc biệt này.
Bổ sung quy định để giảm trình tự thực hiện giải quyết TTHC:
+ Bổ sung quy định việc đăng ký lưu hành theo trình tự rút gọn đối với các chế phẩm thông dụng và có hoạt chất, hàm lượng hoạt chất, dạng chế phẩm theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới và phù hợp với quy định của Bộ Y tế về danh mục hoạt chất cấm sử dụng, hạn chế phạm vi sử dụng trong chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế. Đơn vị đăng ký được nộp kết quả khảo nghiệm cùng hồ sơ mà không phải chờ công văn cho phép khảo nghiệm của Bộ Y tế (nộp hồ sơ một lần).
+ Bổ sung quy định chấp nhận kết quả kiểm nghiệm, khảo nghiệm của phòng thí nghiệm tại nước ngoài đối với các Chế phẩm diệt khuẩn nhập khẩu có chỉ tiêu vi sinh và hiệu quả diệt khuẩn phù hợp với quy trình khảo nghiệm do Bộ Y tế ban hành). Quy định này nhằm tạo thuận lợi cho đơn vị đăng ký lưu hành mới chế phẩm nhập khẩu khi đăng ký ở nước sở tại đã có kết quả kiểm nghiệm, khảo nghiệm được nộp hồ sơ một lần và không cần phải thực hiện lại khảo nghiệm, kiểm nghiệm.
- Đơn giản hóa TTHC:
+ Bãi bỏ quy định cơ sở thực hiện khảo nghiệm phải là cơ sở y tế.
+ Bổ sung, làm rõ về tài liệu minh chứng hiệu lực, an toàn đối với chế phẩm có chứa hoạt chất hoặc có dạng sản phẩm hoặc có phạm vi sử dụng hoặc tác dụng lần đầu đăng ký tại Việt Nam phải có trong hồ sơ: tài liệu, kết quả nghiên cứu về an toàn và hiệu lực hoặc khuyến cáo về việc sử dụng chế phẩm trong lĩnh vực gia dụng và y tế của Tổ chức Y tế thế giới hoặc tổ chức quốc tế khác hoặc cơ quan có thẩm quyền tại nước sản xuất, xuất khẩu chế phẩm (quy định cũ là tài liệu của các tổ chức quốc tế tương đương nên chưa rõ ràng, khó xác định).
+ Đối với Giấy tờ về tư cách pháp nhân của cơ sở đăng ký lưu hành, cơ sở sản xuất: chỉ yêu cầu bản sao giấy tờ về tư cách pháp nhân có đóng dấu của đơn vị được cấp (quy định cũ là bản sao hợp lệ).
+ Quy định một số trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự đối với giấy chứng nhận lưu hành tự do (CFS) của chế phẩm nhập khẩu khi đăng ký lưu hành (những CFS có thể tra cứu trên trang thông tin điện tử chính thức của cơ quan cấp CFS hoặc được cơ quan đại diện ngoại giao tại Việt Nam của nước cấp CFS xác nhận nội dung).
+ Đơn giản hóa TTHC về Cấp giấy phép nhập khẩu chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế do trên thị trường không có sản phẩm hoặc phương pháp sử dụng phù hợp với nhu cầu của tổ chức, cá nhân xin nhập khẩu: cắt giảm quy định phải cung cấp tài liệu chứng minh trên thị trường Việt Nam không có sản phẩm và phương pháp sử dụng phù hợp với nhu cầu của tổ chức, cá nhân xin nhập khẩu.
- Bổ sung thêm quy định để đảm bảo quyền lợi của đơn vị đăng ký chế phẩm:
+ Khi đơn vị đăng ký lưu hành gặp sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép: bổ sung quy định cho trường hợp cơ sở đăng ký không nộp hồ sơ đúng hạn vì lý do bất khả kháng như: thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hỏa hoạn,… thì được nộp hồ sơ muộn hơn theo quy định nhưng không quá 12 tháng kể từ ngày hết hạn bổ sung hồ sơ kèm theo văn bản giải trình.
+ Tăng thời hạn phải nộp Phiếu trả lời kết quả khảo nghiệm đối với chế phẩm đăng ký lưu hành mới: từ quy định cũ là 12 tháng thành trong thời hạn 36 tháng kể từ ngày ghi trên văn bản chấp thuận việc khảo nghiệm.
- Danh mục Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định 129/2024/NĐ-CP:Phụ lục VIIYêu cầu đối với Giấy ủy quyềnPhụ lục VIIIYêu cầu đối với Giấy chứng nhận lưu hành tự doPhụ lục IXHướng dẫn cách ghi nhãn hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng,
diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tếPhụ lục XIBáo cáo về công tác quản lý hóa chất, chế phẩm diệt côn
trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế10. Nghị định số 130/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về thu phí sử dụng đường bộ cao tốc đối với phương tiện lưu thông trên tuyến đường bộ cao tốc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10 tháng 10 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Luật Đường bộ đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 27/6/2024 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/1/2025. Nghị định được xây dựng, ban hành để triển khai quy định chi tiết khoản 3 Điều 50, khoản 1 Điều 84 Luật Đường bộ, theo đó:
+ Tại Điều 50 quy định:
1. Nhà nước thu phí sử dụng đường cao tốc đối với phương tiện lưu thông trên đường cao tốc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác, bao gồm:
a) Đường cao tốc do Nhà nước đầu tư theo hình thức đầu tư công;
b) Đường cao tốc được đầu tư theo các hình thức khác khi kết thúc hợp đồng, chuyển giao cho Nhà nước...
3. Chính phủ quy định về điều kiện, thời điểm thực hiện việc thu phí sử dụng đường cao tốc; việc thu phí sử dụng đường cao tốc đối với đường cao tốc thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này mà chưa đáp ứng quy định tại khoản 1 Điều 45 và khoản 2 Điều 47 của Luật này
+ Tại Điều 84 quy định:
1. Sửa đổi, bổ sung điểm 1.1, bổ sung điểm 1.1a vào sau điểm 1.1, tiểu mục 1 thuộc phần V- Phí thuộc lĩnh vực giao thông vận tải trong Danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 09/2017/QH14, Luật số 23/2018/QH14, Luật số 72/2020/QH14, Luật số 16/2023/QH15, Luật số 20/2023/QH15 và Luật số 24/2023/QH15 như sau:1.1Phí sử dụng đường bộ thu qua đầu phương tiện đối với xe ô tôChính phủ1.1aPhí sử dụng đường bộ cao tốc đối với phương tiện lưu thông trên đường bộ cao tốc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thácChính phủ đối với đường bộ cao tốc do Bộ Giao thông vận tải quản lý; Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối với đường bộ cao tốc do địa phương quản lýNgày 27/7/2024, Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, nghị quyết được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 7 tại Quyết định số 717/QĐ-TTg, trong đó giao Bộ GTVT chủ trì xây dựng Nghị định về thu phí sử dụng đường bộ cao tốc theo trình tự thủ tục rút gọn.
- Mục đích ban hành:
Việc xây dựng Nghị định của Chính phủ quy định về thu phí sử dụng đường cao tốc nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, quy định rõ về loại hình và đối tượng thu phí, phương án tổ chức thực hiện để đảm bảo tính khả thi, công khai và minh bạch. Tạo nguồn thu ngân sách nhà nước khi huy động kịp thời, hợp lý nguồn lực từ người sử dụng đường cao tốc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác; qua đó góp phần tạo nguồn kinh phí để đầu tư phát triển hệ thống đường cao tốc, chi thực hiện công tác quản lý, bảo trì đường cao tốc. Số tiền thu được, sau khi trừ các chi phí tổ chức thu phí sẽ được nộp về ngân sách nhà nước và được sử dụng theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 04 chương, 13 điều và 01 Phụ lục quy định về thu phí sử dụng đường bộ cao tốc đối với phương tiện lưu thông trên tuyến đường bộ cao tốc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác, cụ thể như sau:
- Chương I: Quy định chung: gồm Điều 1 và Điều 2.
- Chương II: Quy định chung về thu phí sử dụng đường bộ cao tốc: từ Điều 3 đến Điều 8.
- Chương III: Quy định về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng đường bộ cao tốc: từ Điều 9 đến Điều 11.
- Chương IV: Tổ chức thực hiện: Điều 12 và Điều 13.
- Phụ lục: Biểu mức phí sử dụng đường bộ cao tốc.
- Phạm vi điều chỉnh:
+ Nghị định quy định về thu phí sử dụng đường bộ cao tốc đối với phương tiện lưu thông trên tuyến đường bộ cao tốc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác (sau đây gọi tắt là thu phí sử dụng đường bộ cao tốc), gồm:
+ Điều kiện, thời điểm thực hiện việc thu phí sử dụng đường bộ cao tốc.
+ Mức thu, chế độ thu, nộp, miễn, quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ cao tốc thuộc phạm vi quản lý của Bộ GTVT.
- Đối tượng áp dụng: Nghị định áp dụng đối với các cơ quan, đơn vị, cá nhân liên quan đến tổ chức hoạt động thu phí, nộp, quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ cao tốc đối với phương tiện lưu thông trên tuyến đường bộ cao tốc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác.
Nội dung cơ bản của Nghị định
- Quy định về điều kiện thực hiện việc thu phí sử dụng đường cao tốc do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác được triển khai thu phí gồm:
1. Đường bộ cao tốc đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Được thiết kế, đầu tư xây dựng theo quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về đường cao tốc và các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật khác có liên quan;
b) Hoàn thành bàn giao, đưa vào khai thác theo quy định của Luật Đường bộ, quy định của pháp luật về xây dựng và quy định khác của pháp luật có liên quan;
c) Có Đề án khai thác tài sản được người có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công
2. Đường bộ cao tốc đã được quyết định chủ trương đầu tư trước ngày Luật Đường bộ có hiệu lực thi hành, khi đưa vào khai thác mà chưa đáp ứng quy định tại khoản 1 Điều 45, khoản 2 Điều 47 của Luật Đường bộ thì việc thu phí sẽ được triển khai thực hiện sau khi hoàn thành việc xây dựng, lắp đặt hạ tầng trạm thu phí, thiết bị phục vụ việc thu phí; các công trình dịch vụ công tại trạm dừng nghỉ; cơ sở hạ tầng kỹ thuật, thiết bị công nghệ để quản lý, điều hành giao thông và có Đề án khai thác tài sản được người có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công.”
- Phí sử dụng đường bộ cao tốc được xác định trên quãng đường thực tế phương tiện tham gia giao thông (km) và mức phí tương ứng với từng loại phương tiện (đồng/km). Biểu mức phí sử dụng đường bộ cao tốc, được quy định 02 mức trong đó mức 1 là mức phí áp dụng đối với phương tiện lưu thông trên các tuyến đường cao tốc quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 130/2024/NĐ-CP; mức 2 là mức phí áp dụng đối với phương tiện lưu thông trên các tuyến đường cao tốc quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 130/2024/NĐ-CP.
Biểu thu phí đã quy định: Mức 1 tương ứng khoảng 62% mức thu giá tối đa dịch vụ sử dụng đường bộ các dự án đầu tư xây dựng để kinh doanh; mức 2 tương ứng khoảng 43% mức thu giá tối đa dịch vụ sử dụng đường bộ các dự án đầu tư xây dựng để kinh doanh.
- Đối tượng chịu phí và người nộp phí: các phương tiện được phép lưu thông trên tuyến đường bộ cao tốc ngoại trừ các phương tiện được miễn thu phí quy định tại Điều 6 Nghị định số 130/2024/NĐ-CP.
- Tổ chức, quản lý, vận hành, cung cấp dịch vụ thu phí
“Phí sử dụng đường bộ cao tốc do trung ương quản lý nộp vào ngân sách trung ương, phí sử dụng đường bộ cao tốc do địa phương quản lý nộp vào ngân sách địa phương. Cơ quan quản lý thu được trích để lại một phần phí sử dụng đường bộ cao tốc thực thu trước khi nộp vào ngân sách nhà nước theo tỷ lệ (%) để chi cho hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí, cụ thể:
a) Tỷ lệ để lại và việc quản lý, sử dụng đối với phí sử dụng đường bộ cao tốc thuộc phạm vi quản lý của địa phương do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định;
b) Tỷ lệ để lại đối với phí sử dụng đường bộ cao tốc thuộc phạm vi quản lý của Bộ Giao thông vận tải là sáu phẩy năm phần trăm (6,5%) trên số tiền thu phí sử dụng đường bộ cao tốc thực thu được, trong đó: Không phẩy hai phần trăm (0,2%) để chi cho hoạt động quản lý thu phí sử dụng đường bộ cao tốc của Cơ quan quản lý thu phí, thực hiện chi theo quy định của pháp luật phí, lệ phí; sáu phẩy ba phần trăm (6,3%) để chi phí thuê dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ và chi phí thuê đơn vị vận hành thu và các chi phí có liên quan phục vụ công tác thu phí, chi tiết tại Khoản 3 Điều này. …
Cơ quan quản lý thu xác định số tiền phí được trích lại để chi cho hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí; chuyển số tiền được trích còn lại (sau khi trừ chi phí cung cấp dịch vụ thu phí theo hợp đồng cung cấp dịch vụ thu phí) vào tài khoản chi hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí của cơ quan quản lý thu mở tại Kho bạc nhà nước; phần còn lại nộp vào ngân sách nhà nước trong thời gian không quá ngày 20 của tháng tiếp theo và chi tiết theo mục lục ngân sách nhà nước hiện hành;
Số tiền đã chuyển vào tài khoản chi hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí của cơ quan quản lý thu mở tại Kho bạc nhà nước được sử dụng để chi chung cho các nhiệm vụ sau: Thanh toán chi phí thuê đơn vị vận hành thu (nếu có) theo hợp đồng; thanh toán chi phí còn thiếu của hợp đồng thuê nhà cung cấp dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ (trong trường hợp số tiền được giữ lại theo hợp đồng thấp hơn chi phí thuê nhà cung cấp dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ); chi phí cho hoạt động quản lý thu phí sử dụng đường bộ cao tốc của cơ quan quản lý thu phí. Hằng năm, cơ quan quản lý thu phải quyết toán thu, chi theo quy định. Sau khi quyết toán thu, chi đúng chế độ, số tiền phí được trích để lại chưa chi trong năm được chuyển sang năm sau để tiếp tục chi theo chế độ quy định; trường hợp hết 02 năm kể từ năm được chuyển nguồn, số tiền phí đã được chuyển nguồn không còn nhiệm vụ chi hoặc chính sách của Nhà nước thay đổi, số tiền phí được để lại không đủ bảo đảm chi phí cho hoạt động của tổ chức thu phí, cơ quan quản lý thu phải báo cáo Bộ quản lý chuyên ngành, để báo cáo Bộ Tài chính để nộp ngân sách nhà nước hoặc trình cơ quan có thẩm quyền sửa đổi tỷ lệ để lại cho phù hợp. …
Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm: Kiểm tra việc tổ chức thực hiện công tác quản lý thu phí sử dụng đường bộ cao tốc thuộc phạm vi quản lý; …
Quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ cao tốc thuộc phạm vi quản lý của Bộ Giao thông vận tải, cụ thể như sau:
a) Chi phí cung cấp dịch vụ thu phí được xác định trên cơ sở kết quả lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ và đơn vị vận hành thu theo quy định của pháp luật về đấu thầu và pháp luật có liên quan; toàn bộ số tiền thu phí sử dụng đường bộ cao tốc thu được sau khi trừ chi phí cung cấp dịch vụ thu phí theo hợp đồng cung cấp dịch vụ thu phí (chi phí không quá sáu phẩy ba phần trăm (6,3%) trên tổng số phí thực thu), nhà cung cấp dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ chuyển vào tài khoản phí chờ nộp ngân sách của cơ quan quản lý thu mở tại Kho bạc nhà nước”.
11. Nghị định số 131/2024/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định thương mại tự do giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Nhà nước I-xra-en giai đoạn 2024 - 2027
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 10 năm 2024 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2027.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Hiệp định Thương mại dự do giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Nhà nước I-xra-en (VIFTA) đã được ký kết vào ngày 25/7/2023.
Đồng thời, ngày 15/10/2024, Chính phủ đã có Nghị quyết số 190/NQ-CP ấn định thời điểm có hiệu lực của Hiệp định VIFTA là ngày 15/10/2024. Bộ Ngoại giao đã có công hàm số 871/BNG-PLQT ngày 15/10/2024 khẳng định Hiệp định VIFTA có hiệu lực với cả Việt Nam và I-xra-en từ ngày 15/10/2024.
Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 131/2024/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2024 về Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Thương mại dự do giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Nhà nước I-xra-en giai đoạn 2024-2027.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định có 07 điều và 01 Phụ lục Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định thương mại tự do giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Nhà nước I-xra-en giai đoạn 2024 – 2027, cụ thể như sau:
- Điều 1. Phạm vi điều chỉnh.
- Điều 2. Đối tượng áp dụng.
- Điều 3. Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định VIFTA giai đoạn 2024 – 2027.
- Điều 4. Điều kiện áp dụng.
- Điều 5. Hàng hóa từ khu phi thuế quan của Việt Nam.
- Điều 6. Hiệu lực thi hành.
- Điều 7. Trách nhiệm thi hành.
Ban hành kèm theo Nghị định 01 Phụ lục – Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định thương mại tự do giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Nhà nước I-xra-en giai đoạn 2024 – 2027.
12. Nghị định số 132/2024/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 05 tháng 12 năm 2024; thay thế Nghị định số 124/2017/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2017 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN) trong hoạt động dầu khí (Nghị định số 124/2017/NĐ-CP); các nội dung về quy định chuyển tiếp được quy định tại Điều 28 của Nghị định.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Cơ sở pháp lý
+ Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 ngày 17 tháng 6 năm 2020 (Luật Đầu tư năm 2020).
+ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 ngày 22 tháng 6 năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2020.
+ Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư (Nghị định số 31/2021/NĐ-CP).
+ Văn bản số 5478/VPCP-CN ngày 23 tháng 8 năm 2022 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ đồng ý Bộ Công Thương xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 124/2017/NĐ-CP.
Cơ sở thực tiễn
+ Căn cứ xây dựng Nghị định số 124/2017/NĐ-CP đã thay đổi (Luật Đầu tư năm 2020 thay thế Luật Đầu tư năm 2014; Luật Đầu tư công năm 2019 thay thế Luật Đầu tư công năm 2014).
+ Trong quá trình thực hiện Nghị định số 124/2017/NĐ-CP phát sinh một số vướng mắc như: quy định về việc pháp nhân thành lập ở nước ngoài/công ty điều hành có thể thực hiện nhiều dự án phù hợp với pháp luật của nước sở tại chưa rõ ràng; chưa có quy định về việc dùng cổ phần, phần vốn góp hoặc dự án của nhà đầu tư đó tại Việt Nam để thanh toán hoặc hoán đổi cho việc mua cổ phần, phần vốn góp hoặc dự án dầu khí của tổ chức kinh tế ở nước ngoài; chưa có quy định về trường hợp điều chỉnh tăng vốn ĐTRNN để hoàn thành các nghĩa vụ, xử lý các tồn đọng khi chấm dứt dự án ĐTRNN (như nghĩa vụ thu dọn mỏ, chuyển tiền cho khoản gọi vốn còn thiếu, chi phí đền bù cam kết,…). Do đó cần phải rà soát, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Mục đích ban hành:
+ Bảo đảm tính hiệu lực, thống nhất, đồng bộ của pháp luật đầu tư đối với ĐTRNN trong hoạt động dầu khí.
+ Bổ sung, sửa đổi một số quy định về ĐTRNN trong hoạt động dầu khí phù hợp với Luật Đầu tư năm 2020.
+ Nâng cao tính thực tiễn, khả thi và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, hạn chế tối đa những khó khăn, vướng mắc có thể phát sinh.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 04 chương và 28 điều quy định về đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí, cụ thể như sau:
- Nghị định này quy định về ĐTRNN theo hình thức quy định tại các điểm a, b, c, đ khoản 1 Điều 52 Luật Đầu tư để tham gia thực hiện hoạt động dầu khí, dự án dầu khí ở nước ngoài; ĐTRNN theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế ở nước ngoài để thực hiện hoạt động dầu khí tại Việt Nam.
- Đối tượng áp dụng của Nghị định: nhà đầu tư, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí.
Các quy định chính, nội dung mới của Nghị định
- Quy định chung (Chương I gồm 7 điều, từ Điều 1 đến Điều 7): Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích các từ ngữ; vốn ĐTRNN trong hoạt động dầu khí; ĐTRNN của tổ chức kinh tế có vốn ĐTNN tại Việt Nam; tài liệu xác định địa điểm, hình thức ĐTRNN, ngôn ngữ sử dụng trong hồ sơ ĐTRNN trong hoạt động dầu khí và việc tiếp nhận hồ sơ và giải quyết thủ tục ĐTRNN, xử lý hồ sơ giả mạo.
- Thủ tục cấp, điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký (GCNĐK) ĐTRNN (Chương II gồm 4 điều, từ Điều 8 đến Điều 11): Chương này quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp/điều chỉnh GCNĐK ĐTRNN đối với dự án dầu khí thuộc diện chấp thuận chủ trương ĐTRNN; hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp/điều chỉnh GCNĐK ĐTRNN đối với dự án dầu khí không thuộc diện chấp thuận chủ trương ĐTRNN được quy định tại Điều 10, Điều 11.
- Triển khai dự án dầu khí (Chương III, gồm 14 điều, từ Điều 12 đến Điều 25): Chương này quy định về thành lập công ty điều hành; chuyển vốn ĐTRNN; nguyên tắc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trước khi cấp GCNĐK ĐTRNN; hồ sơ, trình tự, thủ tục liên quan đến đăng ký/thay đổi giao dịch ngoại hối sau khi được cấp GCNĐK ĐTRNN; huy động vốn cho dự án dầu khí ở nước ngoài và bảo lãnh vay vốn thực hiện dự án; thu hồi vốn (chi phí) từ dự án dầu khí ở nước ngoài; chuyển nhượng dự án dầu khí ở nước ngoài; xử lý chi phí của dự án dầu khí ở nước ngoài không thành công; kế toán; nghĩa vụ tài chính tại Việt Nam; đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại dự án dầu khí ở nước ngoài và ổn định chính sách đối với người lao động tham gia thực hiện dự án dầu khí ở nước ngoài; thực hiện chế độ báo cáo đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí; kết thúc đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí và hồ sơ, trình tự, thủ tục chấm dứt hiệu lực giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài.
- Điều khoản thi hành (Chương IV gồm 3 điều, từ Điều 26 đến Điều 28): Chương này quy định về hiệu lực thi hành; trách nhiệm thi thành và chuyển tiếp.
13. Nghị định số 133/2024/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều, phụ lục của Nghị định số 58/2021/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2021 của Chính phủ quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 11 năm 2024.
- Các hồ sơ đề nghị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng đã nộp trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành được tiếp tục xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật tại thời điểm nộp hồ sơ.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Việc ban hành Nghị định này nhằm thực hiện Quyết định số 933/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành Kế hoạch cải cách thủ tục hành chính (TTHC) trọng tâm 6 tháng cuối năm 2023 (Quyết định 933); Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ việc chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06); Nghị quyết 59/NQ-CP ngày 04/7/2017 của Chính phủ về việc đơn giản hóa TTHC liên quan đến quản lý dân cư thuộc phạm vi chức năng quản lý của NHNN (Nghị quyết 59).
Cơ sở pháp lý
Khoản 9 và khoản 23 Điều 4 Luật NHNN quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN:
“9. … Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng cho các tổ chức….”
“23. Tổ chức hệ thống thông tin tín dụng và cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng; thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các tổ chức hoạt động thông tin tín dụng.”
Cơ sở thực tiễn
+ Việc cải cách TTHC luôn là một trong các nhiệm vụ trọng tâm được Chính phủ tập trung, khẩn trương triển khai thực hiện trong năm 2023 (theo nội dung các Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 06/01/2023, Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 15/7/2023…).
+ Liên quan đến việc triển khai Đề án 06, hiện nay Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGvDC) đã được hình thành, các cơ quan quản lý nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình (như cấp phép, thực hiện TTHC…) có thể khai thác thông tin cư dân trên cơ sở dữ liệu quốc gia để tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, giảm thiểu chi phí giấy tờ, TTHC cho xã hội.
Theo đó, việc thực hiện xây dựng Nghị định này theo Kế hoạch cải cách TTHC trọng tâm 6 tháng cuối năm 2023 đính kèm Quyết định 933 nêu trên là cần thiết, phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước và Chính phủ về việc cắt giảm TTHC.
Chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
+ Điểm 1 Mục III Kế hoạch kèm theo Quyết định 933 quy định:
“Tập trung thực thi dứt điểm các phương án cắt giảm, đơn giản hóa QĐKD, TTHC, giấy tờ công dân đã được phê duyệt. …
Việc sửa đổi, bổ sung các văn bản QPPL tại Phụ lục I kèm theo Kế hoạch có thể được thực hiện theo hình thức một văn bản QPPL sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản QPPL và áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn theo đúng quy định của pháp luật về xây dựng, ban hành văn bản QPPL.”
Điểm 6 Mục XVI Phụ lục I kèm theo Kế hoạch tại Quyết định 933 giao NHNN sửa đổi Nghị định 58 đối với thủ tục cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động thông tin tín dụng của công ty thông tin tín dụng.
+ Điểm m khoản 2 Mục III Đề án 06 yêu cầu: “Rà soát, tái cấu trúc quy trình cắt giảm, đơn giản hóa TTHC và tổ chức thực hiện tích hợp, kết nối và chia sẻ dữ liệu dân cư giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGvDC) với Cổng Dịch vụ công quốc gia, hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh phục vụ xác thực, chia sẻ thông tin công dân khi thực hiện TTHC theo nguyên tắc không yêu cầu khai báo lại các thông tin đã có trong CSDLQGvDC.”
+ Nghị quyết 59 quy định: “Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động thông tin tín dụng của công ty thông tin tín dụng.
Sửa đổi mẫu lý lịch tóm tắt quy định tại mẫu số 02/TTTD Thông tư số 16/2010/TT-NHNN ngày 25 tháng 6 năm 2010 hướng dẫn thi hành Nghị định số 10/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ về hoạt động thông tin tín dụng như sau: Lược bỏ yêu cầu về các thông tin thuộc 15 trường thông tin cá nhân có thể khai thác trên CSDLQGvDC, chỉ giữ lại thông tin về họ tên, nơi ở hiện tại (trường hợp khác nơi đăng ký thường trú); bổ sung nội dung cung cấp số định danh cá nhân”
- Mục đích ban hành:
Việc ban hành Nghị định này nhằm thực thi phương án đơn giản hóa đối với TTHC, giấy tờ công dân và triển khai việc sử dụng CSDLQGvDC phục vụ thực hiện các TTHC trên môi trường điện tử và phát triển kinh tế - xã hội tại điểm m khoản 2 Mục III Đề án 06 yêu cầu: “không yêu cầu khai báo lại các thông tin đã có trong CSDLQGvDC”.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 02 điều sửa đổi, bổ sung một số điều, phụ lục của Nghị định số 58/2021/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2021 của Chính phủ quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng, cụ thể như sau:
- Điều 1: khoản 1 sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 10 Nghị định 58 và khoản 2 sửa đổi, bổ sung Mục 1, Mục 4 và Mục Ghi chú của Mẫu Lý lịch tóm tắt tại Phụ lục VI ban hành kèm theo Nghị định 58.
- Điều 2 quy định về điều khoản thi hành.
Nội dung cơ bản của Nghị định
- Sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 10 Nghị định 58 theo hướng làm rõ các hình thức của bản chính có thể là văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương văn bản do cơ quan có thẩm quyền cấp theo quy định của pháp luật. Theo đó, Phiếu Lý lịch tư pháp được cơ quan có thẩm quyền cấp trên VneID được sử dụng như bản chính để thực hiện đối chiếu trong quá trình tiếp nhận hồ sơ nhằm giảm thiểu TTHC đối với các cá nhân liên quan trong quá trình thực hiện cấp Giấy chứng nhận.
Sửa đổi Mục 1 Lý lịch tóm tắt của Phụ lục VI ban hành kèm theo Nghị định 58 theo hướng phân tách các trường thông tin thành 02 loại: (i) trường thông tin người khai phải cung cấp và (ii) trường thông tin mà cơ quan quản lý có thể tự khai thác trên CSDLQGvDC, cụ thể như sau:
+ Công dân Việt Nam chỉ cần phải cung cấp 05 trường thông tin thay vì khai báo 10 trường thông tin tại mẫu Phụ lục VI theo quy định hiện hành, cụ thể: Họ và tên; Ngày, tháng, năm sinh; Số chứng minh nhân dân hoặc số định danh cá nhân; Tên, địa chỉ và mã số thuế tổ chức mà mình đại diện, tỷ lệ vốn góp, vốn cổ phần được đại diện (trường hợp là người đại diện phần vốn góp, vốn cổ phần); Vợ, chồng; bố mẹ đẻ; con đẻ của người kê khai (Họ và tên, Số chứng minh nhân dân hoặc số định danh cá nhân (đối với công dân Việt Nam); Số hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp (đối với cá nhân không phải là công dân Việt Nam)).
Đối với các trường thông tin khác như Nơi sinh; Quốc tịch (các quốc tịch hiện có); Địa chỉ đăng ký thường trú; Nơi ở hiện tại (trường hợp khác nơi đăng ký thường trú), công dân Việt Nam chỉ cung cấp khi cán bộ tiếp nhận hồ sơ không khai thác được thông tin trong CSDLQGvDC.
+ Cá nhân không phải công dân Việt Nam phải cung cấp 08 trường thông tin thay vì khai báo 10 trường thông tin tại mẫu Phụ lục VI theo quy định hiện hành (bỏ 02 trường thông tin là “họ và tên thường gọi” và “bí danh” vì qua rà soát NHNN thấy rằng các thông tin này không cần thiết trong quá trình cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động thông tin tín dụng của công ty thông tin tín dụng), cụ thể: Họ và tên; Ngày, tháng, năm sinh; Số hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp; Nơi sinh; Quốc tịch (các quốc tịch hiện có); Địa chỉ đăng ký theo hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế hộ chiếu; Nơi ở hiện nay tại Việt Nam (nếu có); Tên, địa chỉ và mã số thuế tổ chức mà mình đại diện, tỷ lệ vốn góp, vốn cổ phần được đại diện (trường hợp là người đại diện phần vốn góp, vốn cổ phần).
14. Nghị định số 134/2024/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ về chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn tỉnh Thanh Hóa
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21 tháng 10 năm 2024, áp dụng cho 05 năm từ năm ngân sách 2022 đến năm ngân sách 2026.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Tại Văn bản số 6282/UBND-KTTC ngày 09/5/2022 và số 19175/UBNDKTTC ngày 22/12/2022, UBND tỉnh Thanh Hóa đề nghị hướng dẫn thực hiện chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 37/2021/QH15. Theo đó, có 02 nội dung vướng mắc như sau:
+ Vướng mắc về phạm vi xác định số thu ngân sách nhà nước từ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn;
+ Vướng mắc trong việc xác định “số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa nhập khẩu để đầu tư hình thành tài sản cố định hoặc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu được ngân sách trung ương hoàn thuế giá trị gia tăng” khi thực hiện Nghị quyết số 37/2021/QH15 của Quốc hội, cụ thể:
(i) Kỳ nộp thuế giá trị gia tăng đầu vào khâu nhập khẩu và kỳ hoàn thuế giá trị gia tăng không cùng năm ngân sách;
(ii) Cơ sở để xác định chính xác số thuế giá trị gia tăng được hoàn của hàng hóa nhập khẩu qua cảng biển Nghi Sơn để sản xuất hàng hóa xuất khẩu/hình thành tài sản cố định.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Chính phủ tại Văn bản số 76/VPCP-KTTH ngày 05/01/2023 của Văn phòng Chính phủ: “Bộ Tài chính khẩn trương xem xét, xử lý kiến nghị của UBND tỉnh Thanh Hóa tại Văn bản số 19175/UBND-KTTC nêu trên theo thẩm quyền và quy định pháp luật; kịp thời đề xuất, báo cáo Thủ tướng Chính phủ đối với những nội dung vượt thẩm quyền” và tại Văn bản số 4966/VPCP-KTTH ngày 05/7/2023 của Văn phòng Chính phủ: “1. Thông qua đề nghị xây dựng Nghị định hướng dẫn thực hiện chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 37/2021/QH15 ngày 13 tháng 11 năm 2021 của Quốc hội và đồng ý áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành Nghị định trên như đề nghị của Bộ Tài chính tại Văn bản số 124/TTr-BTC ngày 21 tháng 6 năm 2023. 2. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp, UBND tỉnh Thanh Hóa và các cơ quan liên quan hoàn thiện hồ sơ dự thảo Nghị định, trình Chính phủ trong tháng 7 năm 2023 trước khi báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến theo quy định”, để kịp thời hướng dẫn tỉnh Thanh Hóa thực hiện chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 37/2021/QH15, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định.
- Mục đích ban hành: Nghị định của Chính phủ được xây dựng nhằm triển khai Nghị quyết số 37/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Thanh Hóa.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 05 điều về chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn tỉnh Thanh Hóa, cụ thể như sau:
- Điều 1. Phạm vi và đối tượng áp dụng.
- Điều 2. Xác định số thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu qua Cảng biển Nghị Sơn và số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn để đầu tư hình thành tài sản cố định hoặc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu được ngân sách trung ương hoàn thuế giá trị gia tăng.
- Điều 3. Trách nhiệm của các cơ quan.
- Điều 4. Hiệu lực thi hành.
- Điều 5. Tổ chức thực hiện.
- Phạm vi và đối tượng áp dụng: Nghị định này hướng dẫn thực hiện chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 37/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Thanh Hóa. Nghị định này áp dụng đối với Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc xác định số thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn.
Nội dung của Nghị định
- Điều 1. Phạm vi và đối tượng áp dụng
- Điều 2. Xác định số thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu qua Cảng biển Nghị Sơn và số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn để đầu tư hình thành tài sản cố định hoặc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu được ngân sách trung ương hoàn thuế giá trị gia tăng
+ Phạm vi xác định số thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn:
Chỉ xác định phạm vi số thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đăng ký tờ khai hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Thanh Hóa.
+ Phạm vi xác định số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa nhập khẩu để đầu tư hình thành tài sản cố định hoặc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu được ngân sách trung ương hoàn thuế: Chỉ tính đối với số thuế giá trị gia tăng được hoàn của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa (không tính trừ thu hồi hoàn thuế giá trị gia tăng).
+ Số thuế giá trị gia tăng nhập khẩu được ngân sách trung ương hoàn thuế:
Số thuế giá trị gia tăng nhập khẩu được ngân sách trung ương hoàn thuế là số thuế giá trị gia tăng nhập khẩu tương ứng với số đã chi hoàn trong năm ngân sách, được xác định bằng công thức sau đây:Số thuế giá trị gia tăng được ngân sách trung ương hoàn thuế từng kỳ của hàng hóa nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn đối với hàng hóa nhập khẩu để đầu tư hình thành tài sản cố định hoặc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu
Số thuế đã hoàn từng kỳ
x
Số thuế giá trị gia tăng đã nộp của hàng hóa nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn để đầu tư hình thành tài sản cố định hoặc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu từng kỳ hoàn
Tổng số thuế giá trị gia tăng đầu vào trong kỳ hoànTrong đó:
(a) Số thuế đã hoàn từng kỳ là số tiền hoàn thuế giá trị gia tăng theo Lệnh chi hoàn thuế đã được ngân sách trung ương chi hoàn trong năm ngân sách của các doanh nghiệp nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn, không tính trừ số thu hồi hoàn thuế giá trị gia tăng (nếu phát sinh).
(b) Số thuế giá trị gia tăng đã nộp của hàng hóa nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn để đầu tư hình thành tài sản cố định hoặc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu từng kỳ hoàn là tổng số thuế giá trị gia tăng đã nộp khâu nhập khẩu của các doanh nghiệp nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn tương ứng kỳ hoàn thuế (căn cứ số hải quan cung cấp và số người nộp thuế kê khai).
(c) Tổng số thuế giá trị gia tăng đầu vào trong kỳ hoàn của từng hồ sơ là tổng số thuế giá trị gia tăng đã nộp khâu nhập khẩu cộng với số thuế giá trị gia tăng mua vào trong nước đủ điều kiện khấu trừ của các doanh nghiệp nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn.
- Điều 3. Trách nhiệm của các cơ quan
+ Bộ Tài chính có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa kiểm tra tình hình thực hiện chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn.
+ Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa có trách nhiệm: (i) Chỉ đạo các cơ quan liên quan tại địa phương thực hiện chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn theo quy định tại Nghị định này và các văn bản pháp luật có liên quan; (ii) Phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ liên quan kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn.
- Điều 4. Hiệu lực thi hành Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 21 tháng 10 năm 2024, áp dụng cho 05 năm từ năm ngân sách 2022 đến năm ngân sách 2026.
- Điều 5. Tổ chức thực hiện Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
15. Nghị định số 135/2024/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 22 tháng 10 năm 2024.
- Điều khoản chuyển tiếp:
“1. Tổ chức, cá nhân đang thực hiện bán điện cho đơn vị điện lực tại các dự án, hệ thống điện mặt trời mái nhà đã lắp đặt, vận hành phát điện trước ngày 01 tháng 01 năm 2021 không được đăng ký lắp đặt thêm điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ tại cùng địa điểm sử dụng điện.
2. Tổ chức, cá nhân đã phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ trong kỳ quy hoạch phát triển điện lực quốc gia kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021 thực hiện như sau:
a) Hộ gia đình, nhà ở riêng lẻ, cơ quan công sở đã lắp đặt điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ có đấu nối với hệ thống điện quốc gia gửi thông tin liên quan đến cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận phát triển để ghi nhận về quy mô, địa điểm. Trường hợp bán điện dư vào hệ thống điện quốc gia phải thực hiện theo quy định tại Nghị định này;
b) Tổ chức, cá nhân không thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản 2 Điều này đã lắp đặt điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ có đấu nối với hệ thống điện quốc gia gửi thông tin liên quan đến cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận phát triển để ghi nhận về quy mô, địa điểm và không được bán điện dư. Trường hợp bán điện dư phải thực hiện theo quy định tại Nghị định này.”
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Cơ sở chính trị
Ngày 11/02/2020, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó, đề ra một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu như: (i) Về năng lượng tái tạo (Mục 1 Phần III của Nghị quyết); (ii) Đối với điện gió và điện mặt trời (Mục 2 Phần III của Nghị quyết).
Cơ sở pháp lý
Ngày 24/6/2023, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 98/2023/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh;
Ngày 09/01/2023, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 81/2023/QH15 về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050;
Chỉ thị 05/CT-TTg ngày 14/02/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc đảm bảo cung ứng điện, cung cấp than, khí cho sản xuất điện trong thời gian tới;
Các Thông báo của Văn phòng chính phủ về kết luận của Lãnh đạo Chính phủ chỉ đạo xây dựng, trình ban hành Nghị định;
Cơ sở thực tiễn
Phát triển ĐMTMN tự sản, tự tiêu để tiếp tục phát huy những lợi thế, ưu điểm của ĐMTMN, góp phần bảo vệ môi trường, cung cấp nguồn năng lượng sạch tại chỗ phục vụ nhu cầu sử dụng điện cho sinh hoạt, sản xuất kinh doanh, phát triển KT-XH;
Thúc đẩy phát triển ĐMTMN tự sản, tự tiêu để tạo nguồn năng lượng sạch, giảm phát thải khí nhà kính, góp phần giảm tổn thất điện năng trong hệ thống lưới điện, đồng thời các cơ quan quản lý có thể theo dõi, kiểm tra, kiểm soát việc đầu tư phát triển ĐMTMN, không để xảy ra trường hợp phát triển ĐMTMN mà không đảm bảo tuân thủ các quy định;
Để triển khai kịp thời, hiệu quả và đồng bộ với Quyết định số 500/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050;
Khai thác, phát huy tiềm năng, lợi thế về tài nguyên thiên nhiên (năng lượng mặt trời), bổ sung nguồn điện cho hệ thống điện quốc gia, nhất là trong bối cảnh thiếu hụt nguồn do nhu cầu tăng cao và các nguồn điện khác phát triển chậm những năm gần đây;
Giảm áp lực đầu tư từ nguồn vốn nhà nước, huy động nguồn lực xã hội, góp phần giảm chi phí sản xuất cho doanh nghiệp, chi phí tiêu dùng của người dân (do tự sản, tự tiêu); Thực hiện mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050 như đã cam kết.
- Mục đích của ban hành:
Việc xây dựng, áp dụng chính sách phát triển điện mặt trời mái nhà với mục đích tự sản xuất, tự tiêu thụ là cần thiết, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước;
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để quy định cụ thể các vấn đề liên quan đến điện mặt trời mái nhà;
Xây dựng chính sách phát triển điện mặt trời mái nhà để triển khai yêu cầu trong Luật Điện lực;
Xây dựng chính sách phát triển ĐMTMN để thể chế hoá Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11 tháng 02 năm 2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
Xây dựng phát triển ĐMTMN góp phần thực hiện Nghị quyết số 81/2023/QH15 ngày 09 tháng 01 năm 2023 về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050;
Thực hiện đề xuất chính sách đúng với đối tượng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ nêu tại Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 14/02/2024 về việc đảm bảo cung ứng điện, cung cấp than, khí cho sản xuất điện trong thời gian tới, cụ thể đối tượng là điện mặt trời mái nhà lắp đặt trên mái nhà công trình nhà dân, cơ quan công sở, khu công nghiệp.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm có 04 chương, 26 điều và Phụ lục kèm theo quy định cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ, cụ thể như sau:
- Phạm vi điều chỉnh (quy định tại Điều 1):
Nghị định này quy định về cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển điện mặt trời tự sản xuất, tự tiêu thụ được lắp đặt trên mái nhà của công trình xây dựng gồm nhà ở, cơ quan công sở, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ sở sản xuất, cơ sở kinh doanh được đầu tư, xây dựng theo đúng quy định của pháp luật.
Việc mua bán điện trực tiếp giữa các tổ chức, cá nhân được thực hiện theo Nghị định về cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện năng lượng tái tạo và khách hàng sử dụng điện lớn.
- Đối tượng áp dụng (quy định tại Điều 2):
+ Các tổ chức, cá nhân quản lý, tham gia phát triển điện mặt trời mái nhà tại Việt Nam theo hình thức tự sản xuất, tự tiêu thụ.
+ Các tổ chức, cá nhân khác có liên quan.
Các quy định chính
- Điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ không đấu nối với hệ thống điện quốc gia (quy định tại Điều 6);
- Điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ có đấu nối với hệ thống điện quốc gia (quy định tại Điều 7);
- Chính sách khuyến khích (quy định tại Điều 8);
- Cơ quan có thẩm quyền cấp và điều kiện cấp giấy chứng nhận đăng ký phát triển (quy định tại Điều 9).
- Nghiệm thu đầu tư xây dựng, lắp đặt (quy định tại Điều 17)
- Thực hiện mua bán điện đối với điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ bán điện dư (quy định tại Điều 18).
- Danh mục phụ lục kèm theo:
+ Mẫu số 01: Giấy đăng ký lắp đặt điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ có đấu nối với hệ thống điện quốc gia.
+ Mẫu số 02: Giấy chứng nhận đăng ký phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ.
+ Mẫu số 03: Báo cáo hoạt động đăng ký và tình hình thực hiện phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ trên địa bàn tỉnh … từ ngày ….. đến ngày….
+ Mẫu số 04: Thông báo phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ có đấu nối với hệ thống điện quốc gia
+ Mẫu số 05: Hợp đồng mua bán điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ.
16. Nghị định số 136/2024/NĐ-CP ngày 23 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định số có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10 tháng 12 năm 2024.
- Nghị định số 136/2024/NĐ-CP bổ sung, thay thế, bỏ một số từ, cụm từ quy định sau của Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ quy định về quỹ xã hội, quỹ từ thiện như sau:
+ Bổ sung từ sau: “huyện” sau cụm từ “Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh” tại khoản 1 Điều 22, điểm đ khoản 3 và điểm b khoản 5 Điều 41.
- Thay thế các cụm từ sau: “30 ngày làm việc” bằng “60 ngày” tại khoản 3 Điều 20, khoản 3 Điều 25, điểm b khoản 2 Điều 39; “15 ngày làm việc” bằng “60 ngày” tại điểm c khoản 4 Điều 39, khoản 2 và khoản 4 Điều 40, điểm a, b khoản 5 Điều 41; “tạm đình chỉ” bằng “đình chỉ có thời hạn” tại khoản 5 Điều 40; “Trưởng Ban kiểm tra” bằng “Trưởng Ban kiểm soát” tại điểm c khoản 3 Điều 41; “người phụ trách kế toán” bằng “Kế toán trưởng” tại điểm d khoản 3 Điều 26, Điều 29, điểm khoản 3 Điều 41; “cấp” bằng “hỗ trợ” tại khoản 3 Điều 35.
+ Bỏ các cụm từ sau: “vay” tại điểm b khoản 3 Điều 26; “không đạt mức giải ngân quy định tại Nghị định này” tại điểm b khoản 4 Điều 41.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Căn cứ Nghị quyết số 04/NQ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ về việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; Quyết định số 1015/QĐ-TTg ngày 30/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án phân cấp trong giải quyết thủ tục hành chính thuộc phạm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong đó đề nghị: phân cấp thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính từ Chủ tịch UBND cấp tỉnh về Chủ tịch UBND cấp huyện đối với quỹ có phạm vi hoạt động trong huyện và trong xã (trừ trường hợp quỹ có tổ chức, cá nhân nước ngoài góp tài sản với công dân, tổ chức Việt Nam để thành lập, hoạt động); Công văn số 56/UBPL15 ngày 19/8/2021 của của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội về việc cần chuyển quy định tại Thông tư số 04/2020/TT-BNV ngày 13/10/2020 có yếu tố cấu thành thủ tục hành chính thành quy định của Nghị định; đồng thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng Nghị định số 93/2019/NĐ-CP, Bộ Nội vụ tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2024/NĐ-CP.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 04 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện, cụ thể như sau:
- Điều 1. gồm 24 khoản, trong đó sửa đổi 22 nội dung; bổ sung 02 nội dung mới (Điều 44a, Điều 48a)[18] của Nghị định số 138/2020/NĐ-CP.
- Điều 2. Bổ sung, thay thế, bỏ một số từ, cụm từ quy định sau của Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ quy định về quỹ xã hội, quỹ từ thiện
- Điều 3. Ban hành và hướng dẫn các loại mẫu văn bản
- Điều 4: Điều khoản thi hành trong đó quy định hiệu lực thi hành; quy định chuyển tiếp và trách nhiệm thi hành
Những nội dung mới của Nghị định
- Về tôn chỉ, mục đích hoạt động chung của quỹ, trong đó quy định về quỹ xã hội: bổ sung thêm nội dung về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, bảo vệ tài nguyên và môi trường
- Bổ sung giải thích từ ngữ về “Người có quan hệ gia đình”: Gồm vợ (chồng); bố, mẹ hoặc bố, mẹ vợ (chồng); con, con rể, con dâu; anh, chị, em ruột của vợ (chồng) theo quy định pháp luật.”.
- Về tên, biểu tượng của quỹ đã tách riêng thành 2 khoản, trong đó quy định cụ thể về điều kiện về tên quỹ, biểu tượng của quỹ. Theo đó, bổ sung quy định về điều kiện tên gọi của quỹ phù hợp với tôn chỉ, mục đích, phạm vi, lĩnh vực hoạt động chính của quỹ; không gắn với tên riêng của anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, lãnh đạo và nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các chức sắc tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng, các sáng lập viên thành lập quỹ, thành viên Hội đồng quản lý quỹ và người có quan hệ gia đình với sáng lập viên, thành viên Hội đồng quản lý quỹ; không gây hiểu nhầm, dẫn đến mâu thuẫn, nguy cơ xung đột quan điểm, lợi ích giữa các tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, cộng đồng các dân tộc tại Việt Nam; không trái với quy định tại các điều ước, thỏa thuận, hiệp định, công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc là thành viên; không ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia của Việt Nam.
- Về quyền hạn và nghĩa vụ của quỹ đã bổ sung quy định chặt chẽ về việc thành lập, quản lý các tổ chức có tư cách pháp nhân trực thuộc quỹ theo quy định pháp luật và điều lệ quỹ để thực hiện các nhiệm vụ, phù hợp với tôn chỉ, mục đích, lĩnh vực hoạt động của quỹ; đồng thời quy định việc tài trợ, hỗ trợ trong phạm vi hoạt động theo điều lệ, trừ trường hợp quỹ tham gia tài trợ, hỗ trợ nhân dân khắc phục khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn, sự cố nghiệm trọng, khẩn cấp theo quy định pháp luật; thời gian báo cáo hàng năm của quỹ vào thời điểm ngày trước 31 tháng 3;
- Về sáng lập viên thành lập quỹ, sáng lập viên thành lập quỹ: bổ sung quy định về việc ban sáng lập quỹ không phải là người có quan hệ gia đình với nhau; đồng thời quy định hồ sơ liên quan đến sáng lập viên gồm: Sơ yếu lý lịch cá nhân (theo mẫu kèm theo Nghị định này) và phiếu lý lịch tư pháp số 01 do cơ quan có thẩm quyền cấp cho các sáng lập viên thành lập quỹ không quá 06 tháng tính đến ngày nộp hồ sơ và các hồ sơ khác có liên quan Nghị định này; trường hợp sáng lập viên thành lập quỹ là cán bộ, công chức, viên chức có văn bản đồng ý của cơ quan có thẩm quyền theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ thì không cần phiếu lý lịch tư pháp số 01.
- Về thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính về quỹ quy định: (1) Bộ trưởng Bộ Nội vụ có thẩm quyền giải thủ tục hành chính đối với quỹ có phạm vi hoạt động toàn quốc hoặc liên tỉnh và quỹ có tổ chức, cá nhân nước ngoài góp tài sản với công dân, tổ chức Việt Nam để thành lập, hoạt động trong phạm vi tỉnh; (2) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải thủ tục hành chính đối với quỹ hoạt động trong phạm vi cấp tỉnh và quỹ có tổ chức, cá nhân nước ngoài góp tài sản với công dân, tổ chức Việt Nam để thành lập, hoạt động trong phạm vi cấp huyện, xã; (3) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính đối với quỹ hoạt động trong phạm vi cấp huyện, xã; trừ trường hợp quỹ có tổ chức, cá nhân nước ngoài góp tài sản thành lập.
Việc tiếp nhận hồ sơ giải quyết các thủ tục về quỹ dưới hình thức trực tiếp hoặc qua hệ thống bưu chính hoặc trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng dịch vụ công của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 18 Nghị định này.
- Tăng thời hạn quỹ gửi văn bản đề nghị gia hạn đóng góp tài sản thành lập quỹ từ 10 ngày lên 15 ngày và tăng thời gian gia hạn đóng góp tài sản thành lập quỹ từ 20 ngày lên thành 45 ngày kể từ ngày có văn bản gia hạn của cơ quan có thẩm quyền.
- Về quy định thủ tục, hồ sơ công nhận điều lệ sửa đổi, bổ sung của quỹ; cấp lại giấy phép thành lập và công nhận điều lệ quỹ: (i) Thủ tục, hồ sơ công nhận điều lệ sửa đổi, bổ sung của quỹ; (ii) Cấp lại giấy phép thành lập và công nhận điều lệ quỹ.
- Về mở rộng phạm vi hoạt động của quỹ đã bổ sung quy định cụ thể về điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục
- Về hội đồng quản lý quỹ: (1) Bổ sung quy định các thành viên trong Hội đồng quản lý quỹ không phải là người có quan hệ gia đình; (2) Quy định về thời gian chậm nhất 90 ngày trước ngày hết nhiệm kỳ, quỹ phải hoàn thành hồ sơ, thủ tục công nhận hội đồng quản lý hợp lệ gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 18 Nghị định này công nhận. Hội đồng quản lý quỹ nhiệm kỳ trước điều hành hoạt động của quỹ cho đến khi có quyết định công nhận hội đồng quản lý nhiệm kỳ tiếp theo; (3) Quy định cụ thể hồ sơ công nhận thành viên Hội đồng quản lý quỹ ban đầu, khi thay đổi hoặc hết nhiệm kỳ, trong đó quy định cụ thể về sơ yếu lý lịch cá nhân (theo mẫu kèm theo Nghị định này) và phiếu lý lịch tư pháp số 01 do cơ quan có thẩm quyền cấp cho các thành viên Hội đồng quản lý quỹ không quá 06 tháng tính đến ngày nộp hồ sơ. Trường hợp cán bộ, công chức, viên chức tham gia Hội đồng quản lý quỹ, người đã nghỉ hưu được cấp có thẩm quyền theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ đồng ý giới thiệu bầu Chủ tịch Hội đồng quản lý quỹ thì không cần phiếu lý lịch tư pháp số 01.
- Về tổ chức có tư cách pháp nhân của quỹ: bổ sung quy định về thời hạn 30 ngày kể từ ngày quỹ thành lập pháp nhân theo quy định thì quỹ gửi hồ sơ báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Về tài sản, tài chính của quỹ: (1) Chỉnh sửa quy định việc tiếp nhận, sử dụng viện trợ không hoàn lại không thuộc hỗ trợ phát triển chính thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài dành cho quỹ thực hiện theo quy định pháp luật về quản lý, sử dụng nguồn vốn viện trợ không hoàn lại; (2) Chỉnh sửa quy định về định mức chi cho hoạt động quản lý quỹ từ nguồn tài sản, tài chính của quỹ nhưng không quá 10% tổng chi trong năm của quỹ để tài trợ, hỗ trợ cho các chương trình, các đề án theo điều lệ quỹ và quy định pháp luật (không bao gồm các khoản: Tài trợ bằng hiện vật, tài trợ của Nhà nước để thực hiện các dịch vụ công, đề tài nghiên cứu khoa học, các chương trình mục tiêu, đề án do Nhà nước đặt hàng và các khoản tài trợ có số tiền, địa chỉ của người nhận).
- Bổ sung về hồ sơ, trình tự thủ tục về chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể quỹ khi thay đổi địa giới hành chính.
- Bổ sung quy định về đình chỉ có thời hạn hoạt động của quỹ; xử lý vi phạm.
- Đã tăng thời gian giải quyết thủ tục hành chính về quỹ từ 45 ngày làm việc thành 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ và ý kiến của các cơ quan liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, quyết định giải quyết các thủ tục hành chính đối với quỹ.
- Chỉnh sửa, bổ sung quy định đối với trách nhiệm của Bộ Nội vụ; Bộ Tài chính; bộ, cơ quan ngang bộ đối với quỹ hoạt động thuộc lĩnh vực do bộ, ngành quản lý; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Ủy ban nhân dân cấp huyện.
17. Nghị định số 137/2024/NĐ-CP ngày 23 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước và hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 23 tháng 10 năm 2024; Nghị định bãi bỏ Điều 25 Nghị định 64/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 04 năm 2007 quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước; có quy định chuyển tiếp tại Điều 23; không có quy định về hiệu lực trở về trước của văn bản.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Nghị định được ban hành nhằm quy định một số điều Luật Giao dịch điện tử năm 2023 giao Chính phủ quy định chi tiết bao gồm: Điều 12, Điều 44, Điều 45, Điều 47 và khoản 2 Điều 48 của Luật.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định có 05 chương, 24 điều quy định về giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước và hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử, cụ thể như sau:
- Phạm vi điều chỉnh: Nghị định này quy định về giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước và hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử bao gồm chuyển đổi hình thức giữa văn bản giấy và thông điệp dữ liệu; hoạt động của cơ quan nhà nước trên môi trường điện tử; hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử; trách nhiệm của chủ quản nền tảng số trung gian phục vụ giao dịch điện tử quy mô lớn, rất lớn và tiêu chí tín nhiệm mạng của hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử.
- Đối tượng áp dụng: Nghị định này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia trực tiếp hoặc có liên quan đến giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước và hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử.
- Các quy định chính: Quy định về chuyển đổi hình thức giữa văn bản giấy và thông điệp dữ liệu; quy định về hoạt động của cơ quan nhà nước trên môi trường điện tử, trong đó ưu tiên thực hiện 04 hoạt động toàn trình trên môi trường điện tử bao gồm: dịch vụ công; quản trị nội bộ; chỉ đạo, điều hành; thanh tra, kiểm tra, giám sát; quy định về trách nhiệm của chủ quản nền tảng số trung gian phục vụ giao dịch điện tử quy mô lớn, rất lớn.
18. Nghị định số 138/2024/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng chi thường xuyên ngân sách nhà nước để mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (ngày 24 tháng 10 năm 2024).
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Căn cứ đề nghị của các Bộ, ngành địa phương và phản ánh của các đại biểu Quốc hội về những vướng mắc trong việc áp dụng quy đinh pháp luật về Luật Ngân sách nhà nước và Luật Đầu tư công trong việc bố trí, quản lý, sử dụng kinh phí chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước thực hiện các nhiệm vụ mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp mở rộng công trình xây dựng; triển khai thực hiện kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Thông báo số 3307/TB-TTKQH ngày 18/01/2024 và Thông báo số 4177/TB-TTKQH ngày 22/8/2024 của Tổng thư ký Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 138/2024/NĐ-CP nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong thời gian vừa qua.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 04 chương, 12 điều quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng chi thường xuyên ngân sách nhà nước để mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng, cụ thể như sau:
- Nghị định có phạm vi điều chỉnh là việc lập dự toán, phân bổ dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí chi thường xuyên ngân sách nhà nước quy định tại khoản 6 Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, gồm: Mua sắm tài sản, trang thiết bị theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công; Cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng, pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công (Nghị định số 138/2024/NĐ-CP không điều chỉnh với một số nội dung quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 1 Nghị định này)
- Đối tượng áp dụng của Nghị định là các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị - xã hội; các đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến sử dụng kinh phí chi thường xuyên ngân sách nhà nước để mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng.
- Về nội dung chủ yếu: Nghị định số 138/2024/NĐ-CP đã quy định về nguyên tắc bố trí dự toán ngân sách nhà nước chi thường xuyên để thực hiện nhiệm vụ mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng; thẩm quyền phê duyệt nhiệm vụ và dự toán kinh phí; trình tự thủ tục xây dựng dự toán, tổng hợp, phân bổ dự toán; quản lý sử dụng, quyết toán kinh phí và trách nhiệm, chế tài và chế tài cụ thể đối với các bộ, cơ quan, địa phương.
19. Nghị định số 139/2024/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định thể thức bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 09 tháng 12 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Cơ sở chính trị
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là chủ trương chiến lược, xuyên suốt của Đảng ta nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, không ngừng củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Trước yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, thời gian qua Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng thế hiện chủ trương, quan điêm về phát triến kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Tại Nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc đều chỉ rõ yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
Triển khai các nghị quyết của Đảng, các cấp, các ngành đã thường xuyên xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật về xây dựng và bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Cơ sở pháp lý
Vùng trời Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm khoảng không bao trùm phía trên đất liền, trên nội thủy, lãnh hải và trên hải đảo, quần đảo của Việt Nam do pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định.
Về quy chế pháp lý của vùng trời quốc gia, một nguyên tắc được công nhận rộng rãi trong luật pháp quốc tế là quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối đối với vùng trời quốc gia (Điều 1 Công ước Chicago năm 1944 về Hàng không dân dụng quốc tế).
Pháp luật Việt Nam ghi nhận và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng trời quốc gia quy định trong Hiến pháp năm 2013 và các luật: Luật Quốc phòng năm 2018, Luật Biên giới quốc gia năm 2003, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2014 và Luật Biển Việt Nam năm 2012.
Khoản 2 Điều 94 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2014, quy định: “Bộ Quốc phòng chủ trì, phối họp với Bộ Giao thông vận tải quy định thể thức bay chặn, bắt buộc tàu bay hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay, các biện pháp cưỡng chế khác đối với tàu bay”.
Theo quy định trên, Bộ Quốc phòng và Bộ Giao thông vận tải phối hợp ban hành thông tư liên tịch quy định các nội dung Luật Hàng không dân dụng Việt Nam giao như trên. Tuy nhiên, theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hiện nay không còn hình thức thông tư liên tịch giữa các Bộ, trừ trường hợp ban hành thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ để quy định về việc phối hợp thực hiện trình tự, thủ tục tố tụng và phòng chống tham nhũng.
Theo khoản 2 Điều 19 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định: “Chính phủ ban hành Nghị định để quy định những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn từ 2 bộ, cơ quan ngang bộ trở lên...” do đó, hình thức văn bản quy định về thể thức bay chặn, bắt buộc tàu bay hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay, các biện pháp cương chế khác đối với tàu bay phải thực hiện bằng Nghị định của Chính phủ.
Cơ sở thực tiễn
Những năm qua, các đơn vị quân đội đã triển khai, thực hiện tốt chức năng của Bộ Quốc phòng về công tác quản lý vùng trời, quản lý các hoạt động bay, xử lý kịp thời các tình huống, bảo đảm an toàn cho hoạt động hàng không dân dụng và quân sự; các đơn vị không quân thường xuyên tổ chức bay huấn luyện nội dung bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm; tuy nhiên, do chưa được quy định bằng các văn bản quy phạm pháp luật, chưa có cơ sở pháp lý để các lực lượng thuộc các Bộ, ngành khác nhau hiệp đồng tổ chức huấn luyện, diễn tập; khi có tình huống liên quan đến vụ việc vi phạm trong vùng trời xảy ra còn gặp khó khăn, vướng mắc về cơ sở pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn trong phối hợp thực hiện.
Từ thực tiễn về tình hình các vụ việc vi phạm về chế độ bay, quy tắc bay, khu vực cấm bay và khu vực hạn chế bay xảy ra trong thời gian qua; trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, dự báo trong thời gian tới các hoạt động bay sẽ gia tăng nhanh chóng cả về số lượng, kiểu loại, tính chất và cường độ, đặt ra những khó khăn, thách thức không nhỏ cho công tác quản lý, bảo vệ vùng trời. Hội nhập quốc tế là cơ hội phát triển đất nước song cũng là thách thức trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách lợi dụng sơ hở để thực hiện các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta trên nhiều lĩnh vực của đời sống; trong đó, chúng có thể lợi dụng hoạt động hàng không dân dụng để thực hiện các hành vi thù địch, can thiệp bất hợp pháp đặt ra các yêu cầu ngày càng cao trong việc triển khai các biện pháp quản lý và xử lý có hiệu quả vụ việc vi phạm vùng trời, vi phạm chế độ bay, đáp ứng yêu cầu bảo đảm an toàn, an ninh vùng trời.
Tính chất hoạt động bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay tương đối phức tạp; việc phát hiện các vi phạm, xác minh hành vi vi phạm yêu cầu phải được sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng liên quan thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông vận tải, các Bộ, ngành và địa phương liên quan để kịp thời đưa ra quyết định xử lý chính xác.
Để hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, bảo vệ vùng trời, sẵn sàng xử lý kịp thời các tình huống trên không, cần có văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể việc sử dụng lực lượng không quân để bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm hạ cánh, việc Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan xây đựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định thể thức bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam hạ cánh tại các câng hàng không, sân bay là cần thiết và có cơ sở.
- Mục đích ban hành:
+ Hoàn thiện thể chế, cơ sở pháp lý về bảo vệ vùng ừời nhằm xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các lực lượng thuộc Bộ Quốc phòng trong quản lý, bảo vệ vùng trời Việt Nam.
+ Làm cơ sở pháp lý để các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông vận tải áp dụng trong thực tiễn về quản lý, bảo vệ vững chắc và sử dụng vùng trời Vỉệt Nam đảm bảo thống nhất, chặt chẽ, đúng pháp luật.
+ Góp phần ngăn ngừa, đấu tranh xử lý các hành vi vi phạm vùng trời Việt Nam.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 04 chương, 22 điều quy định thể thức bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay, cụ thể như sau:
- Chương I: Quy định chung, gồm 03 điều (từ Điều 1 đến Điều 3); quy định về: Phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ.
- Chương II: Xử lý tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam, gồm 11 điều (từ Điều 4 đến Điều 14); quy định về: Tàu bay vi phạm vùng trời bị bay chặn, bay kèm, bay ép hạ cánh tại các cảng hàng không, sân bay; thể thức bay chặn, .bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay và sử dụng thông tin, ký, tín hiệu; xử lý tàu bay vi phạm vùng trời không chấp hành hiệu lệnh của tàu bay bay chặn, bay kèm, bay ép hạ cánh; lực lượng thực hiện bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm hạ cánh; thẩm quyền ra lệnh bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm hạ cánh; quy trình xử lý tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam; lực lượng xử lý, công tác phối họp, hiệp đồng giữa các lực lượng tham gia xử lý tàu bay vi phạm vùng trời bị bay chặn, bay kèm, bay ép hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay.
- Chương III: Trách nhiệm của các Bộ, ngành Trung ương và tổ chức, cá nhân liên quan, gồm 06 điều (từ Điều 15 đến Điều 20); quy định về: Trách nhiệm của Bộ Quồc phòng; Bộ Giao thông vận tải; trách nhiệm của các Bộ liên quan (Bộ Công an, Tài Chính, Ngoại giao) và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có cảng hàng không, sân bay.
- Chương IV: Điều khoản thi hành, gồm 02 điều (Điều 21 và Điều 22); quy định về hiệu lực thi hành và trách nhiệm thi hành.
Nội dung cơ bản của Nghị định
- Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Nghị định quy định thể thức bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay; lực lượng bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm hạ cánh; tàu bay không người lái và phương tiện bay siêu nhẹ không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này.
Nghị định áp dụng đối với các loại tàu bay có người lái bay trên vùng tròi Việt Nam có hành vi vi phạm quy định về hoạt động bay; áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động bay trong vùng trời Việt Nam và các cơ quan, đơn vị quản lý khai thác cảng hàng không, sân bay tại Việt Nam.
- Nội dung thể thức bay chặn, bay kèm và bay ép tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay
Đây là nội dung chính của Nghị định, quy định cụ thể về phương pháp, cách thức bay chặn, bay kèm và bay ép tàu bay vi phạm từ khi phát lệnh cho lực lượng bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm hạ cánh cánh; phương pháp tiếp cận tàu bay vi phạm; thiết lập tốc độ, giữ khoảng cách phù hợp bảo đảm an toàn và phi công của tàu bay vi phạm đủ nhìn thấy để tiếp nhận thông tin từ tàu bay bay chặn, bay kèm, bay ép; sau khi thiết lập tốc độ và khoảng cách, tiến hành phát ký, tín hiệu nhằm làm cho phi công vi phạm tiếp nhận thông tin và điều chỉnh hành vi vi phạm.
Trường hợp tàu bay bị bay chặn, bay kèm là khi tàu bay bay vào vùng trời Việt Nam chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép bay; đang bay trong vùng trời Việt Nam nhưng bay vào khu vực cấm bay, khu vực hạn chế bay hoặc không tuân thủ quy tắc bay; vi phạm chế độ bay nhưng không chấp hành hướng dẫn của cơ quan điều hành bay.
Trường hợp tàu bay bị bay ép hạ cánh tại các cảng hàng không, sân bay là khi tàu bay đang bay trong vùng trời Việt Nam bị can thiệp bất hợp pháp; tàu bay đang bị bay chặn, bay kèm trong vùng trời Việt Nam nhưng không chấp hành hiệu lệnh của tàu bay bay chặn, bay kèm thì sẽ bị lực lượng Không quân của Việt Nam tiến hành bay ép hạ cánh tại các cảng hàng không, sân bay để xử lý theo các quy định của pháp luật.
- Xử lý tàu bay vi phạm vùng trời hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay
Quy định về lực lượng thực hiện bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm; thẩm quyền ra lệnh bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay.
Quy trình xử lý tàu bay vi phạm trong vùng trời Việt Nam; lực lượng xử lý tàu bay vi phạm, người vi phạm khi tàu bay vỉ phạm vùng trời bị bay ép hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay.
Công tác phối hợp, hiệp đồng giữa các lực lượng tham gia xử lý tàu bay vi phạm bị bay chặn, bay kèm, bay ép hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay và phối hợp xử lý tàu bay vi phạm, người vi phạm khi tàu bay bị bay ép hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay. Quy định nguyên tắc phối hợp, hiệp đồng; nội dung phối hợp, hiệp đồng trong quá trình xử lý tàu bay vi phạm đang ở trên không và sau khi hạ cánh tạỉ cảng hàng không, sân bay.
- Trách nhiệm của các Bộ, ngành và địa phương liên quan
Chương này quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ Quốc phòng là cơ quan chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông vận tải và các ban, bộ, ngành Trung ương, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có cảng hàng không, sân bay triển khai lực lượng tổ chức bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay.
Bộ Giao thông vận tải là cơ quan phối hợp xây dựng, đào tạo, huấn luyện và trang bị các phương tiện, thiết bị kỹ thuật cho lực lượng chức năng thuộc quyền; chủ trì, phối hợp với các ban, bộ, ngành liên quan trong hợp tác quốc tế để xử lý tình huống đối với tàu bay quốc tịch nước ngoài vi phạm vùng trời Việt Nam. Chỉ đạo đề xuất các nội dung, tổ chức các cuộc diễn tập cấp quốc gia theo chỉ đạo của Chủ tịch ủy ban An ninh hàng không dân dụng quốc gia về xử lý tình huống khi tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam bị bay chặn, bay kèm, bay ép hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay.
Bộ Công an là cơ quan chủ trì điều hành, tổ chức các biện pháp bảo đảm an ninh hàng không khi tàu bay vi phạm hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay. Chỉ đạo thực hiện các biện pháp xử lý đối với tàu bay vi phạm và người trên tàu bay sau khi tàu bay vi phạm hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay.
Bộ Tài chính chỉ đạo các đơn vị Hải quan tại các cảng hàng không quốc tế chủ trì kiểm tra, xác minh theo quy định của pháp luật đốỉ với các vật phẩm nguy hiểm.
Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Giao thông vận tải thực hiện hợp tác quốc tế trong xử lý đối với tàu bay mang quốc tịch nước ngoài vi phạm vùng trời Việt Nam bị bay chặn, bay kèm, bay ép hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay.
Ủy ban nhân đân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ưang nơi có cảng hàng không, sân bay (Ban Chỉ đạo phòng, chống khủng bố cấp tỉnh) phối hợp xử lý tàu bay vi phạm bị ép hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay.
20. Nghị định số 140/2024/NĐ-CP ngày 25 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về thanh lý rừng trồng
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 25 tháng 10 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Cơ sở chính trị, pháp lý
+ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu”; “Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế... Cơ cấu lại thị trường bất động sản, đất đai, tài nguyên để đất đai, tài nguyên được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả cao”; “Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên”; “Chủ động… quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên”; Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tại Mục II.4 xác định quan điểm “…Quản lý, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên đất, tài nguyên nước, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển bền vững các hệ sinh thái”; Mục IV.7 xác định nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu “… Quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, chuyển mạnh sang mô hình tăng trưởng xanh…”…
Đồng thời, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng đề ra các nhiệm vụ, giải pháp tăng cường quản lý, bảo vệ, phát triển rừng, phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái: “Định hướng các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 – 2025:… Về môi trường: Đến năm 2025… giữ tỉ lệ che phủ rừng ổn định 42%...”; Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định mục tiêu cụ thể đến năm 2030: “Tỉ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%”…
+ Luật Lâm nghiệp năm 2017 tại khoản 1 Điều 7 về sở hữu rừng quy định: “1. Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đối với rừng thuộc sở hữu toàn dân bao gồm: a) Rừng tự nhiên; b) Rừng trồng do Nhà nước đầu tư toàn bộ; c) Rừng trồng do Nhà nước thu hồi, được tặng cho hoặc trường hợp chuyển quyền sở hữu rừng trồng khác theo quy định của pháp luật.”.
+ Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 quy định: Khoản 1 Điều 3 quy định: “Tài sản công là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, bao gồm: tài sản công phục vụ hoạt động quản lý, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại cơ quan, tổ chức, đơn vị; tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; …và các loại tài nguyên khác”; Điều 4 (Phân loại tài sản công): Rừng tự nhiên (tài nguyên rừng) được quy định tại khoản 7; rừng trồng là tài sản được quy định tại khoản 3, khoản 4 và khoản 5.
Như vậy, việc thanh lý rừng trồng có những đặc thù riêng, không chỉ thực hiện theo quy định của pháp luật quản lý, sử dụng tài sản công mà còn phải thực hiện theo quy định của pháp luật lâm nghiệp. Vì vậy, việc xây dựng Nghị định quy định về thanh lý rừng trồng là cần thiết, đảm bảo phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung và phù hợp với pháp luật quản lý, sử dụng tài sản công và pháp luật chuyên ngành về lâm nghiệp.
Cơ sở thực tiễn
Thực hiện Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng (được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Quyết định số 34/2011/QĐ-TTg ngày 24/6/2011), Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 18/2013/TT-BTC ngày 20/02/2013 hướng dẫn trình tự, thủ tục thanh lý rừng trồng và quản lý, sử dụng số tiền thu được từ thanh lý rừng trồng không thành rừng, rừng trồng không có khả năng thành rừng (Thông tư 18/2013/TT-BTC).
Theo báo cáo của 24 địa phương, giai đoạn từ tháng 4 năm 2013 đến tháng 02 năm 2021, đã thanh lý rừng trồng với tổng diện tích là 8.808,793ha (trong đó: diện tích chưa thành rừng 697,61 ha; diện tích thành rừng 5.193,73 ha; diện tích chưa xác định được loại rừng 2.917,453 ha). Thông tư số 18/2013/TT-BTC đã tạo hành lang pháp lý cho các chủ rừng xử lý kịp thời các diện tích rừng trồng không có khả năng thành rừng, góp phần sử dụng có hiệu quả diện tích đất rừng được giao, hạn chế thất thoát tài sản của Nhà nước; đồng thời, giúp các chủ rừng quản lý tài sản, sử dụng số tiền thu được từ thanh lý rừng trồng theo đúng các quy định của Nhà nước.
Tuy nhiên, việc thực hiện thanh lý rừng trồng theo Thông tư số 18/2013/TT- BTC cũng có tồn tại, hạn chế, cụ thể như sau:
+ Việc xác định nguyên nhân, thiệt hại gặp nhiều khó khăn vì chưa rõ thành phần tham gia thẩm định, các địa phương thực hiện không thống nhất.
+ Việc kiểm tra xác minh hiện trường trong nhiều trường hợp chưa kịp thời vì cơ quan chuyên môn chưa được chủ động, phải mất nhiều thời gian để xin ý kiến về việc thành lập đoàn kiểm tra xác minh.
+ Việc thực hiện trình tự thủ tục thanh lý rừng trồng cũng còn những vướng mắc, chưa quy định cụ thể về trách nhiệm xử lý của các đơn vị liên quan.
+ Việc quy định về xử lý tài chính đối với rừng trồng chưa cụ thể nên việc đầu tư trồng rừng cũng gặp nhiều khó khăn sau khi thanh lý rừng.
Nguyên nhân của những khó khăn trên là do Thông tư số 18/2013/TT-BTC:
+ Chưa quy định việc thành lập Hội đồng thẩm định để giúp cơ quan chuyên môn thực hiện việc đánh giá, tư vấn các nội dung thực hiện thanh lý rừng trồng;
+ Quy định chỉ thành lập đoàn kiểm tra xác minh trong trường hợp cần thiết và do cơ quan quyết định thanh lý quyết định;
+ Trình tự, thủ tục thanh lý rừng trồng chưa rõ ràng, cụ thể;
+ Việc quy định về xử lý tài chính đối với rừng trồng trong giai đoạn đầu tư và sau giai đoạn đầu tư chưa cụ thể, rõ ràng.
Ngày 28/12/2020, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 110/2020/TT-BTC bãi bỏ Thông tư số 18/2013/TT-BTC; theo đó, Thông tư số 18/2013/TT-BTC hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/02/2021. Từ tháng 02 năm 2021 đến nay, do chưa có văn bản pháp luật quy định về thanh lý rừng trồng được đầu tư bằng nguồn vốn của Nhà nước, các địa phương gặp nhiều khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện thanh lý rừng trồng. Tính đến tháng 12 năm 2023, BộNông nghiệp và Phát triển nông thôn đã nhận được văn bản của 15 tỉnh 6 đề nghị hướng dẫn về thanh lý rừng. Theo báo cáo của các địa phương, tính đến nay có 2.201,72 ha rừng trồng cần thanh lý nhưng chưa thực hiện được.
Từ năm 2018, thực hiện Luật Lâm nghiệp và các văn bản hướng dẫn, chính sách trồng rừng thay thế đã phát huy hiệu quả, góp phần vào việc tăng độ che phủ rừng toàn quốc. Tuy nhiên, việc trồng rừng theo chính sách này cũng phát sinh những trường hợp cần thanh lý tương tự như đối với rừng trồng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Trong thời gian qua, hệ thống pháp luật có nhiều thay đổi, nhất là trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công (Luật Quản lý, sử dụng tài sản công được ban hành năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành) và lĩnh vực lâm nghiệp (Luật Lâm nghiệp năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành) đòi hỏi các quy định về thanh lý rừng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, việc xây dựng Nghị định quy định về thanh lý rừng trồng là rất cần thiết để khắc phục “khoảng trống pháp lý”; đảm bảo phù hợp với pháp luật quản lý, sử dụng tài sản công và pháp luật chuyên ngành về lâm nghiệp; giải quyết những vấn đề vướng mắc trên thực tế nhằm thúc đẩy việc phát triển rừng, góp phần thực hiện các chỉ tiêu đã đề ra.
- Mục đích ban hành:
+ Cụ thể hóa những quy định của pháp luật quản lý, sử dụng tài sản công nhằm quản lý chặt chẽ rừng trồng được đầu tư từ ngân sách nhà nước và rừng trồng từ nguồn vốn hợp pháp khác, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng bền vững diện tích rừng và diện tích đất quy hoạch cho phát triển lâm nghiệp;
+ Tạo cơ sở pháp lý để thực hiện Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050, góp phần ổn định tỷ lệ che phủ rừng, giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường và đảm bảo quốc phòng, an ninh.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định bao gồm 15 điều quy định về thanh lý rừng trồng, cụ thể như sau:
+ Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Nghị định này quy định trình tự, thủ tục thanh lý và quản lý, sử dụng số tiền thu được từ thanh lý rừng trồng thuộc sở hữu toàn dân.
2. Trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định cụ thể, việc thanh lý rừng trồng được thực hiện theo điều ước quốc tế đã ký kết.
+ Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Nghị định này áp dụng đối với cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư có liên quan đến các hoạt động thanh lý rừng trồng theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị định này.
2. Khuyến khích áp dụng các quy định về thanh lý rừng trồng tại Nghị định này đối với rừng trồng thuộc sở hữu của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư theo khoản 2 Điều 7 Luật Lâm nghiệp.
+ Điều 3. Giải thích từ ngữ
+ Điều 4. Nguyên nhân thanh lý rừng trồng
+ Điều 5. Nguyên tắc thanh lý rừng trồng
+ Điều 6. Thẩm quyền quyết định thanh lý rừng trồng
+ Điều 7. Các trường hợp rừng trồng được thanh lý
+ Điều 8. Hình thức thanh lý rừng trồng
+ Điều 9. Hồ sơ thanh lý rừng trồng
+ Điều 10. Trình tự, thủ tục thanh lý rừng trồng
+ Điều 11. Tổ chức thực hiện thanh lý rừng trồng
+ Điều 12. Quản lý, sử dụng tiền thu được từ thanh lý rừng trồng
+ Điều 13. Trách nhiệm của bộ, cơ quan trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
+ Điều 14. Hiệu lực thi hành
+ Điều 15. Trách nhiệm thi hành
21. Nghị định số 141/2024/NĐ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS)
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 12 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Thuận lợi
Các Nghị định số 108/2007/NĐ-CP; Nghị định số 75/2016/NĐ-CP; Nghị định số 90/2016/NĐ-CP và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP sau khi được ban hành đã tạo hành lang pháp lý và tạo điền kiện thuận lợi cho công tác phòng, chống HIV/AIDS, trong việc:
+ Thứ nhất, giảm tỷ lệ lây truyền HIV, tăng độ bao phủ của chương trình cung cấp bao cao su (BCS), bơm kim tiêm (BKT), đa dạng mô hình cung cấp BCS và BKT bảo đảm tính sẵn có và tăng khả năng tiếp cận của các nhóm người có hành vi nguy cơ cao.
+ Thứ hai, đảm bảo việc cung ứng thuốc kháng HIV (ARV) có chất lượng, đầy đủ, thường xuyên, liên tục, kịp thời, đáp ứng đủ nhu cầu điều trị của người bệnh. Thiết lập thống nhất một hệ thống cung ứng thuốc ARV quốc gia. Chuyển đổi cung ứng thuốc sang cơ chế thanh toán qua nguồn Bảo hiểm y tế đảm bảo tính bền vững cho chương trình. Góp phần đạt 86% người nhiễm HIV được điều trị ARV với hơn 90% bệnh nhân chi trả qua hệ thống bảo hiểm y tế; duy trì 96% người điều trị ARV có tải lượng HIV được kiểm soát; duy trì dưới 5% tỷ lệ kháng ARV; số lượng bệnh nhân HIV tử vong hàng năm giảm dưới mức 2.000 bệnh nhân.
+ Thứ ba, đa dạng hóa hình thức cung cấp dịch vụ xét nghiệm HIV tại cộng đồng và tại cơ sở y tế. Đã thiết lập được hệ thống cơ sở xét nghiệm HIV theo 3 cấp: cộng đồng, sàng lọc, khẳng định HIV; hệ thống cơ sở xét nghiệm rộng khắp 63 tỉnh, thành phố với hơn 1.300 cơ sở xét nghiệm sàng lọc, hơn 239 cơ sở xét nghiệm khẳng định HIV.
+ Thứ tư, việc triển khai đề án thí điểm cấp phát thuốc điều trị thay thế nhiều ngày cho các đối tượng đang điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế ở giai đoạn ổn định liều (Quyết định 2898/QĐ-BYT ngày 17/7/2023 của Bộ Y tế phê duyệt Đề án duy trì và mở rộng cấp thuốc Methadone nhiều ngày cho người bệnh điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện giai đoạn 2023-2024) tạo điều kiện cho người bệnh tiếp cận và tuân thủ điều trị tốt, giúp người bệnh không bị ảnh hưởng đến thời gian làm việc, đi lại, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi đi lại khó khăn (hiện này có khoảng 50% số người bệnh đang được điều trị tại các tỉnh miền núi).
+ Thứ năm, bảo đảm kinh phí nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS, bao gồm: cung ứng thuốc Methadone và chi phí khám chữa bệnh cho 06 nhóm đối tượng ưu tiên với khoảng 40 tỷ đồng/năm; phụ cấp ưu đãi nghề dành cho người làm công tác điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế 76 tỷ đồng/năm; đồng chi trả thuốc kháng HIV 40 tỷ đồng/năm; hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nhiễm HIV 43 tỷ đồng/năm.
Khó khăn, tồn tại
Trong quá trình thực hiện 03 Nghị định nêu trên đã bộc lộ một số tồn tại, bất cập, cụ thể như sau:
+ Thứ nhất, nội dung quy định chi tiết khoản 6 và khoản 9 Điều 1 Luật HIV 2020 về việc cho phép người nhiễm HIV, người có hành vi nguy cơ cao được thực hiện cung cấp dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS và Xét nghiệm sàng lọc HIV, xét nghiệm khẳng định HIV dương tính chưa được hướng dẫn đầy đủ: (1) Tuyên truyền và tham gia thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV theo quy định của Chính phủ; (2) Cung cấp dịch vụ tư vấn, xét nghiệm sàng lọc HIV, sinh phẩm tự xét nghiệm HIV cho người có hành vi nguy cơ cao khi đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của Chính phủ; (3) Điều kiện, hồ sơ, thủ tục công nhận cơ sở đủ điều kiện xét nghiệm khẳng định HIV dương tính theo quy định của Chính phủ.
+ Thứ hai, việc quy định các biện pháp và đối tượng áp dụng các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV chưa đầy đủ, chưa đảm bảo việc mở rộng các giải pháp dự phòng lây nhiễm HIV và cụ thể hóa các nhóm đối tượng cần can thiệp nhằm thích ứng với sự thay đổi về tình hình dịch tễ HIV và các nhóm có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV mới nổi theo như quy định của khoản 7 Điều 1 Luật phòng, chống HIV/AIDS năm 2020 (sửa đổi, bổ sung Điều 21 Luật Phòng, chống HIV/AID năm 2006).
+ Thứ ba, việc quản lý, phân phối, sử dụng thuốc kháng HIV phát sinh nhiều điểm chưa phù hợp với Luật Ngân sách nhà nước, Luật Dược, Luật Bảo hiểm y tế cần phải thay đổi. Thực tiễn phát sinh 03 nhóm đối tượng được cấp thuốc ARV miễn phí gồm có: người bị phơi nhiễm, người bị nhiễm HIV do tham gia cứu nạn; trẻ em có chỉ định điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con; người nhiễm HIV trong cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở trợ giúp xã hội, trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ khác . Việc thay đổi này nhằm đảm bảo độ bao phủ cho các nhóm đối tượng trên được tiếp cận với thuốc ARV, thể hiện được tính ưu việt của xã hội, nhà nước và phù hợp với khoản 13 Điều 1 Luật Phòng, chống HIV/AIDS năm 2020 (sửa đổi, bổ sung Điều 39 Luật Phòng, chống HIV/AIDS năm 2006).
+ Thứ tư, một số quy định đối với người nghiện các chất dạng thuốc phiện tại Nghị định số 90/2016/NĐ-CP chưa đồng bộ thống nhất với quy định đã thay đổi tại Luật Phòng, chống ma túy năm 2021 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính.
+ Thứ năm, về hồ sơ, thủ tục đăng ký tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế và hồ sơ, thủ tục cấp thẻ nhân viên tiếp cận cộng đồng còn bất cập, không còn phù hợp với thực tế và chưa đáp ứng được yêu cầu về cắt giảm thủ tục hành chính. Việc quy định hồ sơ, thủ tục cấp thẻ nhân viên tiếp cận cộng đồng tại Thông tư liên tịch là không còn phù hợp với quy định ban hành văn bản quy phạm pháp luật về kiểm soát thủ tục hành chính.
+ Thứ sáu, một số quy định về điều kiện cơ sở vật chất, nhân sự để tổ chức hoạt động của cơ sở điều trị thay thế, cơ sở xét nghiệm khẳng định HIV dương tính cần phải thay đổi cho phù hợp với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh và an toàn sinh học. Đồng thời, còn thiếu quy định về điều kiện, thẩm quyền, hồ sơ, trình tự, thủ tục chỉ định, điều chỉnh giấy chứng nhận cơ sở xét nghiệm khẳng định HIV dương tính tham chiếu tại Nghị định số 75/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016.
+ Thứ bảy, một số thủ tục công bố cơ sở đủ điều kiện điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế quy định tại Nghị định số 90/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 không còn phù hợp với thực tiễn.
+ Thứ tám, việc thanh toán tập trung cấp quốc gia đối với thuốc kháng HIV từ nguồn quỹ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế quy định tại khoản 1 Điều 3 và hình thức mua sắm thuốc kháng HIV quy định tại Điều 2 Quyết định số 2188/QĐ-TTg không còn phù hợp với bối cảnh thực tế do hình thức thanh toán tập trung làm hạn chế khả năng chủ động tự mua thuốc và thanh toán của cơ sở y tế cho nhà thầu trúng thầu theo quy định pháp luật của bảo hiểm y tế. Các quy định này thuộc thẩm quyền của Chính phủ, vì vậy cần quy định tại dự thảo Nghị định.
Như vậy, việc xây dựng Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi-rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) là hết sức cần thiết và có cơ sở pháp lý.
- Mục đích ban hành:
Khắc phục các tồn tại, hạn chế, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật trong các quy định liên quan đến quy định chi tiết của Luật Phòng, chống HIV/AIDS về dự phòng lây nhiễm HIV, can thiệp giảm tác hại, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, điều trị HIV/AIDS, tư vấn và xét nghiệm HIV, huy động sự tham gia của nhóm đối tượng đích và cộng đồng trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 7 chương, 57 điều quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS), cụ thể như sau:
- Chương I. Quy định chung gồm 02 Điều quy định về: Phạm vi điều chỉnh và giải thích từ ngữ.
Nghị định này quy định chi tiết khoản 2 Điều 23, khoản 3 Điều 28, khoản 4 Điều 39 và khoản 5 Điều 41 của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS); các khoản 6, 7 và 9 Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (sau đây gọi là Luật Phòng, chống HIV/AIDS) về:
(i) Các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV trừ các biện pháp đã được quy định tại Nghị định số 63/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (sau đây gọi là Nghị định số 63/2021/NĐ-CP).
(ii) Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
(ii) Tư vấn và xét nghiệm HIV.
(iv) Lồng ghép hoạt động phòng, chống HIV/AIDS với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
(v) Danh mục một số nghề phải xét nghiệm HIV trước khi tuyển dụng.
(vi) Quản lý, phân phối, sử dụng thuốc kháng HIV và thuốc thay thế.
- Chương II. Các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV gồm 12 Điều quy định về:
+ Tổ chức thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV.
+ Tiêu chuẩn, thẩm quyền và thủ tục cấp thẻ nhân viên tiếp cận cộng đồng.
+ Các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS của người nhiễm HIV, người có hành vi nguy cơ cao.
- Chương III. Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế gồm 22 Điều quy định về:
+ Đăng ký tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
+ Điều kiện của cơ sở điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
+ Công bố đủ điều kiện điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
+ Cấp phát thuốc điều trị thay thế nhiều ngày.
- Chương IV. Tư vấn và xét nghiệm HIVgồm 10 Điều quy định về:
+ Điều kiện thực hiện tư vấn và xét nghiệm HIV.
+ Thẩm quyền, hồ sơ, thủ tục cấp, điều chỉnh, thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện xét nghiệm khẳng định các trường hợp HIV dương tính hoặc chỉ định, điều chỉnh, thu hồi quyết định cơ sở thực hiện xét nghiệm khẳng định HIV dương tính tham chiếu và đình chỉ hoạt động xét nghiệm khẳng định các trường hợp HIV dương tính hoặc xét nghiệm khẳng định HIV dương tính tham chiếu.
- Chương V. Lồng ghép hoạt động phòng, chống HIV/AIDS với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và danh mục một số nghề phải xét nghiệm HIV trước khi tuyển dụng gồm 02 Điều quy định về:
+ Lồng ghép hoạt động phòng, chống HIV/AIDS với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
+ Danh mục một số nghề phải xét nghiệm HIV trước khi tuyển dụng.
- Chương VI. Quản lý, phân phối, sử dụng thuốc kháng HIV và quản lý thuốc thay thế gồm 05 Điều quy định về:
+ Quản lý thuốc kháng HIV.
+ Phân phối thuốc kháng HIV miễn phí.
+ Kê đơn, sử dụng thuốc kháng HIV.
+ Mua sắm, thanh toán và chế độ hỗ trợ người sử dụng thuốc kháng HIV nguồn quỹ bảo hiểm y tế.
+ Quản lý thuốc thay thế.
- Chương VII. Trách nhiệm thi hành gồm 03 Điều quy định về: Hiệu lực thi hành, điều khoản chuyển tiếp và trách nhiệm thi hành, cụ thể như sau:
+ Điều 55. Hiệu lực thi hành
1. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 12 năm 2024.
2. Các văn bản sau đây hết hiệu lực thi hành, kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành:
a) Nghị định số 108/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (sau đây gọi là Nghị định số 108/2007/NĐ-CP);
b) Nghị định số 75/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 quy định điều kiện thực hiện xét nghiệm HIV (sau đây gọi là Nghị định số 75/2016/NĐ-CP);
c) Nghị định số 90/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 quy định về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
3. Bãi bỏ khoản 1 và 2 Điều 16 Chương VIII Lĩnh vực phòng, chống HIV/AIDS Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2018 sửa đổi bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế (sau đây gọi là Nghị định số 155/2018/NĐ-CP).
4. Bãi bỏ điểm b khoản 1, điểm b khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 13 Nghị định số 63/2021/NĐ-CP.
+ Điều 56. Điều khoản chuyển tiếp
1. Hồ sơ đề nghị công bố đủ điều kiện điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế của cơ sở điều trị thay thế, cơ sở cấp phát thuốc nộp cho cơ quan có thẩm quyền trước khi Nghị định này có hiệu lực thi hành thực hiện theo quy định tại Nghị định số 90/2016/NĐ-CP và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP.
2. Hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện của cơ sở xét nghiệm khẳng định HIV dương tính hoặc chỉ định cơ sở xét nghiệm khẳng định HIV dương tính tham chiếu nộp cho cơ quan có thẩm quyền trước khi Nghị định này có hiệu lực thi hành thực hiện theo quy định tại Nghị định số 75/2016/NĐ-CP và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP.
3. Hồ sơ đề nghị cấp Thẻ nhân viên tiếp cận cộng đồng tham gia thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV đã nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BYT-BCA ngày 20 tháng 01 năm 2010 của liên Bộ Y tế, Công an quy định việc cấp, phát, quản lý và sử dụng Thẻ nhân viên tiếp cận cộng đồng tham gia thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV.
4. Chế độ, chính sách đối với người làm công tác điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế theo quy định tại khoản 4 Điều 22 Nghị định số 90/2016/NĐ-CP tiếp tục được áp dụng đến khi thực hiện cải cách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21 tháng 5 năm 2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về Cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp.
+ Điều 57. Trách nhiệm thi hành
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này”.
22. Nghị định số 142/2024/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2025, thay thế Nghị định số 18/2002/NĐ-CP ngày 18/02/2002 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý kho vật chứng; Nghị định số 70/2013/NĐ-CP ngày 02/7/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý kho vật chứng ban hành kèm theo Nghị định số 18/22/NĐ-CP ngày 18/02/2002 của Chính phủ.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Ngày 18 tháng 02 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 18/2002/NĐ-CP về Quy chế quản lý kho vật chứng; ngày 02/7/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 70/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý kho vật chứng ban hành kèm theo Nghị định số 18/2002/NĐ-CP ngày 18/02/2002 của Chính phủ. Một số nội dung không còn phù hợp với hệ thống văn bản pháp luật hiện hành, ngoài ra còn gặp một số khó khăn, vướng mắc khi tiếp nhận, nhập, xuất, bảo quản, chuyển giao vật chứng, đó là:
- Căn cứ pháp lý ban hành của Nghị định số 18/2002/NĐ-CP và Nghị định số 70/2013/NĐ-CP đến nay không còn hiệu lực bởi đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, nhất là thể chế hóa các quy định của pháp luật hiện hành về tiếp nhận, quản lý, bảo quản vật chứng được quy định tại Điều 89, 90 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021); Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2019, 2020, 2022); Điều 82 Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi, bổ sung năm 2019); Điều 122 và 123 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2018, 2020, 2022); đồng thời chưa cụ thể hóa được các nội dung của hoạt động này trong quá trình thực hiện;
- Ngoài ra, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 mới chỉ quy định về bảo quản vật chứng của các vụ án, chưa quy định cụ thể tổ chức, cá nhân nào bảo quản tài liệu, đồ vật từ tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo điểm a khoản 3 Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), tuy nhiên tại khoản 3 Điều 20 Luật Tổ chức Chính phủ quy định : “Tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật…, phòng ngừa và đấu tránh chống các loại tội phạm, vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội”. Qua khảo sát thực tiễn đối với cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố từ ngày 01/01/2018 đến ngày 30/6/2022 đã tiếp nhận, giải quyết tổng số tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố 692.649 tin, trong đó: số tin ra quyết định khởi tố vụ án hình sự 356.399 (chiếm 51,4%); số tin ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự 218.933 (chiếm 31,6%); số tin ra quyết định tạm đình chỉ 92.844 (chiếm 13,5%); số tin chưa giải quyết 23.873 (chiếm 3,5%); số nguồn tin thu thập, bảo quản tài liệu, đồ vật 453.685 (chiếm 65% số tin thụ lý). Hiện nay, Điều tra viên, cán bộ điều tra khi tiếp nhận nguồn tin tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có tài liệu, đồ vật đang tự quản lý tiềm ẩn nguy cơ mất mát, hư hỏng, giảm giá trị chứng minh tài liệu, đồ vật khi khởi tố vụ án nhằm phục vụ hiệu quả quá trình tiến hành tố tụng tiếp theo. Vấn đề này đang được cử tri Đại biểu Quốc hội quan tâm, đề nghị giải quyết;
- Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 18/2002/NĐ-CP quy định: vật chứng thuộc loại mau hỏng, không thể bảo quản lâu tại kho vật chứng (như lương thực, thực phẩm tươi sống, dược phẩm, dược liệu…), được chuyển giao cho cơ quan chức năng để tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật nhưng trong quá trình thực hiện lại có nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau gây khó khăn cho các cơ quan trong quá trình quản lý, bảo quản vật chứng;
- Khoản 6 Điều 1 Nghị định số 70/2013/NĐ-CP quy định:
+ Vật chứng là tiền, giấy tờ có giá, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ… thì phải được niêm phong và gửi tại hệ thống Kho bạc Nhà nước cùng cấp nơi cơ quan thụ lý vụ án có trụ sở, tuyệt đối không được lưu thông, nhưng trên thực tế hiện nay gặp khó khăn, vướng mắc khi áp dụng đó là Kho bạc Nhà nước không nhận vật chứng là tiền mặt đã được niêm phong mà phải gửi vào tài khoản tạm giữ theo quy định của pháp luật hiện hành trong quản lý đối với tiền mặt, giấy tờ có giá, tài sản quý hiếm tạm giữ khi Kho bạc Nhà nước nhận bảo quản;
+ Vật chứng là động vật hoang dã được gửi tại Vườn thú, Trung tâm cứu hộ động vật hoang dã hoặc cơ sở chăn nuôi thuộc ngành Nông nghiệp trên địa bàn. Trên thực tế nhiều tỉnh không được trang bị hệ thống chuồng nuôi, giữ động vật hoang dã còn sống để nuôi dưỡng nên không thể bàn giao cho cơ sở trong tỉnh để bảo quản, chăm sóc trong thời gian chờ xử lý, dẫn đến động vật đó bị suy giảm về sức khỏe, trọng lượng, khả năng tái thả về tự nhiên thấp;
- Vẫn còn trường hợp cơ quan thụ lý vụ án (cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao) chưa kịp thời chuyển giao vật chứng vào kho vật chứng theo quy định tại Nghị định số 18/2002/NĐ-CP và Nghị định số 70/2013/NĐ-CP để quản lý, bảo quản khi đã có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can mà vẫn quản lý vật chứng tại phòng làm việc, khu vực làm việc, do đó đã xảy ra trường hợp mất vật chứng.
Vì vậy, việc xây dựng Nghị định quy định về quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật thay thế Nghị định số 18/2002/NĐ-CP và Nghị định số 70/2013/NĐ-CP là cần thiết nhằm bảo đảm thống nhất hệ thống pháp luật hiện hành và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 6 chương, 26 điều quy định về quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật, cụ thể như sau:
- Chương I. Quy định chung: từ Điều 1 đến Điều 6;
- Chương II. Hệ thống kho vật chứng và tài liệu, đồ vật: từ Điều 7 đến Điều 10;
- Chương III. Trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật: từ Điều 11 đến Điều 14;
- Chương IV. Quy trình nhập, xuất và bảo quản vật chứng, tài liệu, đồ vật: Điều 15 và Điều 16;
- Chương V. Trách nhiệm của các bộ và Ủy nhân nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật: từ Điều 17 đến Điều 24;
- Chương VI. Điều khoản thi hành: Điều 25 và Điều 26.
Nội dung cơ bản của Nghị định
- Quy định phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ, nguyên tắc quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật; hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý, nhập, xuất, bảo quản, chuyển giao vật chứng, tài liệu, đồ vật thu thập được của các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và từ tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tài sản tạm giữ trong thi hành án dân sự; kinh phí bảo đảm trong quản lý vật chứng, tài liệu, đồ vật; cơ sở dữ liệu trong quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật.
- Hệ thống kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự trong quản lý vật chứng, tài liệu, đồ vật cụ thể: (1) Hệ thống kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Công an nhân dân: kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Bộ Công an; kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Công an huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương. Bên cạnh đó, quy định hệ thống kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Công an nhân dân tiếp nhận, bảo quản vật chứng, tài liệu, đồ vật của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong Công an nhân dân, Viện kiểm sát và cơ quan, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Công an, Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư. (2) Hệ thống tổ chức kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Quân đội nhân dân: kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Bộ Quốc phòng (Cục điều tra hình sự, Cục Thi hành án và Cục bảo vệ an ninh quân đội); kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án quân khu và tương đương, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển và cơ quan điều tra hình sự khu vực; kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức kho vật chứng và tài liệu, đồ vật trong khu vực kho vũ khí, trang bị kỹ thuật thuộc Bộ chỉ huy quân sự cấp tỉnh. (3) Hệ thống tổ chức kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của cơ quan thi hành án dân sự: kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của cục thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của chi cục thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp quy định hệ thống kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự.
- Quy định về trách nhiệm, quyền hạn thi hành của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật: cơ quan, người có thẩm quyền ra lệnh hoặc quyết định nhập, xuất vật chứng, tài liệu, đồ vật; cơ quan quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật; Thủ trưởng cơ quan quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật; Thủ kho, cán bộ quản lý, nhân viên kho vật chứng và tài liệu, đồ vật và chế độ phụ cấp đặc thù đối với Thủ kho, cán bộ, nhân viên trực tiếp quản lý kho vật chứng, tài liệu, đồ vật.
- Quy trình nhập, xuất vật chứng, tài liệu, đồ vật; bảo quản vật chứng, tài liệu, đồ vật, trong đó quy định các vật chứng, tài liệu, đồ vật bảo quản tại các cơ quan, tổ chức chuyên môn trong điều kiện đặc biệt: (1) việc quản lý đối với tiền mặt hoặc ngoại tệ tiền mặt, tiền mặt lưu dấu vết của tội phạm, tài sản quý, giấy tờ có giá, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ; (2) các tiêu chí cụ thể để xác định vật thuộc loại mau hỏng, khó bảo quản theo quy định của pháp luật; (3) chuyển giao động vật hoang dã; (4) vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, pháo nổ, pháo hoa, chất cháy thể lỏng, chất cháy thể khí.
- Quy định trách nhiệm của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong công tác quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật.
23. Quyết định số 15/2024/QĐ-TTg ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Quyết định số 38/2021/QĐ-TTg ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ
a) Hiệu lực thi hành: Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (ngày 04 tháng 10 năm 2024).
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Việc ban hành Quyết định số 15/2024/QĐ-TTg ngày 04/10/2024 của Thủ tướng Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia nhằm điều chỉnh việc quy định các băng tần dành cho hệ thống thông tin di động IMT đáp ứng các nhu sử dụng tần số trong mọi lĩnh vực.
Quyết định số 15/2024/QĐ-TTg là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động quản lý, sử dụng phổ tần số vô tuyến điện ở Việt Nam.
c) Nội dung chủ yếu: Quyết định gồm có 02 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Quyết định số 38/2021/QĐ-TTg ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ, cụ thể như sau:
- Điều 1: Nội dung sửa đổi, bổ sung Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia ban hành kèm theo Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Quyết định số 38/2021/QĐ-TTg ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ.
- Điều 2: Điều khoản thi hành.
Nội dung của Quyết định: Sửa đổi, bổ sung chú thích VTN9 tại khoản 2 Điều 9 Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia, cụ thể là sửa đổi việc quy định “băng tần 2500-2690 MHz” thành “băng tần 2500-2600” cho hệ thống thông tin di động IMT để phát triển kinh tế - xã hội.
24. Quyết định số 16/2024/QĐ-TTg ngày 14 tháng 10 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh
a) Hiệu lực thi hành: Quyết định có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 12 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Cơ sở chính trị, pháp lý
+ Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, nêu quan điểm: “Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững; kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu.
+ Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Bộ Chính trị về phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo, đề ra mục tiêu: “Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn dân về phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả chiến tranh, thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại về người, tài sản của Nhà nước và Nhân dân.
+ Ngày 01 tháng 02 năm 2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 18/2019/NĐ-CP về quản lý và thực hiện hoạt động khắc phục hậu quả bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh.
+ Ngày 22 tháng 6 năm 2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 748/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động quốc gia khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh ở Việt Nam giai đoạn 2023 - 2025; trong đó có giao nhiệm vụ: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tiêu chuẩn, chế độ các lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ điều tra, khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ”.
Cơ sở thực tiễn
Ngày 27 tháng 7 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 122/2007/QĐ-TTg về một số chế độ đối với quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ rà phá bom, mìn, vật nổ; trong đó quy định quân nhân, công nhân, viên chức quốc phòng biên chế thuộc các đơn vị Công binh chuyên trách trực tiếp thực hiện nhiệm vụ rà phá bom, mìn, vật nổ được hưởng nguyên lương theo ngạch bậc, cấp bậc, quân hàm và phụ cấp lương (nếu có); được hưởng các chế độ, chính sách khác theo quy định của pháp luật; hưởng sinh hoạt phí mức 60.000 đồng/người/ngày, tính theo ngày thực tế thực hiện nhiệm vụ tại khu vực bãi bom, mìn, vật nổ (chế độ sinh hoạt phí không phải là chế độ phụ cấp theo lương, chỉ là chế độ bồi dưỡng). Ngày 21 tháng 5 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 30/2013/QĐ-TTg sửa đổi khoản 2 Điều 1 Quyết định số 122/2007/QĐ-TTg; trong đó, nâng mức sinh hoạt phí từ 60.000 đồng/người/ngày lên mức 180.000 đồng/người/ngày.
Sau gần 20 năm thực hiện Quyết định số 122/2007/QĐ-TTg đã kịp thời động viên, khuyến khích các đối tượng khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh; góp phần đẩy nhanh tiến độ giải phóng đất đai bị ô nhiễm, giúp ổn định đời sống của nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương cơ sở. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện Quyết định số 122/2007/QĐ-TTg và Quyết định số 30/2013/QĐ-TTg đã nảy sinh bất cập, đó là:
Tại thời điểm ban hành Quyết định số 122/2007/QĐ-TTg, đối tượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh được hưởng mức bồi dưỡng 60.000 đồng/người/ngày; đến năm 2013, ban hành Quyết định số 30/2013/QĐ-TTg, đối tượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh được hưởng mức bồi dưỡng 180.000 đồng/người/ngày (tại Quyết định số 30/2013/QĐ-TTg). Từ năm 2013 đến nay, giá cả các loại hàng hóa thường xuyên tăng; chỉ số giá tiêu dùng luôn có sự biến động, bình quân năm sau so với năm trước tăng từ 2% đến gần 7%, nhưng mức bồi dưỡng đối với đối tượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ rà phá bom, mìn, vật nổ không thay đổi (theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng bình quân (CPI) năm 2013 tăng 6,6% so với bình quân năm 2012; năm 2014 tăng 1,84% so với bình quân năm 2013; năm 2015 tăng 0,63% so với bình quân năm 2014; năm 2016 tăng 2,66% so với bình quân năm 2015; năm 2017 tăng 3,53% so với bình quân năm 2016; năm 2018 tăng 3,54% so với bình quân năm 2017; năm 2019 tăng 2,63% so với bình quân năm 2018; năm 2020 tăng 3,23% so với bình quân năm 2019; năm 2021 tăng 1,84% so với bình quân năm 2020; năm 2022 tăng 3,15% so với bình quân năm 2021; năm 2023 tăng 3,25% so với bình quân năm 2022). Mặt khác, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, từ năm 2013 đến nay, Chính phủ đã 7 lần điều chỉnh mức lương cơ sở nhưng mức bồi dưỡng nêu trên vẫn giữ nguyên. Việc giá cả các mặt hàng thường xuyên tăng, kinh tế - xã hội đất nước phát triển nhưng mức bồi dưỡng đối với đối tượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ không được điều chỉnh đã trực tiếp tác động đến tư tưởng, tâm lý, đời sống và kết quả thực hiện nhiệm vụ của đối tượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh.
Ngày 01 tháng 02 năm 2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 18/2019/NĐ-CP về quản lý và thực hiện hoạt động khắc phục hậu quả bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh; trong đó, tại điểm b khoản 2 Điều 18 về quản lý chi phí dự án, hạng mục khắc phục hậu quả bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh xác định, chi phí bồi dưỡng đối với các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước khi tham gia thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ thuộc chi phí nhân công trong hoạt động điều tra, khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh; mức hưởng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, mức hưởng hiện nay đang áp dụng theo Quyết định số 30/2013/QĐ-TTg và đang có sự bất cập như đã nêu ở trên nên cần thiết phải điều chỉnh tăng mức hưởng để phù hợp với tình hình thực tế
Từ tình hình nêu trên, để khắc phục bất cập hiện hành; động viên lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ khắc phục khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ; góp phần thúc đẩy Chương trình hành động quốc gia khắc phục hậu quả bom, mìn sau chiến tranh ở Việt Nam, hướng tới mục tiêu giảm thiểu và hạn chế cơ bản những ảnh hưởng của bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thì việc nghiên cứu, xây dụng và ban hành Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh để thay the Quyết định số 122/2007/QĐ-TTg và Quyết định số 30/2013/QĐ-TTg là cần thiết và phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 18 Nghị định số 18/2019/NĐ-CP.
- Mục đích ban hành:
Nhằm khắc phục bất cập hiện hành trong thực hiện quy định về mức bồi dưỡng trong thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh; cụ thể hóa quy định của Nghị định số 18/2019/NĐ-CP; bảo đảm phù hợp với thực tiễn nhiệm vụ và điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay; góp phần động viên lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
c) Nội dung chủ yếu: Quyết định gồm 06 điều về chế độ bồi dưỡng đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh, cụ thể như sau: Phạm vi điều chỉnh (Điều 1); đối tượng áp dụng (Điều 2); chế độ bồi dưỡng đối với đối tượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh (Điều 3); nguồn kinh phí (Điều 4); hiệu lực thi hành (Điều 5); trách nhiệm thi hành (Điều 6).
Nội dung cơ bản của Quyết định
- Tên gọi của Quyết định: Quyết định quy định về chế độ bồi dưỡng đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom mìn, vật nổ sau chiến tranh.
- Nội dung cơ bản: Quy định chế độ bồi dưỡng đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh theo quy định tại Nghị định số 18/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về quản lý bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh.
Đối tượng áp dụng là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng, cán bộ, công chức, viên chức được cấp có thẩm quyền giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ.
Các đối tượng trên ngoài chế độ tiền lượng, phụ cấp (nếu có) và các chế độ chính sách khác theo quy định của pháp luật được hưởng chế độ bồi dưỡng mức 350.000 đồng/người/ngày, tính theo ngày thực tế trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tại khu vực khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ. Trong ngày thực tế làm việc, nếu thời gian trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tại khu vực khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ dưới 4 giờ thì được tính bằng một nửa ngày; từ đủ 04 giờ trở lên thì được tính 01 ngày.
Nguồn kinh phí chi trả chế độ bồi dưỡng đối với đối tượng thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh quy định tại Điều 3 Quyết định ngày được tính trong chi phí của dự án theo đơn giá nhân công trên 01 (một) héc-ta diện tích quy định cho khu vực khảo sát rà phá bom, mìn, vật nổ được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
25. Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg ngày 25 tháng 10 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg ngày 12 tháng 8 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần
a) Hiệu lực thi hành: Quyết định này có hiệu lực thi hành từ ngày 10 tháng 12 năm 2024.
- Quyết định này sửa đổi khoản 1 Điều 2, điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 2 Điều 3 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg; Sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 1 Điều 3 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg; Bổ sung khoản 1a Điều 4 và khoản 1a Điều 5 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
+ Khắc phục một số vướng mắc trong thực hiện Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg:
Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành đến nay được hơn hai năm, đến hết năm 2023, đã có 02 Bộ, ngành và 31 địa phương trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị phê duyệt Danh mục ĐVSNCL thành CTCP giai đoạn 2021-2025. Trong quá trình theo dõi, tổng hợp và tham gia ý kiến về việc xây dựng Danh mục ĐVSNCL chuyển thành CTCP của các Bộ, UBND địa phương theo quy định tại Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg, một số Bộ, địa phương phản ánh vướng mắc trong thực hiện đầy đủ quy định về điều kiện “Còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và xác định lại giá trị đơn vị sự nghiệp công lập” tại điểm a khoản 1 Điều 3 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg. Theo đó, để thực hiện đầy đủ nội dung quy định này thì cần phải thực hiện các bước xác định giá trị của ĐVSNCL để xác định còn vốn nhà nước hay không, trên cơ sở đó mới xem xét có thuộc Danh mục ĐVSNCL chuyển thành CTCP giai đoạn 2021-2025 hay không. Tuy nhiên, việc thực hiện xác định giá trị ĐVSNCL ngay tại thời điểm các Bộ, UBND địa phương rà soát để xây dựng Danh mục trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương cổ phần hoá/không cổ phần hoá có thể dẫn đến kéo dài thời gian phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ và phải mất thêm chi phí ngay trong giai đoạn này
Ngoài ra, điểm a khoản 1 Điều 3 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg quy định các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh và tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục đơn vị sự nghiệp công lập chuyển thành công ty cổ phần giai đoạn 2021-2025 trong Quý IV năm 2021. Tuy nhiên, đến cuối năm 2023 mới có 2 Bộ, ngành và 31 địa phương thực hiện. Do vậy, cần gia hạn thời gian để các Bộ, ngành, địa phương có thể hoàn thành nốt nhiệm vụ này.
+ Rà soát, hoàn thiện quy định chuyển ĐVSNCL hoạt động trong 04 ngành, lĩnh vực: Kiểm định kỹ thuật an toàn lao động, Kiểm định xây dựng, Kiểm định kỹ thuật phương tiện giao thông cơ giới, phương tiện thuỷ nội địa, Sản xuất, lưu giữ giống gốc cây trồng, vật nuôi thành CTCP
+ Quan điểm, mục tiêu của việc xây dựng Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg
(i) Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg được xây dựng với các quan điểm sau đây: (i) Kế thừa những quy định của Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg ngày 12/8/2021 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển ĐVSNCL thành CTCP đang được thực hiện ổn định, không có vướng mắc và phù hợp với Nghị định số 150/2020/NĐ-CP; (ii) Các quy định tại Quyết định không có nội dung trái với quy định tại Nghị định số 150/2020/NĐ-CP, Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg; góp phần cụ thể hoá các chủ trương của Đảng tại Nghị quyết số 19/NQ-TW theo hướng rõ ràng, minh bạch, đẩy mạnh thực hiện sắp xếp hệ thống các ĐVSNCL trên toàn quốc.
(ii) Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg được xây dựng với các mục đích sau đây: (i)Đẩy mạnh quá trình thực hiện rà soát, xây dựng Danh mục chuyển ĐVSNCL thành CTCP giai đoạn 2021-2025 trên toàn quốc; (ii) Nâng cao khả năng thực thi, hiệu quả thực tiễn trong thực hiện Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg, góp phần thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ sự nghiệp công.
c) Nội dung chủ yếu: Quyết định gồm 02 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg ngày 12 tháng 8 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần, cụ thể như sau:
- Điều 1 quy định những nội dung sửa đổi, bổ sung Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg;
- Điều 2 quy định về hiệu lực thi hành.
Nội dung của Quyết định số
- Về bổ sung ngành, lĩnh vực chuyển ĐVSNCL thành CTCP:
Việc thực hiện chuyển ĐVSNCL hoạt động trong 03 ngành Kiểm định: Kiểm định kỹ thuật an toàn lao động; Kiểm định xây dựng; Kiểm định kỹ thuật phương tiện giao thông cơ giới, phương tiện thuỷ nội địa được các Bộ, ngành, địa phương đánh giá là khả thi; nhiều ĐVSNCL hoạt động trong lĩnh vực này sau khi chuyển thành CTCP đã có sự chuyển biến tích cực như: chất lượng dịch vụ được đảm bảo, hiệu quả sản xuất được nâng cao, đời sống người lao động được cải thiện, đầu tư nâng cấp được máy móc, cơ sở vật chất. Để đảm bảo phù hợp với chủ trương tại Nghị quyết số 19/NQ-TW, chỉ đạo của Lãnh đạo Chính phủ tại Thông báo số 56/TB-VPCP, Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg quy định bổ sung các ĐVSNCL hoạt động 03 ngành, lĩnh vực nêu trên vào Danh mục ngành, lĩnh vực chuyển ĐVSNCL thành CTCP, Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ nhằm từng bước xã hội hoá các ĐVSNCL, huy động nguồn lực của tư nhân nhưng vẫn đảm bảo vai trò của Nhà nước trong cung cấp dịch vụ công trong 03 ngành nêu trên.
Theo đó, khoản 1 Điều 2 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg được sửa đổi như sau: Danh mục ngành, lĩnh vực đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện chuyển thành công ty cổ phần, Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ:
+ Khai thác, sản xuất, cung cấp nước sạch; thoát nước đô thị, nông thôn;
+ Kiểm định kỹ thuật an toàn lao động;
+ Kiểm định xây dựng;
+ Kiểm định kỹ thuật phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện thuỷ nội địa (trừ lĩnh vực đăng kiểm tàu biển và công trình biển).”
- Về điều kiện rà soát và thời điểm hoàn thành xây dựng Danh mục ĐVSNCL chuyển thành CTCP trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt:
Để tháo gỡ các vướng mắc về điều kiện “Còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và xác định lại giá trị đơn vị sự nghiệp công lập” tại điểm a khoản 1 Điều 3 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg và điều chỉnh thời gian các cơ quan trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt danh mục ĐVSCL để đảm bảo phù hợp với tình hình thực tiễn, Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg quy định sửa đổi điểm a, khoản 1 Điều 3 và khoản 2 Điều 3 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg theo hướng các cơ quan có trách nhiệm rà soát các ĐVSNCL thuộc phạm vi quản lý (bao gồm các ĐVSNCL đã được phê duyệt tại Danh mục đơn vị sự nghiệp công lập chuyển thành công ty cổ phần giai đoạn trước năm 2021 nhưng chưa có quyết định công bố giá trị đơn vị) đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định số 150/2020/NĐ-CP và thuộc ngành, lĩnh vực quy định tại Điều 2 Quyết định này để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục đơn vị sự nghiệp công lập chuyển thành công ty cổ phần giai đoạn 2021-2025 trong Quý IV năm 2024.
- Về quy định chuyển tiếp đối với các ĐVSNCL đã hoàn tất công tác chuyển thành CTCP hoạt động trong 03 lĩnh vực Kiểm định trước thời điểm Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg có hiệu lực thi hành:
Theo Quyết định số 31/2017/QĐ-TTg ngày 17/07/2017 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục ngành, lĩnh vực chuyển ĐVSNCL thành CTCP, Nhà nước nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ hoặc không giữ cổ phần tại các ĐVSNCL hoạt động trong 20 ngành, lĩnh vực, bao gồm lĩnh vực Khai thác, sản xuất, cung cấp nước sạch; thoát nước đô thị, nông thôn và 03 lĩnh vực đăng kiểm nêu trên. Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg và Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg quy định khi chuyển ĐVSNCL hoạt động trong Khai thác, sản xuất, cung cấp nước sạch; thoát nước đô thị, nông thôn và 03 lĩnh vực đăng kiểm thành CTCP, Nhà nước sẽ nắm giữ trên 50% vốn điều lệ tại doanh nghiệp sau chuyển đổi.
Để không ảnh hưởng tới các ĐVSNCL hoạt động trong các ngành, lĩnh vực nêu trên đã hoàn thành đăng ký chuyển thành công ty cổ phần và Nhà nước đang nắm giữ tỷ lệ vốn điều lệ dưới mức 50%, khoản 4 Điều 1 Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg quy định bổ sung khoản 1a (sau khoản 1 Điều 5 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg như sau: “Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập đã chính thức chuyển thành công ty cổ phần (được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần lần đầu) trước thời điểm Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg có hiệu lực thi hành mà tỷ lệ vốn nhà nước tại doanh nghiệp thấp hơn tỷ lệ quy định tại Điều 2 Quyết định này thì giữ nguyên tỷ lệ vốn nhà nước hiện có, trừ trường hợp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh để phù hợp với quy định tại Điều 2 Quyết định này.”
Việc bổ sung quy định này nhằm quy định cụ thể, thống nhất trong thực hiện, tránh trường hợp các ĐVSNCL đã hoàn thành thực hiện chuyển thành CTCP theo Quyết định số 31/2017/QĐ-TTg trong giai đoạn trước đây tiếp tục kiến nghị tăng phần vốn do nhà nước nắm để đạt được tỷ lệ trên 50% vốn điều lệ như quy định tại Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg.
Trên đây là Thông cáo báo chí văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 10 năm 2024, Bộ Tư pháp xin thông báo./.[1] Theo số liệu thống kê đã có hơn 900 đăng kiểm viên bị khởi tố tại 112 Trung tâm đăng kiểm của 42 địa phương sẽ bị thu hồi chứng chỉ Đăng kiểm viên theo quy định tại điểm c khoản 16 Điều 1 Nghị định số 30/2023/NĐ-CP, trong đó có 91 Trung tâm đăng kiểm tại 32 địa phương có từ 02 Đăng kiểm viên trở lên bị khởi tố dẫn đến các Trung tâm đăng kiểm này phải bị dừng hoạt động 03 tháng theo quy định tại khoản 10 Điều 1 Nghị định số 30/2023/NĐ-CP, cùng với việc bị thiếu hụt Đăng kiểm viên dẫn đến cả nước có tới 36 địa phương có nguy cơ bị ùn tắc phương tiện đến kiểm định.[2] Kết luận số 102-KL/TW ngày 22/9/2014 của Bộ Chính trị về hội quần chúng;.[3] Kết luận số 158-TB/TW ngày 02/01/2020 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Kết luận số 102-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về hội quần chúng trong tình hình mới;[4] Quyết định số 118-QĐ/TW ngày 22/8/2023 của Ban Bí thư ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở Trung ương.[5] Bãi bỏ Quyết định số 68/2010/QĐ-TTg ngày 01 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định hội có tính chất đặc thù và Quyết định số 71/2011/QĐ-TTg ngày 20 tháng 12 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về bảo đảm, hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước đối với các hội có tính chất đặc thù[6] “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số”[7] “Ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số”; “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hoá đồng bào dân tộc thiểu số…”.[8] “Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số. Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh vùng dân tộc miền núi phải toàn diện, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và phát huy lợi thế, tiềm năng của vùng và tinh thần tự lực của đồng bào dân tộc thiểu số”.[9] Các điều: 4, 5, 16, 34, 37, 38, 40, 41, 42, 58, 61, 70, nhất là quy định tại Điều 5 “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”[10] Luật Tổ chức Quốc hội , Luật Tổ chức Chính phủ , Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định Quốc hội quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước, còn Chính phủ quyết định chính sách cụ thể, biện pháp ưu tiên... dẫn đến cần soát lại một số chính sách cho phù hợp với thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ đối với công tác dân tộc; Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.[11] Điều 2 Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc quy định nghĩa vụ quốc gia thành viên của Việt Nam tham gia Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, nhằm đảm bảo “cam kết theo đuổi bằng mọi biện pháp cần thiết và không trì hoãn” trong việc “Quốc gia thành viên có những biện pháp hữu hiệu để rà soát lại các chính sách”, “có những biện pháp đặc biệt và cụ thể trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa và những lĩnh vực khác để đảm bảo sự phát triển thích đáng và bảo vệ một số nhóm chủng tộc hoặc cá nhân thuộc các chủng tộc đó, với mục đích nhằm giúp họ được hưởng đầy đủ và bình đẳng các quyền con người và tự do cơ bản”.[12] Chưa quy định cụ thể nội hàm và sử dụng chưa thống nhất các thuật ngữ “Vùng dân tộc thiểu số”, “Vùng đồng bào dân tộc thiểu số”, “Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi” trong các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách dân tộc; việc phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển mới dừng lại ở cấp xã, thôn và còn nhiều vướng mắc; Chính sách đối với người có uy tín ở vùng dân tộc thiểu số, chính sách thông tin - truyền thông, chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý chưa được quy định cụ thể, đầy đủ, chưa thống nhất với một số quy định của pháp luật chuyên ngành; một số quy định quản lý nhà nước về công tác dân tộc và phân công trách nhiệm của Bộ, ngành, địa phương trong việc hướng dẫn thi hành theo thẩm quyền hoặc nghiên cứu, tham mưu trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản triển khai thực hiện các nội dung tại Nghị định số 05/2011/NĐ-CP chưa rõ, cụ thể, chưa tạo điều kiện pháp lý để triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách trong Nghị định số 05/2011/NĐ-CP.[13] Việc chi thăm hỏi, chúc mừng, tặng quà, động viên, gặp mặt đối với một số đơn vị, cá nhân là người dân tộc thiểu số đã được Ủy ban Dân tộc tham mưu tổ chức thực hiện trong hơn 20 năm qua nhưng chưa đưa vào Nghị định số 05/2011/NĐ-CP.[14] “Xây dựng tiêu chí phân định lại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo hướng xác định rõ vùng dân tộc thiểu số (tỉnh, huyện, xã, thôn, bản), địa bàn xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn để đầu tư có trọng tâm, trọng điểm”.[15] “Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi” là một trong các nội dung biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ theo Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.[16] Người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.[17] Phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân.[18] Bổ sung: (01) Điều 44a. Xử lý vi phạm; (02) Điều 48a. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp huyện
Thông cáo báo chí văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 10 năm 2024
25/11/2024
Thực hiện khoản 2, khoản 3 Điều 12 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 và Thông tư số 07/2021/TT-BTP ngày 01/11/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về quy định việc ban hành thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ Chính phủ ban hành, Bộ Tư pháp ra Thông cáo báo chí về một số văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 10 năm 2024, cụ thể như sau:
I. DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT ĐƯỢC BAN HÀNH
Trong tháng 10 năm 2024, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 25 văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể:
Các Nghị định của Chính phủ:
1. Nghị định số 121/2024/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 139/2018/NĐ-CP ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ quy định về kinh doanh dịch vụ kiểm định xe cơ giới, được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 30/2023/NĐ-CP ngày 08 tháng 6 năm 2023 của Chính phủ;
2. Nghị định số 122/2024/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên;
3. Nghị định số 123/2024/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai;
4. Nghị định số 124/2024/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 86/2018/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2018 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục;
5. Nghị định số 125/2024/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục;
6. Nghị định số 126/2024/NĐ-CP ngày 08 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội;
7. Nghị định số 127/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về công tác dân tộc;
8. Nghị định số 128/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại;
9. Nghị định số 129/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 91/2026/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ về quản lý hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế; Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế;
10. Nghị định số 130/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về thu phí sử dụng đường bộ cao tốc đối với phương tiện lưu thông trên tuyến đường bộ cao tốc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác;
11. Nghị định số 131/2024/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định thương mại tự do giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Nhà nước I-xra-en giai đoạn 2024 - 2027;
12. Nghị định số 132/2024/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí;
13. Nghị định số 133/2024/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều, phụ lục của Nghị định số 58/2021/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2021 của Chính phủ quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng;
14. Nghị định số 134/2024/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ về chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn tỉnh Thanh Hóa;
15. Nghị định số 135/2024/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ;
16. Nghị định số 136/2024/NĐ-CP ngày 23 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện;
17. Nghị định số 137/2024/NĐ-CP ngày 23 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước và hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử;
18. Nghị định số 138/2024/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng chi thường xuyên ngân sách nhà nước để mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng;
19. Nghị định số 139/2024/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định thể thức bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay;
20. Nghị định số 140/2024/NĐ-CP ngày 25 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về thanh lý rừng trồng;
21. Nghị định số 141/2024/NĐ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS);
22. Nghị định số 142/2024/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật.
Các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ:
1. Quyết định số 15/2024/QĐ-TTg ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Quyết định số 38/2021/QĐ-TTg ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ;
2. Quyết định số 16/2024/QĐ-TTg ngày 14 tháng 10 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh;
3. Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg ngày 25 tháng 10 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg ngày 12 tháng 8 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần.
II. HIỆU LỰC THI HÀNH, SỰ CẦN THIẾT, MỤC ĐÍCH BAN HÀNH VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Trên cơ sở thông tin do các bộ, cơ quan ngang bộ cung cấp, Bộ Tư pháp thông tin về hiệu lực thi hành, sự cần thiết, mục đích ban hành và nội dung chủ yếu của 25 văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 10 năm 2024 như sau:
1. Nghị định số 121/2024/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 139/2018/NĐ-CP ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ quy định về kinh doanh dịch vụ kiểm định xe cơ giới, được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 30/2023/NĐ-CP ngày 08 tháng 6 năm 2023 của Chính phủ
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05 tháng 10 năm 2024
- Điều khoản chuyển tiếp: Đơn vị đăng kiểm đã bị thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định xe cơ giới trước ngày Nghị định này có hiệu lực thì được áp dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Nghị định này.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Việc ban hành Nghị định nhằm ngăn ngừa tái diễn tình trạng ùn tắc phương tiện đến kiểm định như đã từng xảy ra trong những tháng đầu năm 2023, đặc biệt là nếu không kịp thời điều chỉnh sẽ có những địa phương không còn đơn vị đăng kiểm để phục vụ người dân và doanh nghiệp do có nhiều đăng kiểm viên sẽ bị thu hồi chứng chỉ đăng kiểm viên, nhiều đơn vị đăng kiểm sẽ bị tạm dừng hoạt động
[1]; ngoài ra cần sửa đổi quy định về thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định xe cơ giới cho phù hợp với thực tiễn để tránh thiệt hại cho doanh nghiệp; đồng thời rút kinh nghiệm từ kết quả điều tra của Cơ quan Công an thời gian vừa qua để bổ sung biện pháp quản lý hành chính Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm định.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 03 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 139/2018/NĐ-CP ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ quy định về kinh doanh dịch vụ kiểm định xe cơ giới, được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 30/2023/NĐ-CP ngày 08 tháng 6 năm 2023 của Chính phủ, cụ thể như sau:
- Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 139/2018/NĐ-CP ngày 08/10/2018 của Chính phủ quy định về kinh doanh dịch vụ kiểm định xe cơ giới, được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 30/2023/NĐ-CP ngày 08/6/2023 của Chính phủ.
- Điều 2. Ngưng hiệu lực thi hành, bãi bỏ một số điểm, khoản, điều tại Nghị định số 139/2018/NĐ-CP và Nghị định số 30/2023/NĐ-CP.
- Điều 3: Điều khoản thi hành.
- Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng: Nghị định không sửa đổi, bổ sung nội dung về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Nghị định số 139/2018/NĐ-CP và Nghị định số 30/2023/NĐ-CP.
Nội dung cơ bản của Nghị định
Nghị định có 02 nội dung chính được dư luận quan tâm, đó là việc thu hồi chứng chỉ đăng kiểm viên và việc tạm dừng hoạt động của đơn vị đăng kiểm có thể dẫn đến ùn tắc kiểm định, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp khi đưa xe đi kiểm định. Những vấn đề này được giải quyết tại các quy định như sau:
- Bãi bỏ quy định tạm đình chỉ hoạt động của đơn vị đăng kiểm có từ 02 lượt hoặc 03 lượt đăng kiểm viên bị xử phạt hoặc 02 đăng kiểm viên bị thu hồi chứng chỉ đăng kiểm viên (bãi bỏ điểm b khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 10 Nghị định số 139/2018/NĐ-CP).
- Ngưng hiệu lực thi hành thu hồi chứng chỉ đăng kiểm viên trong trường hợp “
Bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án do vi phạm các quy định liên quan đến lĩnh vực kiểm định xe cơ giới” cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2025.
2. Nghị định số 122/2024/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 12 năm 2024.
- Khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 2 Nghị định số 122/2024/NĐ-CP có quy định lộ trình thời gian như sau:
“
2. Trong năm 2029, Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định việc điều chỉnh số lần được miễn thuế và số tiền được miễn thuế cho nhập khẩu hàng hoá theo hình thức mua bán, trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới.
3. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2029, khi thực hiện hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa qua biên giới, cư dân biên giới phải có mặt để làm thủ tục xuất nhập khẩu.
4. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2030, hàng hoá chỉ được làm thủ tục xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu quốc tế; cửa khẩu chính (cửa khẩu song phương); cửa khẩu phụ; lối thông quan, đường chuyên dụng vận chuyển hàng hóa thuộc cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính (cửa khẩu song phương); lối mở biên giới đã hoàn thành trình tự mở, nâng cấp cửa khẩu biên giới, lối mở biên giới theo quy định pháp luật hiện hành và đã đạt thỏa thuận song phương về cho phép xuất khẩu, nhập khẩu, trao đổi hàng hóa.”
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Hoạt động thương mại biên giới trong những năm gần đây đã có bước phát triển tốt, đóng góp đáng kể trong thương mại song phương của Việt Nam với các nước có chung biên giới. Thương mại biên giới đã góp phần tích cực trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước; tạo điều kiện cho cư dân biên giới, trong đó có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số ổn định cuộc sống, cư trú lâu dài tại khu vực biên giới; góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo và đảm bảo quốc phòng, an ninh tại khu vực biên giới, miền núi, vùng sâu, vùng xa của đất nước.
Nghị định số 14/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên giới (Nghị định số 14/2018/NĐ-CP) đã tạo khung pháp lý và thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại biên giới dựa trên cơ sở các Luật, Nghị định và Điều ước quốc tế liên quan tạo động lực phát triển kinh tế vùng biên giới, kết nối các vùng sản xuất trong nước, tạo thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam và nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu cần thiết để phục vụ sản xuất trong nước. Việc triển khai Nghị định số 14/2018/NĐ-CP đã tạo ra sự thông thoáng trong thực hiện các thủ tục hành chính một cách nhanh chóng, kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho thương nhân, doanh nghiệp và cư dân biên giới mua bán, trao đổi hàng hóa ở khu vực biên giới, góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại biên giới hiệu quả. Ngoài ra, Nghị định số 14/2018/NĐ-CP đưa ra những cơ chế, chính sách hướng tới mục tiêu phát triển ổn định nhằm tạo môi trường thuận lợi, đa dạng trong các hình thức kinh doanh đối với thương nhân và sinh hoạt của cư dân biên giới; bên cạnh đó, tạo khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra, kiểm soát, kiểm dịch tại khu vực cửa khẩu, phòng ngừa gian lận trong hoạt động ngoại thương với các nước có chung đường biên giới.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 14/2018/NĐ-CP đã phát sinh một số vấn đề trong hoạt động thương mại biên giới, cụ thể như sau:
(i) Hoạt động thương mại khu vực biên giới tuy có tăng trưởng qua các năm nhưng nhìn chung chưa thật sự sôi động, quy mô còn hạn chế, mặt hàng xuất nhập khẩu chưa phong phú, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có.
(ii) Khu vực cửa khẩu biên giới một số nơi chưa được đầu tư xây dựng đồng bộ; việc huy động, thu hút các nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực cửa khẩu còn hạn chế, tiến độ xây dựng còn chậm.
(iii) Công tác tuyên truyền quy định pháp luật về thương mại biên giới đã được thực hiện nhưng còn hạn chế. Trình độ dân trí, nhận thức của cư dân biên giới đa phần vẫn còn hạn chế, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số. Đời sống của đa số cư dân vùng biên giới nhìn chung còn thấp. Một bộ phận cư dân biên giới không có nghề nghiệp ổn định, khó khăn trong cuộc sống nên dễ bị các đối tượng buôn lậu lôi kéo, lợi dụng thực hiện các hành vi vi phạm.
(iv) Tình trạng ùn tắc hàng hóa tại khu vực cửa khẩu vẫn còn diễn ra khi vào thời điểm thu hoạch chính vụ hoặc vào các dịp Lễ, Tết, đặc biệt tại các cửa khẩu biên giới phía Bắc.
(v) Một số quy định hiện nay được đánh giá là không còn phù hợp hoặc không theo kịp tình hình phát triển thương mại biên giới trong thực tế cũng như chính sách, định hướng quản lý biên giới, phát triển xuất nhập khẩu nói chung hiện nay.
+ Các quy định hiện nay rất thông thoáng đối với hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa qua biên giới đất liền, đặc biệt là với xuất khẩu, cụ thể: (i) mọi tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh (thương nhân) đều được quyền xuất khẩu hàng hóa qua biên giới. Cá nhân không có đăng ký kinh doanh, nếu cư trú tại khu vực biên giới, cũng được quyền xuất khẩu hàng hóa qua biên giới nếu đó là hàng sản xuất tại Việt Nam. Nói chung, thương nhân và cư dân có thể xuất khẩu tất cả các loại hàng hóa, trừ hàng hóa cấm xuất khẩu; (ii) việc xuất khẩu hàng hóa có thể được thực hiện ở tất cả các cửa khẩu cũng như lối mở; (iii) thương nhân và cư dân không nhất thiết phải xuất trình hợp đồng mua bán bằng văn bản với cơ quan hải quan khi xuất khẩu hàng hóa. Thương nhân có thể tự lập bảng kê hàng hóa để thay cho hợp đồng; (iv) đồng tiền thanh toán và phương thức thanh toán đối với hoạt động xuất khẩu cũng rất linh hoạt.
Điều này đã và đang phần nào gây khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước, các lực lượng chức năng thực thi tại khu vực cửa khẩu trong công tác thống kê chính xác số liệu xuất nhập khẩu theo đúng mục đích, hình thức thương mại; trong công tác kiểm dịch, kiểm tra, kiểm soát hàng hóa, phòng chống gian lận thương mại, buôn lậu một cách có hiệu quả.
+ Tại Điều 21, Điều 22, Chương V của Nghị định số 14/2018/NĐ-CP quy định công dân hai Bên có chung biên giới Việt Nam - Lào và Việt Nam - Campuchia có thể sử dụng chứng minh nhân dân/căn cước công dân qua lại biên giới và chợ biên giới, tuy nhiên quy định tại các điều này chưa toàn diện để đảm bảo thực thi đầy đủ các nghĩa vụ trong các điều ước quốc tế mà Việt nam đã ký kết cũng như Luật xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam (Luật số 49/2019/QH14 ngày 22 tháng 11 năm 2019), Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 (Luật số 47/2014/QH13 ngày 16 tháng 6 năm 2014), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam (Luật số 51/2019/QH14 ngày 25 tháng 11 năm 2019) và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan (
các giấy tờ được phép xuất nhập cảnh qua biên giới với Lào không bao gồm chứng minh nhân dân).
+ Riêng đối với tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc, hoạt động xuất nhập khẩu theo hình thức trao đổi cư dân biên giới hay còn gọi là “xuất khẩu tiểu ngạch” diễn ra khá sôi động.
Bên cạnh hoạt động xuất nhập khẩu theo thông lệ quốc tế tại khu vực biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, hoạt động xuất nhập khẩu theo hình thức trao đổi cư dân biên giới diễn ra khá sôi động. Theo quy định của Trung Quốc, hàng hoá nhập khẩu vào thị trường Trung Quốc theo hình thức trao đổi cư dân biên giới sẽ được hưởng một số ưu đãi nhất định, ví dụ như được miễn kiểm dịch, không cần hợp đồng, không cần thanh toán qua ngân hàng và được miễn thuế nếu giá trị hàng hóa trao đổi không vượt quá 8.000 Nhân dân tệ/người/ngày. Đặc biệt, nhiều nông sản của Việt Nam mặc dù chưa được phép nhập khẩu chính thức vào Trung Quốc (như nhiều loại trái cây, thịt lợn, trâu bò,…) nhưng vẫn có thể bán vào Trung Quốc theo hình thức trao đổi cư dân. Do có các ưu đãi này, các doanh nghiệp Trung Quốc đã tận dụng hình thức trao đổi cư dân để buôn bán lớn, cụ thể là lập danh sách cư dân, sau đó gom tiêu chuẩn miễn thuế của cư dân để nhập khẩu các lô hàng lớn. Đây chính là hoạt động “tiểu ngạch” như vẫn được đề cập tới thời gian qua. Hàng hóa xuất khẩu theo hình thức trao đổi cư dân biên giới, sau khi qua biên giới, sẽ được gom về tiêu thụ tại các chợ biên giới bên phía Trung Quốc.
Có thể nói, các ưu đãi của Trung Quốc đối với hình thức trao đổi cư dân biên giới kết hợp với chính sách có tính tương thích cao của Việt Nam là nguyên nhân chính dẫn đến việc hình thành hình thức “xuất khẩu tiểu ngạch”. Dù chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng xuất khẩu sang Trung Quốc nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các mặt hàng chưa được phép xuất khẩu chính thức vào Trung Quốc (như na, roi) hoặc chưa đáp ứng được tiêu chuẩn của Trung Quốc (như không có mã số vùng trồng, mã số doanh nghiệp v.v..). Thậm chí, để tận dụng ưu đãi thuế, một số mặt hàng tuy đã được phép xuất khẩu chính thức vào Trung Quốc (như sản phẩm sắn, quả vải, quả dưa hấu v.v. ) vẫn chủ động chuyển sang hình thức tiểu ngạch để xuất khẩu vào Trung Quốc.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã: (i) tăng cường quản lý, kiểm soát hoạt động nhập khẩu tại khu vực biên giới; (ii) tổ chức truyền thông nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp và người tiêu dùng Trung Quốc về vệ sinh an toàn thực phẩm; (iii) siết chặt công tác kiểm dịch, kiểm nghiệm và quản lý chất lượng sản phẩm nông sản nhập khẩu thông qua các thủ tục mang tính kỹ thuật như truy xuất nguồn gốc, yêu cầu đăng ký vùng nuôi trồng và doanh nghiệp xuất khẩu đối với nông sản, thực phẩm; quản lý an toàn thực phẩm xuất nhập khẩu (Trung Quốc đã ban hành và chính thức áp dụng Lệnh 248, Lệnh 249 từ ngày 01 tháng 01 năm 2022); v.v.. Chính vì vậy, phương thức xuất khẩu tiểu ngạch ngày càng bấp bênh, không bền vững, không còn có nhiều cơ hội cho hàng nông thủy sản của Việt Nam, đặc biệt là những hàng nông thủy sản chưa đăng ký truy xuất nguồn gốc, mã số vùng trồng.
Từ các vấn đề thực tiễn nêu trên, việc ban hành Nghị định số 122/2024/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên giới là cần thiết.
- Mục đích ban hành:
+ Hoàn thiện cơ sở pháp lý, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động thương mại biên giới.
+ Khắc phục những vấn đề phát sinh từ thực tiễn thi hành Nghị định số 14/2018/NĐ-CP như khắc phục tình trạng ùn tắc hàng hoá tại các cửa khẩu biên giới thời gian qua, thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá (đặc biệt là nông sản) qua các cửa khẩu biên giới phía Bắc theo hình thức thương mại chính ngạch.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 02 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên, cụ thể như sau:
- Điều 1: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên giới.
- Điều 2: Điều khoản thi hành.
Các quy định chính, nội dung mới
- Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 3 và khoản 1 Điều 16 Nghị định số 14/2018/NĐ-CP để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành liên quan đến quy định về nơi cư trú của chủ thể tham gia hoạt động thương mại biên giới.
- Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định số 14/2018/NĐ-CP theo hướng phương thức thanh toán bằng tiền mặt chỉ được áp dụng đối với hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới để hạn chế rủi ro cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa (đặc biệt tại biên giới Việt Nam-Trung Quốc) và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cơ quan chức năng trong công tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, gây bất ổn cho xã hội đối với khu vực biên giới.
- Bổ sung Điều 4a quy định về tiêu chuẩn hàng hóa trong hoạt động thương mại biên giới vào sau Điều 4 Nghị định số 14/2018/NĐ-CP, trong đó quy định hàng hóa trong hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa qua biên giới của thương nhân, cư dân biên giới phải đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn, chất lượng, quy định về truy xuất nguồn gốc và các điều kiện khác theo quy định pháp luật của nước nhập khẩu để nâng cao ý thức của người dân, doanh nghiệp sản xuất và định hướng chính sách, phản ánh xu hướng thị trường đối với người sản xuất (cả sản xuất lớn và sản xuất nhỏ): ngày càng yêu cầu cao hơn chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trường (kể cả thị trường trong và ngoài nước, không chỉ thị trường Trung Quốc mà còn là thị trường của hơn 200 nước khác mà Việt Nam đã xuất khẩu hàng hóa), từ đó xây dựng hình ảnh, thương hiệu hàng hóa, sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế; góp phần vào mục tiêu xuất khẩu bền vững, gia tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.
- Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 16, khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 22 Nghị định số 14/2018/NĐ-CP để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết cũng như quy định pháp luật hiện hành về các loại giấy tờ xuất nhập cảnh qua lại biên giới
- Sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 21 và khoản 3 Điều 22 Nghị định số 14/2018/NĐ-CP để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với các quy định pháp luật hiện hành về quản lý cửa khẩu biên giới đất liền.
- Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định số 14/2018/NĐ-CP để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với các quy định pháp luật hiện hành về hải quan.
- Để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa theo hình thức thương mại chính ngạch, khắc phục tình trạng ùn tắc hàng hóa tại các cửa khẩu biên giới, ngăn ngừa hiện tượng lợi dụng chính sách ưu đãi cho cư dân biên giới, lập danh sách cư dân sau đó gom tiêu chuẩn miễn thuế để nhập khẩu các lô hàng lớn rồi bán lại, Nghị định số 122/2024/NĐ-CP đã quy định lộ trình như sau:
(i) Trong năm 2029, Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định việc điều chỉnh số lần được miễn thuế và số tiền được miễn thuế cho nhập khẩu hàng hoá theo hình thức mua bán, trao đổi hàng hóa của cư dân biên giới.
(ii) Từ ngày 01 tháng 01 năm 2029, khi thực hiện hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa qua biên giới, cư dân biên giới phải có mặt để làm thủ tục xuất nhập khẩu.
(iii) Từ ngày 01 tháng 01 năm 2030, hàng hoá chỉ được làm thủ tục xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu quốc tế; cửa khẩu chính (cửa khẩu song phương); cửa khẩu phụ; lối thông quan, đường chuyên dụng vận chuyển hàng hóa thuộc cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính (cửa khẩu song phương); lối mở biên giới đã hoàn thành trình tự mở, nâng cấp cửa khẩu biên giới, lối mở biên giới theo quy định pháp luật hiện hành và đã đạt thỏa thuận song phương về cho phép xuất khẩu, nhập khẩu, trao đổi hàng hóa.
3. Nghị định số 123/2024/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 04 tháng 10 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Căn cứ chính trị, pháp lý
- Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII, trong đó đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp:“... Tăng cường công tác quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng đất, đặc biệt là đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên... ... tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý và sử dụng đất. Tăng cường kiểm soát quyền lực, thường xuyên kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất đai, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về đất đai; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực đất đai...”
- Luật Đất đai số 31/2024/QH15 ngày 18 tháng 01 năm 2024.
- Quyết định số 222/QĐ-TTg ngày 05 tháng 3 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Đất đai số 31/2024/QH15.
- Chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại các văn bản số: 282/TTg-NN ngày 06 tháng 5 năm 2024, số 202/TTg-NN ngày 26 tháng 3 năm 2024, số 2710/VPCP-NN ngày 23 tháng 4 năm 2024 và số 2892/VPCP-NN ngày 30 tháng 4 năm 2024 của Văn phòng Chính phủ.
- Chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại Công văn số 2353/VPCP-NN ngày 09 tháng 4 năm 2024 và Thông báo số 168/TB-VPCP ngày 17 tháng 4 năm 2024 của Văn phòng Chính phủ.
Cơ sở thực tiễn
Luật Đất đai năm 2013 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2014. Để tổ chức thi hành Luật Đất đai, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày 10 tháng 11 năm 2014 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đã góp phần tạo hành lang pháp lý đồng bộ, chặt chẽ và khả thi cho việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật đất đai, tăng tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật.
Quá trình tổ chức triển khai thi hành Luật Đất đai năm 2013, Nghị định số 102/2014/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường luôn lắng nghe ý kiến phản hồi từ phía địa phương, người dân và doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, Bộ đã tham mưu để Chính phủ ban hành Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai và Nghị định số 04/2022/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; tài nguyên nước và khoáng sản; khí tượng thủy văn; đo đạc bản đồ. Các Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai nêu trên đã góp phần tạo hành lang pháp lý đồng bộ, chặt chẽ và khả thi cho việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật đất đai, tăng tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật.
Mặc dù đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên, công tác quản lý và sử dụng đất đai còn tồn tại, hạn chế như: tranh chấp đất đai, khiếu nại, tố cáo, vi phạm pháp luật về đất đai còn nhiều nhưng việc xử lý còn hạn chế. Nguyên nhân là do đất đai có tính lịch sử, phức tạp; việc thi hành pháp luật về đất đai ở một số nơi còn chưa nghiêm; chính sách, pháp luật còn có những bất cập, một số nội dung của pháp luật có liên quan chưa thống nhất, đồng bộ với pháp luật về đất đai; việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý chưa được thực hiện tốt; một số nội dung phát sinh mới trong thực tiễn nhưng pháp luật chưa có quy định điều chỉnh.
Ngày 18 tháng 01 năm 2024, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 5, Quốc hội khóa XV thông qua Luật Đất đai số 31/2024/QH15 với 16 chương 260 điều (Luật Đất đai năm 2024). Luật Đất đai năm 2024 có nhiều nội dung mới mang tính đột phá quan trọng, trong đó có các quy định để tăng cường công tác thanh tra kiểm tra, xử lý vi phạm về đất đai. Tại Luật Đất đai năm 2024 và các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật đã bổ sung nhiều quy định yêu cầu các tổ chức, cá nhân thực hiện để quản lý, sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả; một số hành vi vi phạm, hình thức, mức xử phạt đã không còn phù hợp đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình thực tế, bảo đảm tính khả thi.
Ngày 05 tháng 3 năm 2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 222/QĐ-TTg phân công các Bộ, ngành chuẩn bị nội dung quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai, trong đó đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì xây dựng Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Đối với quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian qua, xong vẫn còn tồn tại một số bất cập sau:
Thứ nhất, mức xử phạt còn nhẹ, chưa bảo đảm tính răn đe.
Thứ hai, do lịch sử quá trình quản lý, sử dụng đất đai phức tạp, nhiều hành vi vi phạm đã xảy ra trong quá khứ chưa được phát hiện, xử lý, sau đó người sử dụng đất lại tiếp tục mua bán, chuyển nhượng qua nhiều lần không đúng quy định của pháp luật (giấy tờ viết tay), có những trường hợp người chuyển nhượng đã chết, chuyển đi nơi khác, tổ chức đã giải thể, không còn hoạt động... Đến nay, nhiều trường hợp người đang sử dụng đất không phải là người vi phạm, vì vậy việc xử lý là rất khó khăn, phức tạp, việc xác định hành vi sử dụng đất sai mục đích, lấn, chiếm đất đai, vi phạm các quy định về thực hiện quyền của người sử dụng đất… nhất là các hành vi vi phạm đã xảy ra trước ngày 15/10/1993 (cách đây hơn 30 năm) là rất khó xác định, thời hiệu xử phạt đã hết (không xử phạt nhưng vẫn phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả). Việc yêu cầu phải xử lý vi phạm đối với các trường hợp này là rất khó khăn, đặc biệt là biện pháp khắc phục hậu quả “buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất” trong khi nhiều trường hợp việc sử dụng đất hiện tại lại phù hợp với quy hoạch đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt tại thời điểm hiện tại...
Luật Đất đai năm 2003, 2013, 2024 đều cho phép xem xét, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các trường hợp đã sử dụng đất trước ngày 15/10/1993. Mặt khác, Điều 236 Bộ Luật Dân sự quy định về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đã quy định: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.
Trường hợp vẫn quy định phải xử lý đối với trường hợp nêu trên thì sẽ phát sinh nhiều thủ tục đi kèm như: phải lập biên bản vi phạm, xác định đối tượng vi phạm, xác định thời điểm sử dụng đất, ra quyết định xử phạt… sau đó mới làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận cho người sử dụng đất, như vậy sẽ mất thời gian, tăng chi phí xã hội do phải thực hiện thủ tục hành chính, tốn kém cho ngân sách nhà nước.
Thứ ba, một số biện pháp khắc phục hậu quả chưa phù hợp với thực tế, cụ thể như sau:
- Nghị định số 91/2019/NĐ-CP quy định một trong những biện pháp khắc phục hậu quả đối với trường hợp đã nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất không phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt là buộc trả lại đất. Tuy nhiên, một số trường hợp bên chuyển nhượng, góp vốn, cho thuê quyền sử dụng đất là tổ chức đã giải thể, cá nhân đã chết hoặc không tìm thấy nên không thể trả lại đất. Đồng thời, Luật Đất đai lại không quy định nếu không trả lại được đất thì Nhà nước thu hồi. Do vậy không có cơ sở để thu hồi đất. Điều này gây khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện.
- Nghị định số 91/2019/NĐ-CP quy định một trong các biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi hủy hoại đất là buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm. Thực tế cho thấy hậu quả của hành vi “hủy hoại đất” rất đa dạng (làm biến dạng địa hình, làm suy giảm chất lượng đất...), tuy nhiên không phải hậu quả nào cũng phải hoặc có thể khôi phục lại tình trạng như ban đầu, có những trường hợp sau vi phạm việc sử dụng đất lại mang lại hiệu quả hơn (đào đất làm đường, đào ao thả cá, lấp ao để trồng cây...). Do vậy, khi áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả này, một số địa phương gặp lúng túng khi yêu cầu người có hành vi vi phạm khôi phục lại tình trạng ban đầu của thửa đất.
Thứ tư, tại Nghị định số 91/2019/NĐ-CP một số khái niệm, thuật ngữ, hành vi vi phạm cụ thể còn chưa rõ, khó xác định trên thực tế dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng xử lý vi phạm trong lĩnh vực đất đai;
Thứ năm, Luật Đất đai năm 2024 có nhiều điểm mới so với Luật Đất đai năm 2013, như việc cho phép cấp Giấy chứng nhận đối với các trường hợp không có giấy tờ mà sử dụng ổn định trước ngày 01/7/2014 (kể cả các trường hợp mua bán bằng giấy tờ viết tay trước ngày 01/7/2014); hành vi sử dụng đất không đúng mục đích không còn là hành vi bị nghiêm cấm mà còn cho phép được sử dụng đa mục đích đối với một số trường hợp (Điều 218 Luật Đất đai năm 2024); điều kiện để nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp cũng được mở rộng đối tượng, hạn mức...
Từ những lý do trên, việc ban hành Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là cần thiết, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 4 chương và 36 điều quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, cụ thể như sau:
- Chương I: Điều 1- Điều 7.
- Chương II: Điều 8 - Điều 29.
- Chương III: Điều 30 – Điều 33.
- Chương IV: Điều 34 – Điều 36.
4. Nghị định số 124/2024/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 86/2018/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2018 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 20 tháng 11 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Nghị định ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ một số điều của Nghị định 86/2018/NĐ-CP ngày 06/6/2024 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục. Để giải quyết một số điểm bất cập, chưa phù hợp với thực tế, liên quan đến các vấn đề như: Đối tượng liên kết giáo dục; Quy hoạch; Việc thực hiện công khai các yếu tố nước ngoài của cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài; Quyền tự chủ của cơ sở giáo dục, tăng cường hậu kiểm; Lộ trình đầu tư; việc quản lý, đánh giá nội dung chương trình; Quy định, thủ tục thành lập và hoạt động của phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học nước ngoài tại Việt Nam; Trách nhiệm thanh kiểm tra, đánh giá và giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm theo thẩm quyền của địa phương.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 3 điều sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 86/18/NĐ-CP ngày 06/6/2024 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục và 01 Phụ lục, cụ thể như sau:
- Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 86/2018/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2018 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục
- Điều 2. Bổ sung, thay thế, bỏ một số từ, cụm từ tại một số điều của Nghị định số 86/2018/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2018 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục
- Điều 3. Hiệu lực thi hành.
- Phụ lục: Các mẫu văn bản về phê duyệt, gia hạn, chấm dứt liên kết giáo dục với nước ngoài; thành lập văn phòng đại điện; cho phép hoạt động giáo dục của cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; giải thể cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông có yếu tố nước ngoài; đề cương báo cáo;…
Nghị định tập trung sửa đổi một số các quy định
- Bổ sung quy định liên kết tổ chức thi cấp chứng chỉ năng lực ngoại ngữ của nước ngoài là việc hợp tác giữa cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc tổ chức được thành lập và hoạt động hợp pháp trong lĩnh vực giáo dục tại Việt Nam với cơ quan, tổ chức, cơ sở đánh giá năng lực ngoại ngữ được thành lập và hoạt động hợp pháp ở nước ngoài thông qua văn bản thỏa thuận hoặc hợp đồng liên kết để tổ chức thi cấp chứng chỉ năng lực ngoại ngữ của nước ngoài tại Việt Nam.
- Cơ sở giáo dục hoặc tổ chức kinh tế sau khi nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp thì phải đáp ứng các điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật Đầu tư, điều kiện thành lập cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài tại Nghị định số 86/2018/NĐ-CP, Nghị định này và các điều kiện liên quan đến nghĩa vụ tài chính về tiền thuê đất đối với thời gian thuê đất còn lại (nếu có), các khoản thuế và phí liên quan theo quy định của pháp luật về đất đai trong quá trình triển khai hoạt động của cơ sở giáo dục.
- Bổ sung 01 Điều quy định về Đối tượng liên kết giáo dục (Điều 6), theo đó:
+ Bên Việt Nam: Cơ sở giáo dục mầm non tư thục, cơ sở giáo dục phổ thông tư thục do nhà đầu tư trong nước đầu tư và bảo đảm điều kiện hoạt động, được thành lập và hoạt động tại Việt Nam.
+ Bên nước ngoài:
(i) Cơ sở giáo dục được thành lập và hoạt động hợp pháp ở nước ngoài, có thời gian hoạt động ít nhất 05 năm ở nước ngoài tính đến ngày nộp hồ sơ và không vi phạm pháp luật của nước sở tại trong thời gian hoạt động, có giảng dạy trực tiếp, có giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục còn hiệu lực hoặc được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về giáo dục của nước ngoài công nhận về chất lượng giáo dục;
(ii) Tổ chức cung cấp chương trình giáo dục được thành lập và hoạt động hợp pháp ở nước ngoài, có thời gian hoạt động cung cấp chương trình giáo dục mầm non hoặc phổ thông ít nhất là 05 năm tính đến ngày nộp hồ sơ xin thực hiện liên kết giáo dục.
- Nghị định bổ sung khoản 5a Điều 35 về việc dự án đầu tư thành lập phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học nước ngoài tại Việt Nam phải có vốn đầu tư tối thiểu là 500 tỷ đồng (không bao gồm các chi phí sử dụng đất). Đến thời điểm thẩm định cho phép thành lập phân hiệu trường đại học, giá trị đầu tư phải thực hiện được trên 250 tỷ đồng.
Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 6 Điều 35, theo đó: Đối với các cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài không xây dựng cơ sở vật chất mới mà chỉ thuê lại hoặc do bên việt Nam góp vốn bằng cơ sở vật chất sẵn có để triển khai hoạt động thì mức đầu tư ít nhất phải đạt 70% các mức quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5a Điều này. Đến thời điểm thẩm định cho phép hoạt động giáo dục, giá trị đầu tư phải thực hiện được trên 50% tổng số vốn đầu tư và nhà đầu tư phải cam kết đầu tư đủ số vốn trong thời hạn 5 năm kể từ ngày có quyết định cho phép hoạt động.
- Về chương trình giáo dục: Nghị định sửa đổi bổ sung khoản 1 Điều 37 theo hướng: Chương trình giáo dục của nước ngoài được thực hiện tại Việt Nam phải bảo đảm các yêu cầu sau:
+ Được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về giáo dục của nước sở tại công nhận hoặc kiểm định chương trình giáo dục đạt tiêu chuẩn chất lượng theo tiêu chuẩn nước sở tại; được giảng dạy trực tiếp ít nhất 05 năm ở nước sở tại tính đến ngày nộp hồ sơ đăng ký hoạt động; được cơ sở, tổ chức giáo dục nước ngoài sở hữu chương trình giáo dục chấp thuận cho phép sử dụng tại Việt Nam;
+ Không có nội dung gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích cộng đồng; không truyền bá tôn giáo, xuyên tạc lịch sử; không ảnh hưởng xấu đến văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam;
+ Bảo đảm liên thông giữa các cấp học và trình độ đào tạo và tính liên thông khi học sinh chuyển sang học tập tại cơ sở giáo dục công lập theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
+ Chương trình giáo dục của nước ngoài giảng dạy cho học sinh người Việt Nam phải bảo đảm mục tiêu giáo dục phù hợp với mục tiêu giáo dục của Việt Nam và đáp ứng quy định tại điểm a, điểm b và điểm c khoản này.
- Nghị định sửa đổi bổ sung nhiều điểm kỹ thuật như: điểm b khoản 1 Điều 7 về Chương trình tích hợp; khoản 2 Điều 14 về trách nhiệm của các bên liên kết giáo dục; khoản 1 Điều 15 về đối tượng liên kết đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ; khoản 2 Điều 17 về việc đáp ứng yêu cầu của chương trình đào tạo; khoản 2 Điều 18; sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 20 về kiểm tra, thi, đánh giá, công nhận tốt nghiệp và cấp văn bằng, chứng chỉ; Điều 22 về thẩm quyền phê duyệt liên kết đào tạo; bổ sung khoản 8, 9 Điều 32 về quyền và nghĩa vụ của cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài; khoản 1, bổ sung khoản 3 Điều 33 về điều kiện về giáo dục để cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; khoản 2 Điều 35 về vốn đầu tư …và nhiều nội dung quan trọng khác.
- Nghị định cũng bổ sung nhiều quy định chuyển tiếp quan trọng nhằm tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục.
5. Nghị định số 125/2024/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20 tháng 11 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Nghị định số 125 ban hành để thay thế Nghị định 46/2017/NĐ-CP 21/4/2017 của Chính phủ quy định về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và Nghị định số 135/2018/NĐ-CP ngày 04/10/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 46/2017/NĐ-CP (sau đây gọi là Nghị định 46 và 135) nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập tại Nghị định số 46 và 135; thực hiện chủ trương của Chính phủ về cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, cải cách TTHC; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành (Luật Giáo dục năm 2019, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục năm 2018, Luật Đầu tư năm 2020,...).
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 09 chương, 122 điều và 4 Phụ lục quy định về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, cụ thể như sau:
Nghị định này áp dụng đối với cơ sở giáo dục mầm non; nhóm trẻ độc lập, lớp mẫu giáo độc lập, lớp mầm non độc lập; cơ sở giáo dục phổ thông; cơ sở giáo dục thường xuyên; trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập; trường chuyên biệt; trường cao đẳng thực hiện hoạt động giáo dục nghề nghiệp đối với nhóm ngành đào tạo giáo viên có trình độ cao đẳng; cơ sở giáo dục đại học; tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục; tổ chức kinh doanh dịch vụ tư vấn du học; tổ chức và cá nhân khác thực hiện hoạt động giáo dục. Nghị định này không áp dụng đối với tổ chức hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp và kinh doanh dịch vụ tư vấn du học về giáo dục nghề nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
- Điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục:
+ Thành lập hoặc cho phép thành lập, cho phép hoạt động giáo dục, đình chỉ hoạt động giáo dục, sáp nhập, chia, tách, giải thế đối với: Cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, trường chuyên biệt;
+ Thành lập hoặc cho phép thành lập, đình chỉ hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể đối với: Cơ sở giáo dục thường xuyên, trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập;
+ Thành lập hoặc cho phép thành lập trường cao đẳng sư phạm; cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp đối với nhóm ngành đào tạo giáo viên trình độ cao đẳng; đình chỉ hoạt động giáo dục nghề nghiệp đối với nhóm ngành đào tạo giáo viên trình độ cao đẳng; thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp đối với nhóm ngành đào tạo giáo viên trình độ cao đẳng; sáp nhập, chia, tách, giải thể trường cao đẳng sư phạm; sáp nhập trường cao đẳng vào trường đại học;
+ Thành lập hoặc cho phép thành lập trường đại học, phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học; cho phép trường đại học, phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học hoạt động đào tạo; đình chỉ hoạt động đào tạo của cơ sở giáo dục đại học, phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học; sáp nhập, chia, tách cơ sở giáo dục đại học; giải thể cơ sở giáo dục đại học, phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học; công nhận đại học vùng, đại học quốc gia;
+ Thành lập hoặc cho phép thành lập, cho phép hoạt động, đình chỉ hoạt động, giải thể tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục của Việt Nam; công nhận tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài hoạt động tại Việt Nam;
+ Đăng ký kinh doanh dịch vụ tư vấn du học; đình chỉ kinh doanh dịch vụ tư vấn du học; thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ tư vấn du học.
- Ban hành kèm theo Nghị định 04 Phụ lục:
+ Phụ lục I: Mẫu văn bản đối với cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, trường chuyên biệt, cơ sở giáo dục thường xuyên;
+ Phụ lục II: Mẫu văn bản về trường cao đẳng sư phạm;
+ Phụ lục III: Mẫu văn bản về cơ sở giáo dục đại học, phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học;
+ Phụ lục IV: Mẫu văn bản về tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục, kinh doanh dịch vụ tư vấn du học.
6. Nghị định số 126/2024/NĐ-CP ngày 08 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 26 tháng 11 năm 2024.
Nghị định số 126/2024/NĐ-CP thay thế Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội và Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13/4/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP; Bãi bỏ Quyết định số 68/2010/QĐ-TTg ngày 01/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định hội có tính chất đặc thù và Quyết định số 71/2011/QĐ-TTg ngày 20/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ về bảo đảm, hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước đối với các hội có tính chất đặc thù.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Tính đến 31/12/2023 cả nước có 71.891 hội. Các hội phát triển đa dạng và phong phú, có quy mô, phạm vi hoạt động khác nhau. Cơ bản các hội đã phát huy vai trò, chức năng tập hợp, đoàn kết và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên, vai trò, vị trí của hội ngày càng được nâng cao và có những đóng góp thiết thực vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, một số hội hoạt động còn hình thức, hiệu quả chưa cao, chưa tuân thủ quy định của pháp luật và điều lệ hội trong tổ chức và hoạt động.
Công tác quản lý nhà nước về hội trong thời gian vừa qua đã nảy sinh nhiều vấn đề bất cập về phương thức tổ chức, hoạt động của hội, chế độ chính sách của Nhà nước đối với hội và người làm việc tại hội, thiếu chế tài xử lý vi phạm, thiếu quy định, chưa rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, công tác kiểm tra, quy trình, thủ tục thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất hội... chưa đảm bảo tính chặt chẽ.
Sau hơn 14 năm thực hiện Nghị định số 45/2010/NĐ-CP đến nay, nhiều nội dung của Nghị định không còn phù hợp, chưa bao quát, điều chỉnh hết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn tổ chức, hoạt động của hội, cũng như công tác quản lý nhà nước đặt ra trong tình hình hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.
Đồng thời, Ban Bí thư đã ban hành các văn bản chỉ đạo về hội: Kết luận số 102-KL/TW
[2]; Thông báo kết luận số 158-TB/TW
[3]; Quyết định số 118-QĐ/TW
[4]. Để cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo nêu trên và tạo điều kiện cho tổ chức, công dân Việt Nam thực hiện quyền lập hội, thể hiện đầy đủ quyền công dân, quyền và trách nhiệm của tổ chức; có chính sách hỗ trợ hội khi thực hiện nhiệm vụ được giao; minh bạch và đơn giản hoá một số thủ tục hành chính về hội. Đồng thời tiếp tục thể chế quan điểm, chủ trương của Đảng về hội quần chúng, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng thể hiện đầy đủ quyền công dân, tổ chức được quy định trong Hiến pháp 2013 và đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ của hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành về hội, vừa khắc phục được các tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ an ninh quốc gia trong bối cảnh hiện nay, Bộ Nội vụ đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 126/2024/NĐ-CP.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 08 chương 53 điều, thêm 11 Điều so với Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, cụ thể như sau:
- Chương I. Quy định chung, gồm 09 Điều (từ Điều 1 đến Điều 9);
- Chương II. Thành lập hội, gồm 08 Điều (từ Điều 10 đến Điều 17);
- Chương III. Tổ chức hội, gồm 05 Điều (từ Điều 18 đến Điều 22);
- Chương IV. Hoạt động của hội, gồm 07 Điều (từ Điều 23 đến Điều 30);
- Chương V. Chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, đình chỉ có thời hạn, giải thể và đổi tên hội, gồm 06 Điều (từ Điều 31 đến Điều 36);
- Chương VI. Một số quy định đối với hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ, gồm 06 Điều (từ Điều 37 đến Điều 42);
- Chương VII. Quản lý nhà nước đối với hội, trong đó quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, gồm 08 Điều (từ Điều 43 đến Điều 50);
- Chương VIII. Điều khoản thi hành, gồm 03 Điều (từ Điều 51 đến Điều 53).
- Các Phụ lục I, II, III kèm theo.
Các nội dung mới của Nghị định
- Nhóm quy định chung cho các hội
+ Bổ sung đối tượng không chịu sự điều chỉnh của Nghị định:
“cơ sở tín ngưỡng”; “tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp theo quy định của Bộ luật Lao động” tại điểm b, c Điều 2.
+ Bổ sung quy định về giải thích từ ngữ
“không vì mục tiêu lợi nhuận”; “cơ sở dữ liệu hội” tại khoản 2, khoản 3 Điều 3.
+ Bổ sung quy định hội sinh viên tại các trường đại học, cao đẳng được xác định tương đương hội hoạt động trong phạm vi cấp xã cho phù hợp thực tế hiện nay (khoản 4 Điều 4)
+ Bổ sung Điều 7 về chính sách của Nhà nước đối với hội, Điều 8 về cấp có thẩm quyền giao nhiệm vụ cho hội, Điều 9 cơ sở dữ liệu về hội.
+ Về thẩm quyền giải quyết các thủ tục về hội: đã phân cấp và bổ sung Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết các thủ tục về hội, phê duyệt điều lệ đối với hội hoạt động trong phạm vi huyện, xã.
+ Thẩm quyền công nhận ban vận động thành lập hội quy định tại khoản 2 Điều 12 gồm: (1) Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chính mà hội dự kiến hoạt động quyết định công nhận ban vận động thành lập hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc hoặc liên tỉnh; (2) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định công nhận ban vận động thành lập hội hoạt động trong phạm vi tỉnh; (3) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định công nhận ban vận động thành lập hội hoạt động trong phạm vi huyện, xã.
- Nhóm quy định về quyền và nghĩa vụ, chính sách, chế độ, hoạt động của hội nói chung và hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ nói riêng:
Thể chế hoá chủ trương của Đảng tại Kết luận số 102-KL/TW của Bộ Chính trị: “không quy định hội có tính chất đặc thù”; Quyết định số 118-QĐ/TW ngày 22/8/2023 của Ban Bí thư quy định danh sách hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở Trung ương, theo đó, Nghị định số 126/2024/NĐ-CP đã bỏ tên gọi hội đặc thù, quy định cụ thể “hội do đảng Nhà nước giao nhiệm vụ”.
+ Về quyền và nghĩa vụ của hội: cập nhật, bổ sung những quy định của pháp luật chuyên ngành giao cho hội Điều 23, Điều 24 Nghị định số 126/2024/NĐ-CP đã bổ sung quyền, nghĩa vụ của hội:
(i) Thành lập và quản lý chặt chẽ tổ chức thuộc hội theo quy định của pháp luật và điều lệ hội phù hợp với tôn chỉ, mục đích và lĩnh vực hoạt động của hội (khoản 9 Điều 23);
(ii) Được cấp chứng chỉ hành nghề, chứng chỉ năng lực, chứng chỉ khác liên quan đến lĩnh vực hoạt động của hội khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật (khoản 10 Điều 23);
(iii) Không được lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện các hoạt động mê tín, dị đoan; hoạt động tài chính, kinh doanh trái phép làm rối loạn thị trường trong nước (khoản 2 Điều 24);
(iv) Không công nhận, vinh danh, suy tôn, phong tặng các danh hiệu trái quy định của pháp luật (khoản 3 Điều 24);
(v) Tuân thủ các quy định về tiếp nhận, quản lý và sử dụng viện trợ nước ngoài và các quy định pháp luật khác có liên quan; quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài trợ, viện trợ và chịu trách nhiệm là chủ khoản viện trợ theo quy định của pháp luật (khoản 8 Điều 24);
(vi) Báo cáo việc thành lập các tổ chức thuộc hội với cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập hội, cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chính mà hội hoạt động tương ứng với phạm vi hoạt động của hội và chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý trực tiếp, toàn diện tổ chức, hoạt động của các tổ chức này theo quy định của pháp luật và điều lệ hội (khoản 11 Điều 24);
(vii) Báo cáo kết quả giải quyết tranh chấp, đơn, thư phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo liên quan đến hội với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (khoản 13 Điều 24);
(viii) Đăng ký mã số thuế và kê khai thuế, nộp thuế, phí, lệ phí và thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán, thống kê theo quy định của pháp luật (khoản 17 Điều 24);
(ix) Ban hành các quy chế trong tổ chức và hoạt động của hội phù hợp với quy định pháp luật và điều lệ hội (khoản 18 Điều 24);
(x) Cập nhật tình hình tổ chức, hoạt động của hội vào cơ sở dữ liệu về hội và phối hợp xây dựng, vận hành cơ sở dữ liệu về hội (khoản 20 Điều 24);
(xi) Thực hiện các quy định của pháp luật về phòng chống tham nhũng, phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố (khoản 21 Điều 24);
+ Về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ được quy định tại Điều 38 Nghị định.
+ Bổ sung quy trình hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước đối với nhiệm vụ được giao (Điều 27). Đối với các hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 39 Nghị định.
+ Quy định chương riêng về hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ (từ Điều 37 đến Điều 42)
+ Điều 37 xác định Hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở Trung ương và địa phương: Quy định danh sách 30 hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở Trung ương; đồng thời giao Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ điều kiện, yêu cầu nhiệm vụ của địa phương để xác định hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở địa phương;
+ Điều 38 quy định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm vụ hội: Ngoài những quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm chung (Điều 23, Điều 24) thì hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ có một số quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm riêng.
+ Điều 39, Điều 40 quy định riêng về chính sách của Nhà nước đối với hội và người làm việc tại hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ;
+ Thể chế hoá Điều 2, Điều 3, Điều 9, Điều 10, Điều 11 Quyết định số 118-QĐ/TW: Điều 41 Nghị định số 126/2024/NĐ-CP quy định cơ quan lãnh đạo của hội gồm đại hội, ban chấp hành, ban thường vụ, thường trực hội; Điều 42 quy định về tiêu chuẩn chủ tịch, phó chủ tịch và quy trình nhân sự đối với hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ; đồng thời quy định cụ thể số lượng phó chủ tịch chuyên trách.
- Nhóm quy định về thành lập hội, tổ chức và hoạt động của hội:
+ Về điều kiện thành lập hội (Điều 10): bổ sung thêm điều kiện mới là “Có tài sản để đảm bảo hoạt động của hội” nhằm đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự đảm bảo kinh phí và để hội có thể tổ chức và hoạt động phải có kinh phí.
+ Bổ sung nội dung sử dụng chung điều lệ đối với tất cả các hội có cùng lĩnh vực hoạt động chính (khoản 5 Điều 21).
+ Về Ban vận động thành lập hội (Điều 11, Điều 12):
(i) Quy định tất cả các thành viên tham gia ban vận động thành lập hội phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, đảm bảo sức khoẻ và không có án tích (có sơ yếu lý lịch, lý lịch tư pháp). Thành viên ban vận động thành lập hội nếu thuộc diện quản lý của cấp có thẩm quyền và được cấp có thẩm quyền đồng ý thì không phải cung cấp phiếu lý lịch tư pháp số 1 (điểm c khoản 1 Điều 12); số thành viên ban vận động thành lập hội phải đảm bảo tính đại diện cho các vùng miền (đối với hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc hoặc liên tỉnh); tại hai đơn vị hành chính cấp huyện trở lên (đối với hội hoạt động trong phạm vi tỉnh) và có ít nhất 03 thành viên (đối với hội hoạt động trong phạm vi huyện, xã) (khoản 5 Điều 11).
(ii) Về thời hạn của Quyết định công nhận Ban Vận động được quy định là 12 tháng (trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày quyết định công nhận ban vận động thành lập hội có hiệu lực, ban vận động thành lập hội không hoàn thiện 01 bộ hồ sơ thành lập hội theo quy định gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì quyết định công nhận ban vận động thành lập hội đương nhiên hết hiệu lực (khoản 4 Điều 12).
(iii) Về thời gian xem xét cho phép thành lập hội: Nghị định số 126/2024/NĐ-CP điều chỉnh lại thời gian xem xét cho phép thành lập hội từ 30 ngày làm việc lên thành 60 ngày làm việc.
(iv) Về hội viên (Điều 17): Kế thừa các nội dung còn phù hợp tại Điều 15, Điều 16, Điều 17 và Điều 18 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP để xây dựng thành Điều 17 Nghị định số 126/2024/NĐ-CP quy định về hội viên; trong đó không quy định hội viên là các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tham gia làm hội viên chính thức, hội viên liên kết, hội viên danh dự.
- Nhóm quy định về tổ chức của hội:
+ Quy định về đại hội (Điều 19):
(i) Kế thừa các quy định về hồ sơ báo cáo tổ chức đại hội nhiệm kỳ, đại hội bất thường và cách tính thời hạn tổ chức Đại hội từ Thông tư số 03/2013/TT-BNV; Thông tư số 01/2022/TT-BNV;
(ii) Bổ sung quy định về hồ sơ báo cáo tổ chức đại hội thành lập;
(iii) Bổ sung quy định đối với nhân sự dự kiến tham gia chấp hành, ban thường vụ hoặc giữ các chức danh chủ tịch, phó chủ tịch hội phải có ý kiến đồng ý của cơ quan có thẩm quyền theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ (điểm h khoản 9 Điều 19);
(iv) Bổ sung quy định về hình thức tổ chức Đại hội: Đại hội có thể tổ chức trực tiếp hoặc qua nền tảng ứng dụng trực tuyến hoặc kết hợp cả hai hình thức trực tiếp và trực tuyến để nhằm tạo điều kiện cho các hội trong công tác tổ chức Đại hội (khoản 3 Điều 19).
(v) Bổ sung quy định trước khi tổ chức đại hội 45 ngày làm việc (đối với đại hội nhiệm kỳ, đại hội bất thường) hoặc 15 ngày làm việc (đối với đại hội thành lập), ban chấp hành hội hoặc ban vận động thành lập hội gửi 01 bộ hồ sơ báo cáo cơ quan nhà nước theo quy định (Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định là trước khi tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 30 ngày).
+ Báo cáo kết quả đại hội, phê duyệt điều lệ hội (Điều 21):
(i) Kế thừa nội dung Điều 12, Điều 13 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP và tích hợp thành Điều 21 Nghị định số 126/2024/NĐ-CP quy định về báo cáo kết quả đại hội, phê duyệt Điều lệ hội; bổ sung trường hợp điều lệ hội thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, thì hội có trách nhiệm gửi đề nghị phê duyệt điều lệ về Bộ Nội vụ để xem xét trình Thủ tướng Chính phủ theo quy định (Khoản 3 Điều 21);
(ii) Bổ sung trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập hội có văn bản thông báo tính hợp pháp khi hội đã tổ chức đại hội thành công, đúng quy định (khoản 6 Điều 21);
+ Ban chấp hành, ban thường vụ, chủ tịch hội (Điều 22)
(i) Bổ sung quy định tạm đình chỉ công tác và cho phép công tác trở lại đối với các chức danh trên. Đối với hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ phải báo cáo cấp có thẩm quyền cho ý kiến trước khi thực hiện (khoản 3 Điều 22).
(ii) Bổ sung quy định khi miễn nhiệm, bãi nhiệm chủ tịch hội phải đồng thời bầu chủ tịch khác để thay thế hoặc phân công người điều hành hoạt động của hội trong thời gian chưa bầu được chủ tịch hội. Chủ tịch hội bị tạm đình chỉ công tác thì phó chủ tịch thường trực điều hành hoạt động của hội; trường hợp, hội không có phó chủ tịch thường trực thì phân công một phó chủ tịch điều hành hoạt động của hội để điều hành công việc của hội được thông suốt và hiệu quả không bị gián đoạn, ảnh hưởng (khoản 4 Điều 22).
+ Tiêu chuẩn, điều kiện của Chủ tịch hội: (i) Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt và không giữ chức danh chủ tịch quá 02 hội; (ii) Không phải là cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức đang trực tiếp quản lý hoặc tham mưu quản lý nhà nước về lĩnh vực hoạt động chính của hội; trừ trường hợp được cấp có thẩm quyền quyết định theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ; (iii) Ngoài những tiêu chuẩn, điều kiện chung quy định nêu trên, hội quy định cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện, độ tuổi, sức khỏe, nhiệm kỳ của chủ tịch hội.
- Nhóm quy định về hoạt động của hội:
+ Quy định về chi nhánh, văn phòng đại diện, chi hội, các phòng, ban chuyên môn và tổ chức có tư cách pháp nhân thuộc hội (Điều 25): Kế thừa các quy định tại Điều 4, Điều 6 Thông tư số 03/2013/TT-BNV và đảm bảo quyền của pháp nhân trong Bộ luật Dân sự, Nghị định số 126/2024/NĐ-CP đã xây dựng Điều 25: bổ sung quy định hội có trách nhiệm quản lý chặt chẽ, toàn diện các tổ chức thuộc hội, đảm bảo nguyên tắc không vì mục tiêu lợi nhuận trong quá trình tổ chức và hoạt động. Đồng thời bổ sung quy định, hội phải lấy ý kiến của cơ quan nhà nước cho phép thành lập hội về việc thành lập tổ chức pháp nhân trước khi gửi hồ sơ thành lập đến cơ quan có thẩm quyền; khi hội giải thể thì các tổ chúc thuộc hội đương nhiên chấm dứt hoạt động và phải thực hiện giải thể.
+ Bổ sung quy định về tài chính, tài sản của hội (Điều 26, kỷ luật và giải quyết phản ánh, kiến nghị, tranh chấp, khiếu nại, tố cáo trong nội bộ hội (Điều 29.
- Nhóm quy định về đổi tên, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, đình chỉ có thời hạn và giải thể hội:
+ Bổ sung quy định trường hợp hội chia, tách, sáp nhập, hợp nhất và giải thể hội khi thay đổi địa giới hành chính; đã bổ sung quy định hội tự giải thể trong trường hợp theo đề nghị của trên 1/2 tổng số hội viên chính thức hoặc nghị quyết của ban chấp hành hội (điểm c khoản 1 Điều 34);
+ Bổ sung Điều 30 về xử lý vi phạm, Điều 33 về đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với hội, Điều 35 về hội bị giải thể.
+ Sửa đổi Điều 31 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP thành Điều 36 (Giải quyết tài sản, tài chính khi hội chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, đình chỉ hoạt động có thời hạn, giải thể và thu hồi con dấu của hội) trong đó quy định chi tiết việc giải quyết tài sản, tài chính của hội khi hội bị đình chỉ, việc thanh toán các khoản nợ khi hội giải thể; đồng thời bổ sung quy định về thu hồi con dấu của hội (khoản 7 Điều 36) để phù hợp với quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng con dấu.
- Nhóm quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý nhà nước đối với hội:
+ Bổ sung rõ trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, trong đó có trách nhiệm của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ngoại giao, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp huyện tại Điều 43, Điều 44, Điều 45, Điều 46, Điều 47, Điều 48, Điều 49, Điều 50;
+ Bổ sung trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp huyện tại Điều 50.
+ Bổ sung nhiệm vụ quản lý, cập nhật, phối hợp xây dựng, vận hành cơ sở dữ liệu về hội tại khoản 12 Điều 43, khoản 12 Điều 44, khoản 14 Điều 49 và khoản 7 Điều 50 để đảm bảo đồng bộ, quản lý, chia sẻ cơ sở dữ liệu giữa các cơ quan liên quan.
+ Phân định rõ trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.
- Nhóm quy định về điều khoản thi hành: Nghị định số 126/2024/NĐ-CP đã bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật đã được tích hợp vào Nghị định số 126/2024/NĐ-CP
[5]; quy định điều khoản chuyển tiếp, hiệu lực thi hành và quy định mẫu trình bày văn bản trên cơ sở kế thừa toàn bộ mẫu trình bày văn bản tại Thông tư số 03/2013/TT-BNV của Bộ Nội vụ và bổ sung mẫu về sơ yếu lý lịch cá nhân; quyết định đình chỉ hoạt động có thời hạn và quyết định cho phép hội hoạt động trở lại... để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ khi thực hiện.
7. Nghị định số 127/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về công tác dân tộc
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 12 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Cơ sở chính trị, pháp lý
+ Thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác dân tộc, chính sách dân tộc tại văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
[6], Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
[7], Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/03/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới
[8], Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 23/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030…
+ Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013
[9], các đạo luật và Nghị quyết của Quốc hội
[10] có nội dung liên quan đến quyền con người, quyền công dân, chính sách dân tộc, Điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên
[11]…, đảm bảo các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được triển khai thực hiện toàn diện, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và phát huy lợi thế, tiềm năng của vùng và tinh thần tự lực của đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, đưa ra được các biện pháp quản lý nhà nước tổ chức triển khai thực hiện công tác dân tộc, chính sách dân tộc thống nhất, đồng bộ, hiệu lực, hiện quả.
Cơ sở thực tiễn:
Tiếp tục kế thừa, phát huy những kết quả đạt được của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, đồng thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Nghị định số 05/2011/NĐ-CP (như một số nội dung không còn phù hợp với hệ thống văn bản, pháp luật hiện hành, một số nội dung chưa thống nhất, đồng bộ và chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn về lĩnh vực công tác dân tộc, chính sách dân tộc trong tình hình mới
[12]; thiếu biện pháp, giải pháp cụ thể về cơ chế, nguồn lực tài chính; một số chính sách dân tộc đã và đang triển khai trên thực tế nhưng chưa được thể chế hóa vào Nghị định
[13]...).
- Mục đích ban hành:
+ Tiếp tục thể chế hóa đầy đủ, toàn diện đường lối, chủ trương của Đảng về công tác dân tộc, chính sách dân tộc.
+ Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 2013, các đạo luật, Nghị quyết của Quốc hội về lĩnh vực công tác dân tộc; quy phạm hóa các văn bản, chính sách để khắc phục những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, nội dung không còn phù hợp của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách dân tộc, đảm bảo thống nhất, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, góp phần đạt được nhiều thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tiếp tục củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 04 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về công tác dân tộc, cụ thể như sau:
- Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP.
- Điều 2. Bổ sung, thay thế, bỏ một số từ, cụm từ tại một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP.
- Điều 3. Trách nhiệm tổ chức thực hiện.
- Điều 4. Hiệu lực thi hành.
- Phạm vi điều chỉnh: Nghị định này sửa đổi, bổ sung một số điểm, khoản, điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP (gồm: Điều 4, 4a, 5, 7, 12, 12a, 17, 18, 21, 23, 24, 25), đảm bảo các nội dung của Nghị định phù hợp với thẩm quyền, nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ đối với công tác dân tộc theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Đối tượng áp dụng: Nghị định này áp dụng đối với cơ quan nhà nước khi thực hiện công tác dân tộc; tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài khi tham gia thực hiện chính sách dân tộc trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nội dung cơ bản của Nghị định
- Sửa đổi, bổ sung làm rõ từ ngữ “Công tác dân tộc”, “Vùng đồng bào dân tộc thiểu số” tại Điều 4. Theo đó, quy định rõ nội hàm của “Vùng đồng bào dân tộc thiểu số” là địa bàn cấp tỉnh, huyện, xã, thôn có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ổn định (là căn cứ để phân định những địa bàn này theo trình độ phát triển)... đảm bảo thể chế hoá Kết luận 65-KL/TW
[14], đảm bảo sử dụng thuật ngữ này thống nhất, đồng bộ với quy định của Hiến pháp năm 2013 (khoản 3 Điều 61 và khoản 2 Điều 75), Nghị quyết 88/2019/QH14 và hệ thống chính sách, pháp luật hiện hành về công tác dân tộc.
- Bổ sung Điều 4a vào sau Điều 4 về “Phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo trình độ phát triển” (phân định 3 khu vực) để thể chế hóa Kết luận số 65-KL/TW, đồng thời, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong tổ chức thực hiện phân định 3 khu vực như hiện nay, làm cơ sở để triển khai thực hiện chính sách dân tộc ổn định, lâu dài, có trọng tâm, trọng điểm.
- Bổ sung hành vi “Lợi dụng, kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi”
[15] tại Điều 7 để đảm bảo có sự nêu gương của cán bộ, đảng viên; nâng cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân và người dân trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm thúc đẩy các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
- Sửa đổi, bổ sung tên Điều 12 thành “Chính sách đối với người có uy tín, biểu dương, tôn vinh điển hình tiên tiến trong đồng bào dân tộc thiểu số”; quy định cụ thể hơn về các chế độ đối với người có uy tín đã thực hiện ổn định tại Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg ngày 06/3/2018 (được sửa đổi, bổ sung theo Quyết định số 28/2023/QĐ-TTg ngày 23/11/2023); đồng thời, bổ sung các hoạt động biểu dương, tôn vinh, vinh danh đối với người có uy tín và các điển hình tiên tiến trong đồng bào dân tộc thiểu số... nhằm thể chế hoá điểm g khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 88/2019/QH14 và quy định tại Tiểu dự án 1 của Dự án 10 của Chương trình mục tiêu quốc gia theo Quyết định 1719/QĐ-TTg.
- Bổ sung Điều 12a vào sau Điều 12 quy định cụ thể về đối tượng, nội dung, định mức chi thăm hỏi, chúc mừng, tặng quà, động viên, gặp mặt đối với một số đơn vị, cá nhân là người dân tộc thiểu số để tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ và điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức triển khai thực hiện quy định này (thay thế Quyết định số 11/2010/QĐ-TTg và Quyết định số 199/QĐ-UBDT).
- Sửa đổi, bổ sung khoản 3, 4 Điều 17 đảm bảo đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả xây dựng, thực hiện chính sách dân tộc; tăng cường và nâng cao chất lượng sử dụng ngôn ngữ các dân tộc thiểu số trên các phương tiện thông tin đại chúng và hệ thống thông tin cơ sở …. nhằm thể chế hóa chủ trương
“Đẩy mạnh công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; tăng cường đồng thuận xã hội; phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thách thức, hòa nhập phát triển cùng với đất nước; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và lòng tin của đồng bào với Đảng và Nhà nước” tại Nghị quyết 88/2019/QH14.
- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 18 cho phù hợp với khoản 4
[16], bổ sung khoản 3a cho phù hợp với Điều 17 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật
[17], Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý và Điều 12 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013; sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 18 để quy định cụ thể trách nhiệm của Ủy ban Dân tộc trong tổ chức thực hiện chính sách này.
- Sửa đổi, bổ sung một số điều khoản tại Chương 3 (Quản lý nhà nước về công tác dân tộc) theo hướng đảm bảo các quy định quản lý nhà nước về công tác dân tộc thể chế hóa toàn diện, đầy đủ đường lối, chủ trương Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc trong tình hình mới; xác định rõ trách nhiệm của Ủy ban Dân tộc và các bộ, ngành, địa phương liên quan nhằm nâng cao hiệu quản thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước về công tác dân tộc trên cơ sở các nhiệm vụ, giải pháp tại Kết luận 65, Nghị quyết số 88/2019/QH14, Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ ban hành Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị định số 66/2022/NĐ-CP ngày 20/9/2022 của Chính phủ định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân tộc, Chương trình mục tiêu quốc gia theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg.
- Thay thế, bãi bỏ một số từ, cụm từ tại một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP để đảm bảo tính thống nhất với quy định của Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết số 88/2019/QH14….
8. Nghị định số 128/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 12 năm 2024.
Các hồ sơ thực hiện thủ tục hành chính nộp trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì áp dụng quy định của Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Sau khi được ban hành, Nghị định số 81/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại đã đem lại nhiều thuận lợi cho thương nhân thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại (thủ tục hành chính đã được đơn giản hóa và thực hiện trên Cổng dịch vụ công, một số trường hợp không phải thực hiện thủ tục hành chính, thời gian thực hiện thủ tục hành chính được rút ngắn, các trường hợp khuyến mại với hạn mức lên đến 100% được triển khai thực hiện...).
Tuy nhiên để thực hiện chủ trương của Chính phủ tại Nghị quyết số 76/NQ-CP và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ trong việc cắt giảm, đơn giản hóa quy trình, thủ tục hành chính cho thương nhân hơn nữa, Bộ Công Thương đã chủ động rà soát, tiếp nhận ý kiến của các cơ quan, tổ chức, thương nhân có liên quan và xác định được những nội dung có thể xem xét, sửa đổi, bổ sung của Nghị định 81/2018/NĐ-CP theo thẩm quyền của Chính phủ được giao trong Luật Thương mại.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 03 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại, cụ thể như sau:
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.
Điều 2. Bổ sung, thay thế và bãi bỏ một số quy định của Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.
Điều 3. Điều khoản thi hành.
Các quy định chủ yếu, các nội dung của văn bản quy phạm pháp luật, nội dung mới của quy định so với văn bản trước đó
- Bổ sung vào khoản 1 và khoản 2 Điều 6 hình thức khuyến mại quy định tại khoản 9 Điều 92 Luật Thương mại không áp dụng hạn mức tối đa về giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại.
- Sửa đổi quy định về Chương trình khuyến mại tập trung tại khoản 4, điểm a khoản 5 Điều 6 và khoản 2 Điều 7 theo hướng làm rõ cách thức ban hành và bỏ quy định giới hạn thời gian;
- Sửa đổi quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 17 theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính (thương nhân thực hiện khuyến mại theo các hình thức khuyến mại được quy định tại khoản 8 Điều 92 Luật Thương mại và các Điều 8, Điều 9, Điều 10, Điều 11 Nghị định này sẽ không phải thực hiện thủ tục hành chính thông báo hoạt động khuyến mại);
- Sửa đổi, bổ sung các quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 21 theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho thương nhân khi báo cáo kết quả thực hiện chương trình khuyến mại và nộp ngân sách nhà nước đối với giải thưởng không có người trúng thưởng. Thời hạn nộp báo cáo kết quả thực hiện chương trình khuyến mại là 45 ngày kể từ ngày kết thúc thời hạn trao thưởng cần được giữ nguyên để đảm bảo công tác quản lý nhà nước được thực thi hiệu quả, đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng và thời gian này cũng đủ dài để thương nhân báo cáo (hồ sơ báo cáo đã được quy định đơn giản theo mẫu số 07 Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này).
- Sửa đổi quy định tại điểm c khoản 1 và điểm d khoản 4 Điều 32 theo hướng quy định trách nhiệm của Bộ Công Thương cho phù hợp với nội dung đã điều chỉnh tại Điều 21 và bổ sung thêm thời hạn, mẫu báo cáo kết quả công tác quản lý nhà nước về xúc tiến thương mại của các Sở Công Thương hàng năm.
- Thay thế một số cụm từ tại các điều, khoản, điểm để đảm bảo thống nhất với quy định của pháp luật hiện hành.
- Bổ sung thêm Mẫu số 6a, Mẫu số 15 “Báo cáo công tác quản lý nhà nước về xúc tiến thương mại” và thay thế các Mẫu số 01, 02, 03, 06, 07, 08, 10, 13 và 14.
- Bãi bỏ quy định tại điểm c khoản 3 Điều 17, điểm c khoản 2 Điều 18, điểm d khoản 4 Điều 19 và bãi bỏ Mẫu số 09.
Các nội dung sửa đổi, bổ sung quy định tại Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại tập trung vào cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm bớt gánh nặng chi phí tuân thủ thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, giảm bớt khối lượng công việc và chi phí quản lý cho cơ quan quản lý nhà nước có liên quan.
9. Nghị định số 129/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 91/2026/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ về quản lý hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế; Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 30 tháng 10 năm 2024.
- Quy định chuyển tiếp:
+ Các cơ sở sản xuất, mua bán, xuất khẩu, nhập khẩu, kiểm nghiệm, khảo nghiệm chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế đã gửi hồ sơ tại Bộ Y tế trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành được tiếp tục thực hiện theo quy định tại Nghị định số 91/2016/NĐ-CP và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP, trừ trường hợp cơ sở tự nguyện hoàn thiện hồ sơ theo quy định tại Nghị định này.
+ Chế phẩm có nhãn đúng quy định tại Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa, Nghị định số 111/2021/NĐ-CP ngày 09 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế đã được sản xuất, nhập khẩu, lưu thông trước thời điểm Nghị định này có hiệu lực thi hành được tiếp tục lưu thông, sử dụng đến hết hạn sử dụng ghi trên nhãn chế phẩm.
+ Nhãn chế phẩm đúng quy định tại Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa, Nghị định số 111/2021/NĐ-CP ngày 09 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế đã sản xuất, in ấn trước thời điểm Nghị định này có hiệu lực thi hành thì được tiếp tục sử dụng để sản xuất chế phẩm, nhưng không quá 02 năm kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Y tế chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về hoá chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế. Bộ Y tế đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 91/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 về quản lý hoá chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong gia dụng và y tế. Nghị định số 91/2016/NĐ-CP đã góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực hoá chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong gia dụng và y tế (sau đây viết gọn là hoá chất, chế phẩm), đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh hoá chất, chế phẩm.
Thực hiện chủ trương cắt giảm điều kiện kinh doanh trong các lĩnh vực do Bộ Y tế quản lý, năm 2018, Bộ Y tế đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế, trong đó bao gồm lĩnh vực quản lý hoá chất, chế phẩm.
Tiếp tục thực hiện chủ trương cắt giảm, đơn giản hoá điều kiện kinh doanh và quy định liên quan đến thủ tục hành chính, Bộ Y tế đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1661/QĐ-TTg ngày 04/10/2021 phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế. Tại Quyết định này, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phương án sửa đổi, bổ sung Nghị định số 91/2016/NĐ-CP.
Ngày 30/8/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1015/QĐ-TTg Phương án phân cấp trong giải quyết thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý của các bộ, cơ quan ngang bộ. Trong đó, có phương án phân cấp thủ tục hành chính quy định tại Nghị định số 91/2016/NĐ-CP.
Mặt khác, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 91/2016/NĐ-CP và một số quy định được sửa đổi tại Nghị định số 155/2018/NĐ-CP đến nay, qua phản ánh của các tổ chức, cá nhân và kết quả rà soát của Bộ Y tế, Nghị định có một số quy định bất cập, không còn phù hợp thực tế và còn thiếu một số quy định làm hạn chế hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Để thực hiện các phương án cắt giảm, đơn giản hoá, phân cấp quy định tại Quyết định số 1661/QĐ-TTg, Quyết định số 1015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nêu trên và sửa đổi, bổ sung những quy định còn thiếu hay không còn phù hợp tại Nghị định số 91/2016/NĐ-CP và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP, Bộ Y tế đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 129/2024/NĐ-CP.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 06 điều sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 91/2026/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ về quản lý hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế; Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế, cụ thể như sau:
- Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 91/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ quy định về quản lý hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế.
- Điều 2. Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế.
- Điều 3. Bãi bỏ, thay thế một số quy định của Nghị định số 91/2016/NĐ-CP và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP.
- Điều 4. Điều khoản chuyển tiếp.
- Điều 5. Điều khoản thi hành.
- Điều 6. Trách nhiệm thi hành
Các nội dung mới, quy định chính của Nghị định
- Phân cấp, đơn giản hóa 04 thủ tục hành chính (TTHC) về công bố đủ điều kiện kiểm nghiệm, khảo nghiệm, công bố điều kiện sản xuất chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn và cung cấp dịch vụ diệt côn trùng, diệt khuẩn:
+ Đơn giản hóa TTHC về công bố đủ điều kiện sản xuất chế phẩm; Đơn giản hóa TTHC về công bố đủ điều kiện cung cấp dịch vụ diệt côn trùng, diệt khuẩn bằng chế phẩm.
+ Phân cấp cơ quan giải quyết từ cấp Trung ương (Bộ Y tế) về cấp tỉnh (Sở Y tế), đồng thời đơn giản hóa TTHC về: công bố đủ điều kiện thực hiện kiểm nghiệm và Công bố đủ điều kiện thực hiện khảo nghiệm.
- Bổ sung quy định để giảm số lượng TTHC phải thực hiện của đơn vị đăng ký lưu hành khi có 1 chế phẩm có nhiều mùi hương khác nhau: bổ sung quy định chế phẩm có nhiều mùi hương khác nhau được cấp một số đăng ký lưu hành, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và vẫn đáp ứng yêu cầu quản lý chất lượng sản phẩm.
- Bổ sung quy định về cách thức thực hiện TTHC trực tuyến: qua Cổng Dịch vụ công quốc gia, qua đó đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức thực hiện TTHC, góp phần làm giảm áp lực giấy tờ, công việc lên chính các cơ quan quản lý nhà nước.
- Bổ sung quy định để đảm bảo an toàn và hiệu lực của chế phẩm cho người sử dụng:
+ Bổ sung quy định chế phẩm đã đăng ký lưu hành nhưng có thay đổi về thành phần hoạt chất, thay đổi phụ gia cộng hưởng thì phải đăng ký lưu hành mới (quy định cũ là đăng ký lưu hành bổ sung) để bảo đảm có đầy đủ thông tin đánh giá về an toàn và hiệu lực của chế phẩm trước khi cho phép lưu hành.
+ Bổ sung quy định rõ nhóm chế phẩm đã được cấp số đăng ký lưu hành nhưng thay đổi tác dụng, liều lượng sử dụng, phương pháp sử dụng, hàm lượng hoạt chất, hàm lượng phụ gia cộng hưởng, dạng chế phẩm, hạn sử dụng, nguồn hoạt chất thì phải đăng ký lưu hành bổ sung (có thực hiện kiểm nghiệm và khảo nghiệm) để bảo đảm có đầy đủ thông tin đánh giá về an toàn và hiệu lực của chế phẩm trước khi cho phép lưu hành tiếp.
+ Bổ sung quy định về đặt tên chế phẩm để tránh hiểu sai lệch về bản chất, công dụng, thành phần và xuất xứ của chế phẩm, gây nhầm lẫn giữa chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong gia dụng và y tế với thuốc bảo vệ thực vật.
+ Bổ sung nhiệm vụ của Bộ Y tế lấy ý kiến tư vấn hoặc tổ chức họp Hội đồng tư vấn cấp giấy chứng nhận đăng ký lưu hành chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế đối với các chế phẩm có chứa hoạt chất hoặc có dạng sản phẩm hoặc có phạm vi sử dụng hoặc có tác dụng lần đầu tiên đăng ký tại Việt Nam để có đủ cơ sở xem xét cấp hay không cấp giấy chứng nhận đăng ký lưu hành đối với những trường hợp đặc biệt này.
- Bổ sung quy định để giảm trình tự thực hiện giải quyết TTHC:
+ Bổ sung quy định việc đăng ký lưu hành theo trình tự rút gọn đối với các chế phẩm thông dụng và có hoạt chất, hàm lượng hoạt chất, dạng chế phẩm theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới và phù hợp với quy định của Bộ Y tế về danh mục hoạt chất cấm sử dụng, hạn chế phạm vi sử dụng trong chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế. Đơn vị đăng ký được nộp kết quả khảo nghiệm cùng hồ sơ mà không phải chờ công văn cho phép khảo nghiệm của Bộ Y tế (nộp hồ sơ một lần).
+ Bổ sung quy định chấp nhận kết quả kiểm nghiệm, khảo nghiệm của phòng thí nghiệm tại nước ngoài đối với các Chế phẩm diệt khuẩn nhập khẩu có chỉ tiêu vi sinh và hiệu quả diệt khuẩn phù hợp với quy trình khảo nghiệm do Bộ Y tế ban hành). Quy định này nhằm tạo thuận lợi cho đơn vị đăng ký lưu hành mới chế phẩm nhập khẩu khi đăng ký ở nước sở tại đã có kết quả kiểm nghiệm, khảo nghiệm được nộp hồ sơ một lần và không cần phải thực hiện lại khảo nghiệm, kiểm nghiệm.
- Đơn giản hóa TTHC:
+ Bãi bỏ quy định cơ sở thực hiện khảo nghiệm phải là cơ sở y tế.
+ Bổ sung, làm rõ về tài liệu minh chứng hiệu lực, an toàn đối với chế phẩm có chứa hoạt chất hoặc có dạng sản phẩm hoặc có phạm vi sử dụng hoặc tác dụng lần đầu đăng ký tại Việt Nam phải có trong hồ sơ: tài liệu, kết quả nghiên cứu về an toàn và hiệu lực hoặc khuyến cáo về việc sử dụng chế phẩm trong lĩnh vực gia dụng và y tế của Tổ chức Y tế thế giới hoặc
tổ chức quốc tế khác hoặc
cơ quan có thẩm quyền tại nước sản xuất, xuất khẩu chế phẩm (quy định cũ là tài liệu của
các tổ chức quốc tế tương đương nên chưa rõ ràng, khó xác định).
+ Đối với Giấy tờ về tư cách pháp nhân của cơ sở đăng ký lưu hành, cơ sở sản xuất: chỉ yêu cầu bản sao giấy tờ về tư cách pháp nhân có đóng dấu của đơn vị được cấp (quy định cũ là bản sao hợp lệ).
+ Quy định một số trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự đối với giấy chứng nhận lưu hành tự do (CFS) của chế phẩm nhập khẩu khi đăng ký lưu hành (những CFS có thể tra cứu trên trang thông tin điện tử chính thức của cơ quan cấp CFS hoặc được cơ quan đại diện ngoại giao tại Việt Nam của nước cấp CFS xác nhận nội dung).
+ Đơn giản hóa TTHC về Cấp giấy phép nhập khẩu chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế do trên thị trường không có sản phẩm hoặc phương pháp sử dụng phù hợp với nhu cầu của tổ chức, cá nhân xin nhập khẩu: cắt giảm quy định phải cung cấp tài liệu chứng minh trên thị trường Việt Nam không có sản phẩm và phương pháp sử dụng phù hợp với nhu cầu của tổ chức, cá nhân xin nhập khẩu.
- Bổ sung thêm quy định để đảm bảo quyền lợi của đơn vị đăng ký chế phẩm:
+ Khi đơn vị đăng ký lưu hành gặp sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép: bổ sung quy định cho trường hợp cơ sở đăng ký không nộp hồ sơ đúng hạn vì lý do bất khả kháng như: thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hỏa hoạn,… thì được nộp hồ sơ muộn hơn theo quy định nhưng không quá 12 tháng kể từ ngày hết hạn bổ sung hồ sơ kèm theo văn bản giải trình.
+ Tăng thời hạn phải nộp Phiếu trả lời kết quả khảo nghiệm đối với chế phẩm đăng ký lưu hành mới: từ quy định cũ là 12 tháng thành trong thời hạn 36 tháng kể từ ngày ghi trên văn bản chấp thuận việc khảo nghiệm.
- Danh mục Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định 129/2024/NĐ-CP:
Phụ lục VII |
Yêu cầu đối với Giấy ủy quyền |
Phụ lục VIII |
Yêu cầu đối với Giấy chứng nhận lưu hành tự do |
Phụ lục IX |
Hướng dẫn cách ghi nhãn hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng,
diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế |
Phụ lục XI |
Báo cáo về công tác quản lý hóa chất, chế phẩm diệt côn
trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế |
10. Nghị định số 130/2024/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về thu phí sử dụng đường bộ cao tốc đối với phương tiện lưu thông trên tuyến đường bộ cao tốc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10 tháng 10 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Luật Đường bộ đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 27/6/2024 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/1/2025. Nghị định được xây dựng, ban hành để triển khai quy định chi tiết khoản 3 Điều 50, khoản 1 Điều 84 Luật Đường bộ, theo đó:
+ Tại Điều 50 quy định:
“1. Nhà nước thu phí sử dụng đường cao tốc đối với phương tiện lưu thông trên đường cao tốc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác, bao gồm:
a) Đường cao tốc do Nhà nước đầu tư theo hình thức đầu tư công;
b) Đường cao tốc được đầu tư theo các hình thức khác khi kết thúc hợp đồng, chuyển giao cho Nhà nước...
3. Chính phủ quy định về điều kiện, thời điểm thực hiện việc thu phí sử dụng đường cao tốc; việc thu phí sử dụng đường cao tốc đối với đường cao tốc thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này mà chưa đáp ứng quy định tại khoản 1 Điều 45 và khoản 2 Điều 47 của Luật này”.
+ Tại Điều 84 quy định:
“1. Sửa đổi, bổ sung điểm 1.1, bổ sung điểm 1.1a vào sau điểm 1.1, tiểu mục 1 thuộc phần V- Phí thuộc lĩnh vực giao thông vận tải trong Danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 09/2017/QH14, Luật số 23/2018/QH14, Luật số 72/2020/QH14, Luật số 16/2023/QH15, Luật số 20/2023/QH15 và Luật số 24/2023/QH15 như sau:
1.1 |
Phí sử dụng đường bộ thu qua đầu phương tiện đối với xe ô tô |
Chính phủ |
1.1a |
Phí sử dụng đường bộ cao tốc đối với phương tiện lưu thông trên đường bộ cao tốc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác |
Chính phủ đối với đường bộ cao tốc do Bộ Giao thông vận tải quản lý; Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối với đường bộ cao tốc do địa phương quản lý |
Ngày 27/7/2024, Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, nghị quyết được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 7 tại Quyết định số 717/QĐ-TTg, trong đó giao Bộ GTVT chủ trì xây dựng Nghị định về thu phí sử dụng đường bộ cao tốc theo trình tự thủ tục rút gọn.
- Mục đích ban hành:
Việc xây dựng Nghị định của Chính phủ quy định về thu phí sử dụng đường cao tốc nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, quy định rõ về loại hình và đối tượng thu phí, phương án tổ chức thực hiện để đảm bảo tính khả thi, công khai và minh bạch. Tạo nguồn thu ngân sách nhà nước khi huy động kịp thời, hợp lý nguồn lực từ người sử dụng đường cao tốc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác; qua đó góp phần tạo nguồn kinh phí để đầu tư phát triển hệ thống đường cao tốc, chi thực hiện công tác quản lý, bảo trì đường cao tốc. Số tiền thu được, sau khi trừ các chi phí tổ chức thu phí sẽ được nộp về ngân sách nhà nước và được sử dụng theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 04 chương, 13 điều và 01 Phụ lục quy định về thu phí sử dụng đường bộ cao tốc đối với phương tiện lưu thông trên tuyến đường bộ cao tốc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác, cụ thể như sau:
- Chương I: Quy định chung: gồm Điều 1 và Điều 2.
- Chương II: Quy định chung về thu phí sử dụng đường bộ cao tốc: từ Điều 3 đến Điều 8.
- Chương III: Quy định về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng đường bộ cao tốc: từ Điều 9 đến Điều 11.
- Chương IV: Tổ chức thực hiện: Điều 12 và Điều 13.
- Phụ lục: Biểu mức phí sử dụng đường bộ cao tốc.
- Phạm vi điều chỉnh:
+ Nghị định quy định về thu phí sử dụng đường bộ cao tốc đối với phương tiện lưu thông trên tuyến đường bộ cao tốc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác (sau đây gọi tắt là thu phí sử dụng đường bộ cao tốc), gồm:
+ Điều kiện, thời điểm thực hiện việc thu phí sử dụng đường bộ cao tốc.
+ Mức thu, chế độ thu, nộp, miễn, quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ cao tốc thuộc phạm vi quản lý của Bộ GTVT.
- Đối tượng áp dụng: Nghị định áp dụng đối với các cơ quan, đơn vị, cá nhân liên quan đến tổ chức hoạt động thu phí, nộp, quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ cao tốc đối với phương tiện lưu thông trên tuyến đường bộ cao tốc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác.
Nội dung cơ bản của Nghị định
- Quy định về điều kiện thực hiện việc thu phí sử dụng đường cao tốc do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và trực tiếp quản lý, khai thác được triển khai thu phí gồm:
“1. Đường bộ cao tốc đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Được thiết kế, đầu tư xây dựng theo quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về đường cao tốc và các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật khác có liên quan;
b) Hoàn thành bàn giao, đưa vào khai thác theo quy định của Luật Đường bộ, quy định của pháp luật về xây dựng và quy định khác của pháp luật có liên quan;
c) Có Đề án khai thác tài sản được người có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công.
2. Đường bộ cao tốc đã được quyết định chủ trương đầu tư trước ngày Luật Đường bộ có hiệu lực thi hành, khi đưa vào khai thác mà chưa đáp ứng quy định tại khoản 1 Điều 45, khoản 2 Điều 47 của Luật Đường bộ thì việc thu phí sẽ được triển khai thực hiện sau khi hoàn thành việc xây dựng, lắp đặt hạ tầng trạm thu phí, thiết bị phục vụ việc thu phí; các công trình dịch vụ công tại trạm dừng nghỉ; cơ sở hạ tầng kỹ thuật, thiết bị công nghệ để quản lý, điều hành giao thông và có Đề án khai thác tài sản được người có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công.”
- Phí sử dụng đường bộ cao tốc được xác định trên quãng đường thực tế phương tiện tham gia giao thông (km) và mức phí tương ứng với từng loại phương tiện (đồng/km). Biểu mức phí sử dụng đường bộ cao tốc, được quy định 02 mức trong đó mức 1 là mức phí áp dụng đối với phương tiện lưu thông trên các tuyến đường cao tốc quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 130/2024/NĐ-CP; mức 2 là mức phí áp dụng đối với phương tiện lưu thông trên các tuyến đường cao tốc quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 130/2024/NĐ-CP.
Biểu thu phí đã quy định: Mức 1 tương ứng khoảng 62% mức thu giá tối đa dịch vụ sử dụng đường bộ các dự án đầu tư xây dựng để kinh doanh; mức 2 tương ứng khoảng 43% mức thu giá tối đa dịch vụ sử dụng đường bộ các dự án đầu tư xây dựng để kinh doanh.
- Đối tượng chịu phí và người nộp phí: các phương tiện được phép lưu thông trên tuyến đường bộ cao tốc ngoại trừ các phương tiện được miễn thu phí quy định tại Điều 6 Nghị định số 130/2024/NĐ-CP.
- Tổ chức, quản lý, vận hành, cung cấp dịch vụ thu phí
“Phí sử dụng đường bộ cao tốc do trung ương quản lý nộp vào ngân sách trung ương, phí sử dụng đường bộ cao tốc do địa phương quản lý nộp vào ngân sách địa phương. Cơ quan quản lý thu được trích để lại một phần phí sử dụng đường bộ cao tốc thực thu trước khi nộp vào ngân sách nhà nước theo tỷ lệ (%) để chi cho hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí, cụ thể:
a) Tỷ lệ để lại và việc quản lý, sử dụng đối với phí sử dụng đường bộ cao tốc thuộc phạm vi quản lý của địa phương do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định;
b) Tỷ lệ để lại đối với phí sử dụng đường bộ cao tốc thuộc phạm vi quản lý của Bộ Giao thông vận tải là sáu phẩy năm phần trăm (6,5%) trên số tiền thu phí sử dụng đường bộ cao tốc thực thu được, trong đó: Không phẩy hai phần trăm (0,2%) để chi cho hoạt động quản lý thu phí sử dụng đường bộ cao tốc của Cơ quan quản lý thu phí, thực hiện chi theo quy định của pháp luật phí, lệ phí; sáu phẩy ba phần trăm (6,3%) để chi phí thuê dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ và chi phí thuê đơn vị vận hành thu và các chi phí có liên quan phục vụ công tác thu phí, chi tiết tại Khoản 3 Điều này. …
Cơ quan quản lý thu xác định số tiền phí được trích lại để chi cho hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí; chuyển số tiền được trích còn lại (sau khi trừ chi phí cung cấp dịch vụ thu phí theo hợp đồng cung cấp dịch vụ thu phí) vào tài khoản chi hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí của cơ quan quản lý thu mở tại Kho bạc nhà nước; phần còn lại nộp vào ngân sách nhà nước trong thời gian không quá ngày 20 của tháng tiếp theo và chi tiết theo mục lục ngân sách nhà nước hiện hành;
Số tiền đã chuyển vào tài khoản chi hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí của cơ quan quản lý thu mở tại Kho bạc nhà nước được sử dụng để chi chung cho các nhiệm vụ sau: Thanh toán chi phí thuê đơn vị vận hành thu (nếu có) theo hợp đồng; thanh toán chi phí còn thiếu của hợp đồng thuê nhà cung cấp dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ (trong trường hợp số tiền được giữ lại theo hợp đồng thấp hơn chi phí thuê nhà cung cấp dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ); chi phí cho hoạt động quản lý thu phí sử dụng đường bộ cao tốc của cơ quan quản lý thu phí. Hằng năm, cơ quan quản lý thu phải quyết toán thu, chi theo quy định. Sau khi quyết toán thu, chi đúng chế độ, số tiền phí được trích để lại chưa chi trong năm được chuyển sang năm sau để tiếp tục chi theo chế độ quy định; trường hợp hết 02 năm kể từ năm được chuyển nguồn, số tiền phí đã được chuyển nguồn không còn nhiệm vụ chi hoặc chính sách của Nhà nước thay đổi, số tiền phí được để lại không đủ bảo đảm chi phí cho hoạt động của tổ chức thu phí, cơ quan quản lý thu phải báo cáo Bộ quản lý chuyên ngành, để báo cáo Bộ Tài chính để nộp ngân sách nhà nước hoặc trình cơ quan có thẩm quyền sửa đổi tỷ lệ để lại cho phù hợp. …
Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm: Kiểm tra việc tổ chức thực hiện công tác quản lý thu phí sử dụng đường bộ cao tốc thuộc phạm vi quản lý; …
Quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ cao tốc thuộc phạm vi quản lý của Bộ Giao thông vận tải, cụ thể như sau:
a) Chi phí cung cấp dịch vụ thu phí được xác định trên cơ sở kết quả lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ và đơn vị vận hành thu theo quy định của pháp luật về đấu thầu và pháp luật có liên quan; toàn bộ số tiền thu phí sử dụng đường bộ cao tốc thu được sau khi trừ chi phí cung cấp dịch vụ thu phí theo hợp đồng cung cấp dịch vụ thu phí (chi phí không quá sáu phẩy ba phần trăm (6,3%) trên tổng số phí thực thu), nhà cung cấp dịch vụ thanh toán tiền sử dụng đường bộ chuyển vào tài khoản phí chờ nộp ngân sách của cơ quan quản lý thu mở tại Kho bạc nhà nước”.
11. Nghị định số 131/2024/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định thương mại tự do giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Nhà nước I-xra-en giai đoạn 2024 - 2027
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 10 năm 2024 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2027.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Hiệp định Thương mại dự do giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Nhà nước I-xra-en (VIFTA) đã được ký kết vào ngày 25/7/2023.
Đồng thời, ngày 15/10/2024, Chính phủ đã có Nghị quyết số 190/NQ-CP ấn định thời điểm có hiệu lực của Hiệp định VIFTA là ngày 15/10/2024. Bộ Ngoại giao đã có công hàm số 871/BNG-PLQT ngày 15/10/2024 khẳng định Hiệp định VIFTA có hiệu lực với cả Việt Nam và I-xra-en từ ngày 15/10/2024.
Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 131/2024/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2024 về Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Thương mại dự do giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Nhà nước I-xra-en giai đoạn 2024-2027.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định có 07 điều và 01 Phụ lục Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định thương mại tự do giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Nhà nước I-xra-en giai đoạn 2024 – 2027, cụ thể như sau:
- Điều 1. Phạm vi điều chỉnh.
- Điều 2. Đối tượng áp dụng.
- Điều 3. Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định VIFTA giai đoạn 2024 – 2027.
- Điều 4. Điều kiện áp dụng.
- Điều 5. Hàng hóa từ khu phi thuế quan của Việt Nam.
- Điều 6. Hiệu lực thi hành.
- Điều 7. Trách nhiệm thi hành.
Ban hành kèm theo Nghị định 01 Phụ lục – Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định thương mại tự do giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Nhà nước I-xra-en giai đoạn 2024 – 2027.
12. Nghị định số 132/2024/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 05 tháng 12 năm 2024; thay thế Nghị định số 124/2017/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2017 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN) trong hoạt động dầu khí (Nghị định số 124/2017/NĐ-CP); các nội dung về quy định chuyển tiếp được quy định tại Điều 28 của Nghị định.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Cơ sở pháp lý
+ Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 ngày 17 tháng 6 năm 2020 (Luật Đầu tư năm 2020).
+ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 ngày 22 tháng 6 năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2020.
+ Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư (Nghị định số 31/2021/NĐ-CP).
+ Văn bản số 5478/VPCP-CN ngày 23 tháng 8 năm 2022 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ đồng ý Bộ Công Thương xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 124/2017/NĐ-CP.
Cơ sở thực tiễn
+ Căn cứ xây dựng Nghị định số 124/2017/NĐ-CP đã thay đổi (Luật Đầu tư năm 2020 thay thế Luật Đầu tư năm 2014; Luật Đầu tư công năm 2019 thay thế Luật Đầu tư công năm 2014).
+ Trong quá trình thực hiện Nghị định số 124/2017/NĐ-CP phát sinh một số vướng mắc như: quy định về việc pháp nhân thành lập ở nước ngoài/công ty điều hành có thể thực hiện nhiều dự án phù hợp với pháp luật của nước sở tại chưa rõ ràng; chưa có quy định về việc dùng cổ phần, phần vốn góp hoặc dự án của nhà đầu tư đó tại Việt Nam để thanh toán hoặc hoán đổi cho việc mua cổ phần, phần vốn góp hoặc dự án dầu khí của tổ chức kinh tế ở nước ngoài; chưa có quy định về trường hợp điều chỉnh tăng vốn ĐTRNN để hoàn thành các nghĩa vụ, xử lý các tồn đọng khi chấm dứt dự án ĐTRNN (như nghĩa vụ thu dọn mỏ, chuyển tiền cho khoản gọi vốn còn thiếu, chi phí đền bù cam kết,…). Do đó cần phải rà soát, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Mục đích ban hành:
+ Bảo đảm tính hiệu lực, thống nhất, đồng bộ của pháp luật đầu tư đối với ĐTRNN trong hoạt động dầu khí.
+ Bổ sung, sửa đổi một số quy định về ĐTRNN trong hoạt động dầu khí phù hợp với Luật Đầu tư năm 2020.
+ Nâng cao tính thực tiễn, khả thi và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, hạn chế tối đa những khó khăn, vướng mắc có thể phát sinh.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 04 chương và 28 điều quy định về đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí, cụ thể như sau:
- Nghị định này quy định về ĐTRNN theo hình thức quy định tại các điểm a, b, c, đ khoản 1 Điều 52 Luật Đầu tư để tham gia thực hiện hoạt động dầu khí, dự án dầu khí ở nước ngoài; ĐTRNN theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế ở nước ngoài để thực hiện hoạt động dầu khí tại Việt Nam.
- Đối tượng áp dụng của Nghị định: nhà đầu tư, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí.
Các quy định chính, nội dung mới của Nghị định
- Quy định chung (Chương I gồm 7 điều, từ Điều 1 đến Điều 7): Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích các từ ngữ; vốn ĐTRNN trong hoạt động dầu khí; ĐTRNN của tổ chức kinh tế có vốn ĐTNN tại Việt Nam; tài liệu xác định địa điểm, hình thức ĐTRNN, ngôn ngữ sử dụng trong hồ sơ ĐTRNN trong hoạt động dầu khí và việc tiếp nhận hồ sơ và giải quyết thủ tục ĐTRNN, xử lý hồ sơ giả mạo.
- Thủ tục cấp, điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký (GCNĐK) ĐTRNN (Chương II gồm 4 điều, từ Điều 8 đến Điều 11): Chương này quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp/điều chỉnh GCNĐK ĐTRNN đối với dự án dầu khí thuộc diện chấp thuận chủ trương ĐTRNN; hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp/điều chỉnh GCNĐK ĐTRNN đối với dự án dầu khí không thuộc diện chấp thuận chủ trương ĐTRNN được quy định tại Điều 10, Điều 11.
- Triển khai dự án dầu khí (Chương III, gồm 14 điều, từ Điều 12 đến Điều 25): Chương này quy định về thành lập công ty điều hành; chuyển vốn ĐTRNN; nguyên tắc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trước khi cấp GCNĐK ĐTRNN; hồ sơ, trình tự, thủ tục liên quan đến đăng ký/thay đổi giao dịch ngoại hối sau khi được cấp GCNĐK ĐTRNN; huy động vốn cho dự án dầu khí ở nước ngoài và bảo lãnh vay vốn thực hiện dự án; thu hồi vốn (chi phí) từ dự án dầu khí ở nước ngoài; chuyển nhượng dự án dầu khí ở nước ngoài; xử lý chi phí của dự án dầu khí ở nước ngoài không thành công; kế toán; nghĩa vụ tài chính tại Việt Nam; đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại dự án dầu khí ở nước ngoài và ổn định chính sách đối với người lao động tham gia thực hiện dự án dầu khí ở nước ngoài; thực hiện chế độ báo cáo đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí; kết thúc đầu tư ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí và hồ sơ, trình tự, thủ tục chấm dứt hiệu lực giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài.
- Điều khoản thi hành (Chương IV gồm 3 điều, từ Điều 26 đến Điều 28): Chương này quy định về hiệu lực thi hành; trách nhiệm thi thành và chuyển tiếp.
13. Nghị định số 133/2024/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều, phụ lục của Nghị định số 58/2021/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2021 của Chính phủ quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 11 năm 2024.
- Các hồ sơ đề nghị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng đã nộp trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành được tiếp tục xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật tại thời điểm nộp hồ sơ.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Việc ban hành Nghị định này nhằm thực hiện Quyết định số 933/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành Kế hoạch cải cách thủ tục hành chính (TTHC) trọng tâm 6 tháng cuối năm 2023 (Quyết định 933); Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ việc chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06); Nghị quyết 59/NQ-CP ngày 04/7/2017 của Chính phủ về việc đơn giản hóa TTHC liên quan đến quản lý dân cư thuộc phạm vi chức năng quản lý của NHNN (Nghị quyết 59).
Cơ sở pháp lý
Khoản 9 và khoản 23 Điều 4 Luật NHNN quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN:
“9. … Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng cho các tổ chức….”
“23. Tổ chức hệ thống thông tin tín dụng và cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng; thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các tổ chức hoạt động thông tin tín dụng.”
Cơ sở thực tiễn
+ Việc cải cách TTHC luôn là một trong các nhiệm vụ trọng tâm được Chính phủ tập trung, khẩn trương triển khai thực hiện trong năm 2023 (theo nội dung các Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 06/01/2023, Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 15/7/2023…).
+ Liên quan đến việc triển khai Đề án 06, hiện nay Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGvDC) đã được hình thành, các cơ quan quản lý nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình (như cấp phép, thực hiện TTHC…) có thể khai thác thông tin cư dân trên cơ sở dữ liệu quốc gia để tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, giảm thiểu chi phí giấy tờ, TTHC cho xã hội.
Theo đó, việc thực hiện xây dựng Nghị định này theo Kế hoạch cải cách TTHC trọng tâm 6 tháng cuối năm 2023 đính kèm Quyết định 933 nêu trên là cần thiết, phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước và Chính phủ về việc cắt giảm TTHC.
Chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
+ Điểm 1 Mục III Kế hoạch kèm theo Quyết định 933 quy định:
“Tập trung thực thi dứt điểm các phương án cắt giảm, đơn giản hóa QĐKD, TTHC, giấy tờ công dân đã được phê duyệt. …
Việc sửa đổi, bổ sung các văn bản QPPL tại Phụ lục I kèm theo Kế hoạch có thể được thực hiện theo hình thức một văn bản QPPL sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản QPPL và áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn theo đúng quy định của pháp luật về xây dựng, ban hành văn bản QPPL.”
Điểm 6 Mục XVI Phụ lục I kèm theo Kế hoạch tại Quyết định 933 giao NHNN sửa đổi Nghị định 58 đối với thủ tục cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động thông tin tín dụng của công ty thông tin tín dụng.
+ Điểm m khoản 2 Mục III Đề án 06 yêu cầu: “Rà soát, tái cấu trúc quy trình cắt giảm, đơn giản hóa TTHC và tổ chức thực hiện tích hợp, kết nối và chia sẻ dữ liệu dân cư giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (CSDLQGvDC) với Cổng Dịch vụ công quốc gia, hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh phục vụ xác thực, chia sẻ thông tin công dân khi thực hiện TTHC theo nguyên tắc không yêu cầu khai báo lại các thông tin đã có trong CSDLQGvDC.”
+ Nghị quyết 59 quy định: “Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động thông tin tín dụng của công ty thông tin tín dụng.
Sửa đổi mẫu lý lịch tóm tắt quy định tại mẫu số 02/TTTD Thông tư số 16/2010/TT-NHNN ngày 25 tháng 6 năm 2010 hướng dẫn thi hành Nghị định số 10/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ về hoạt động thông tin tín dụng như sau: Lược bỏ yêu cầu về các thông tin thuộc 15 trường thông tin cá nhân có thể khai thác trên CSDLQGvDC, chỉ giữ lại thông tin về họ tên, nơi ở hiện tại (trường hợp khác nơi đăng ký thường trú); bổ sung nội dung cung cấp số định danh cá nhân”.
- Mục đích ban hành:
Việc ban hành Nghị định này nhằm thực thi phương án đơn giản hóa đối với TTHC, giấy tờ công dân và triển khai việc sử dụng CSDLQGvDC phục vụ thực hiện các TTHC trên môi trường điện tử và phát triển kinh tế - xã hội tại điểm m khoản 2 Mục III Đề án 06 yêu cầu: “không yêu cầu khai báo lại các thông tin đã có trong CSDLQGvDC”.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 02 điều sửa đổi, bổ sung một số điều, phụ lục của Nghị định số 58/2021/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2021 của Chính phủ quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng, cụ thể như sau:
- Điều 1: khoản 1 sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 10 Nghị định 58 và khoản 2 sửa đổi, bổ sung Mục 1, Mục 4 và Mục Ghi chú của Mẫu Lý lịch tóm tắt tại Phụ lục VI ban hành kèm theo Nghị định 58.
- Điều 2 quy định về điều khoản thi hành.
Nội dung cơ bản của Nghị định
- Sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 10 Nghị định 58 theo hướng làm rõ các hình thức của bản chính có thể là văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương văn bản do cơ quan có thẩm quyền cấp theo quy định của pháp luật. Theo đó, Phiếu Lý lịch tư pháp được cơ quan có thẩm quyền cấp trên VneID được sử dụng như bản chính để thực hiện đối chiếu trong quá trình tiếp nhận hồ sơ nhằm giảm thiểu TTHC đối với các cá nhân liên quan trong quá trình thực hiện cấp Giấy chứng nhận.
- Sửa đổi Mục 1 Lý lịch tóm tắt của Phụ lục VI ban hành kèm theo Nghị định 58 theo hướng phân tách các trường thông tin thành 02 loại: (i) trường thông tin người khai phải cung cấp và (ii) trường thông tin mà cơ quan quản lý có thể tự khai thác trên CSDLQGvDC, cụ thể như sau:
+ Công dân Việt Nam chỉ cần phải cung cấp 05 trường thông tin thay vì khai báo 10 trường thông tin tại mẫu Phụ lục VI theo quy định hiện hành, cụ thể: Họ và tên; Ngày, tháng, năm sinh; Số chứng minh nhân dân hoặc số định danh cá nhân; Tên, địa chỉ và mã số thuế tổ chức mà mình đại diện, tỷ lệ vốn góp, vốn cổ phần được đại diện (trường hợp là người đại diện phần vốn góp, vốn cổ phần); Vợ, chồng; bố mẹ đẻ; con đẻ của người kê khai (Họ và tên, Số chứng minh nhân dân hoặc số định danh cá nhân (đối với công dân Việt Nam); Số hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp (đối với cá nhân không phải là công dân Việt Nam)).
Đối với các trường thông tin khác như Nơi sinh; Quốc tịch (các quốc tịch hiện có); Địa chỉ đăng ký thường trú; Nơi ở hiện tại (trường hợp khác nơi đăng ký thường trú), công dân Việt Nam chỉ cung cấp khi cán bộ tiếp nhận hồ sơ không khai thác được thông tin trong CSDLQGvDC.
+ Cá nhân không phải công dân Việt Nam phải cung cấp 08 trường thông tin thay vì khai báo 10 trường thông tin tại mẫu Phụ lục VI theo quy định hiện hành (bỏ 02 trường thông tin là “họ và tên thường gọi” và “bí danh” vì qua rà soát NHNN thấy rằng các thông tin này không cần thiết trong quá trình cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động thông tin tín dụng của công ty thông tin tín dụng), cụ thể: Họ và tên; Ngày, tháng, năm sinh; Số hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp; Nơi sinh; Quốc tịch (các quốc tịch hiện có); Địa chỉ đăng ký theo hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế hộ chiếu; Nơi ở hiện nay tại Việt Nam (nếu có); Tên, địa chỉ và mã số thuế tổ chức mà mình đại diện, tỷ lệ vốn góp, vốn cổ phần được đại diện (trường hợp là người đại diện phần vốn góp, vốn cổ phần).
14. Nghị định số 134/2024/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ về chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn tỉnh Thanh Hóa
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21 tháng 10 năm 2024, áp dụng cho 05 năm từ năm ngân sách 2022 đến năm ngân sách 2026.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Tại Văn bản số 6282/UBND-KTTC ngày 09/5/2022 và số 19175/UBNDKTTC ngày 22/12/2022, UBND tỉnh Thanh Hóa đề nghị hướng dẫn thực hiện chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 37/2021/QH15. Theo đó, có 02 nội dung vướng mắc như sau:
+ Vướng mắc về phạm vi xác định số thu ngân sách nhà nước từ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn;
+ Vướng mắc trong việc xác định “số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa nhập khẩu để đầu tư hình thành tài sản cố định hoặc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu được ngân sách trung ương hoàn thuế giá trị gia tăng” khi thực hiện Nghị quyết số 37/2021/QH15 của Quốc hội, cụ thể:
(i) Kỳ nộp thuế giá trị gia tăng đầu vào khâu nhập khẩu và kỳ hoàn thuế giá trị gia tăng không cùng năm ngân sách;
(ii) Cơ sở để xác định chính xác số thuế giá trị gia tăng được hoàn của hàng hóa nhập khẩu qua cảng biển Nghi Sơn để sản xuất hàng hóa xuất khẩu/hình thành tài sản cố định.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Chính phủ tại Văn bản số 76/VPCP-KTTH ngày 05/01/2023 của Văn phòng Chính phủ: “Bộ Tài chính khẩn trương xem xét, xử lý kiến nghị của UBND tỉnh Thanh Hóa tại Văn bản số 19175/UBND-KTTC nêu trên theo thẩm quyền và quy định pháp luật; kịp thời đề xuất, báo cáo Thủ tướng Chính phủ đối với những nội dung vượt thẩm quyền” và tại Văn bản số 4966/VPCP-KTTH ngày 05/7/2023 của Văn phòng Chính phủ: “1. Thông qua đề nghị xây dựng Nghị định hướng dẫn thực hiện chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 37/2021/QH15 ngày 13 tháng 11 năm 2021 của Quốc hội và đồng ý áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành Nghị định trên như đề nghị của Bộ Tài chính tại Văn bản số 124/TTr-BTC ngày 21 tháng 6 năm 2023. 2. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp, UBND tỉnh Thanh Hóa và các cơ quan liên quan hoàn thiện hồ sơ dự thảo Nghị định, trình Chính phủ trong tháng 7 năm 2023 trước khi báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến theo quy định”, để kịp thời hướng dẫn tỉnh Thanh Hóa thực hiện chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 37/2021/QH15, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định.
- Mục đích ban hành: Nghị định của Chính phủ được xây dựng nhằm triển khai Nghị quyết số 37/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Thanh Hóa.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 05 điều về chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn tỉnh Thanh Hóa, cụ thể như sau:
- Điều 1. Phạm vi và đối tượng áp dụng.
- Điều 2. Xác định số thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu qua Cảng biển Nghị Sơn và số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn để đầu tư hình thành tài sản cố định hoặc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu được ngân sách trung ương hoàn thuế giá trị gia tăng.
- Điều 3. Trách nhiệm của các cơ quan.
- Điều 4. Hiệu lực thi hành.
- Điều 5. Tổ chức thực hiện.
- Phạm vi và đối tượng áp dụng: Nghị định này hướng dẫn thực hiện chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 37/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Thanh Hóa. Nghị định này áp dụng đối với Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc xác định số thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn.
Nội dung của Nghị định
- Điều 1. Phạm vi và đối tượng áp dụng
- Điều 2. Xác định số thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu qua Cảng biển Nghị Sơn và số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn để đầu tư hình thành tài sản cố định hoặc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu được ngân sách trung ương hoàn thuế giá trị gia tăng
+ Phạm vi xác định số thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn:
Chỉ xác định phạm vi số thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đăng ký tờ khai hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Thanh Hóa.
+ Phạm vi xác định số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa nhập khẩu để đầu tư hình thành tài sản cố định hoặc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu được ngân sách trung ương hoàn thuế: Chỉ tính đối với số thuế giá trị gia tăng được hoàn của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa (không tính trừ thu hồi hoàn thuế giá trị gia tăng).
+ Số thuế giá trị gia tăng nhập khẩu được ngân sách trung ương hoàn thuế:
Số thuế giá trị gia tăng nhập khẩu được ngân sách trung ương hoàn thuế là số thuế giá trị gia tăng nhập khẩu tương ứng với số đã chi hoàn trong năm ngân sách, được xác định bằng công thức sau đây:
Số thuế giá trị gia tăng được ngân sách trung ương hoàn thuế từng kỳ của hàng hóa nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn đối với hàng hóa nhập khẩu để đầu tư hình thành tài sản cố định hoặc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu |
= |
Số thuế đã hoàn từng kỳ |
x |
Số thuế giá trị gia tăng đã nộp của hàng hóa nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn để đầu tư hình thành tài sản cố định hoặc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu từng kỳ hoàn
Tổng số thuế giá trị gia tăng đầu vào trong kỳ hoàn |
Trong đó:
(a) Số thuế đã hoàn từng kỳ là số tiền hoàn thuế giá trị gia tăng theo Lệnh chi hoàn thuế đã được ngân sách trung ương chi hoàn trong năm ngân sách của các doanh nghiệp nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn, không tính trừ số thu hồi hoàn thuế giá trị gia tăng (nếu phát sinh).
(b) Số thuế giá trị gia tăng đã nộp của hàng hóa nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn để đầu tư hình thành tài sản cố định hoặc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu từng kỳ hoàn là tổng số thuế giá trị gia tăng đã nộp khâu nhập khẩu của các doanh nghiệp nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn tương ứng kỳ hoàn thuế (căn cứ số hải quan cung cấp và số người nộp thuế kê khai).
(c) Tổng số thuế giá trị gia tăng đầu vào trong kỳ hoàn của từng hồ sơ là tổng số thuế giá trị gia tăng đã nộp khâu nhập khẩu cộng với số thuế giá trị gia tăng mua vào trong nước đủ điều kiện khấu trừ của các doanh nghiệp nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn.
- Điều 3. Trách nhiệm của các cơ quan
+ Bộ Tài chính có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa kiểm tra tình hình thực hiện chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn.
+ Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa có trách nhiệm: (i) Chỉ đạo các cơ quan liên quan tại địa phương thực hiện chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn theo quy định tại Nghị định này và các văn bản pháp luật có liên quan; (ii) Phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ liên quan kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện chính sách tăng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn.
- Điều 4. Hiệu lực thi hành Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 21 tháng 10 năm 2024, áp dụng cho 05 năm từ năm ngân sách 2022 đến năm ngân sách 2026.
- Điều 5. Tổ chức thực hiện Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
15. Nghị định số 135/2024/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 22 tháng 10 năm 2024.
- Điều khoản chuyển tiếp:
“1. Tổ chức, cá nhân đang thực hiện bán điện cho đơn vị điện lực tại các dự án, hệ thống điện mặt trời mái nhà đã lắp đặt, vận hành phát điện trước ngày 01 tháng 01 năm 2021 không được đăng ký lắp đặt thêm điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ tại cùng địa điểm sử dụng điện.
2. Tổ chức, cá nhân đã phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ trong kỳ quy hoạch phát triển điện lực quốc gia kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021 thực hiện như sau:
a) Hộ gia đình, nhà ở riêng lẻ, cơ quan công sở đã lắp đặt điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ có đấu nối với hệ thống điện quốc gia gửi thông tin liên quan đến cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận phát triển để ghi nhận về quy mô, địa điểm. Trường hợp bán điện dư vào hệ thống điện quốc gia phải thực hiện theo quy định tại Nghị định này;
b) Tổ chức, cá nhân không thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản 2 Điều này đã lắp đặt điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ có đấu nối với hệ thống điện quốc gia gửi thông tin liên quan đến cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận phát triển để ghi nhận về quy mô, địa điểm và không được bán điện dư. Trường hợp bán điện dư phải thực hiện theo quy định tại Nghị định này.”
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Cơ sở chính trị
Ngày 11/02/2020, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó, đề ra một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu như: (i) Về năng lượng tái tạo (Mục 1 Phần III của Nghị quyết); (ii) Đối với điện gió và điện mặt trời (Mục 2 Phần III của Nghị quyết).
Cơ sở pháp lý
Ngày 24/6/2023, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 98/2023/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh;
Ngày 09/01/2023, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 81/2023/QH15 về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050;
Chỉ thị 05/CT-TTg ngày 14/02/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc đảm bảo cung ứng điện, cung cấp than, khí cho sản xuất điện trong thời gian tới;
Các Thông báo của Văn phòng chính phủ về kết luận của Lãnh đạo Chính phủ chỉ đạo xây dựng, trình ban hành Nghị định;
Cơ sở thực tiễn
Phát triển ĐMTMN tự sản, tự tiêu để tiếp tục phát huy những lợi thế, ưu điểm của ĐMTMN, góp phần bảo vệ môi trường, cung cấp nguồn năng lượng sạch tại chỗ phục vụ nhu cầu sử dụng điện cho sinh hoạt, sản xuất kinh doanh, phát triển KT-XH;
Thúc đẩy phát triển ĐMTMN tự sản, tự tiêu để tạo nguồn năng lượng sạch, giảm phát thải khí nhà kính, góp phần giảm tổn thất điện năng trong hệ thống lưới điện, đồng thời các cơ quan quản lý có thể theo dõi, kiểm tra, kiểm soát việc đầu tư phát triển ĐMTMN, không để xảy ra trường hợp phát triển ĐMTMN mà không đảm bảo tuân thủ các quy định;
Để triển khai kịp thời, hiệu quả và đồng bộ với Quyết định số 500/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050;
Khai thác, phát huy tiềm năng, lợi thế về tài nguyên thiên nhiên (năng lượng mặt trời), bổ sung nguồn điện cho hệ thống điện quốc gia, nhất là trong bối cảnh thiếu hụt nguồn do nhu cầu tăng cao và các nguồn điện khác phát triển chậm những năm gần đây;
Giảm áp lực đầu tư từ nguồn vốn nhà nước, huy động nguồn lực xã hội, góp phần giảm chi phí sản xuất cho doanh nghiệp, chi phí tiêu dùng của người dân (do tự sản, tự tiêu); Thực hiện mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050 như đã cam kết.
- Mục đích của ban hành:
Việc xây dựng, áp dụng chính sách phát triển điện mặt trời mái nhà với mục đích tự sản xuất, tự tiêu thụ là cần thiết, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước;
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để quy định cụ thể các vấn đề liên quan đến điện mặt trời mái nhà;
Xây dựng chính sách phát triển điện mặt trời mái nhà để triển khai yêu cầu trong Luật Điện lực;
Xây dựng chính sách phát triển ĐMTMN để thể chế hoá Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11 tháng 02 năm 2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
Xây dựng phát triển ĐMTMN góp phần thực hiện Nghị quyết số 81/2023/QH15 ngày 09 tháng 01 năm 2023 về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050;
Thực hiện đề xuất chính sách đúng với đối tượng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ nêu tại Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 14/02/2024 về việc đảm bảo cung ứng điện, cung cấp than, khí cho sản xuất điện trong thời gian tới, cụ thể đối tượng là điện mặt trời mái nhà lắp đặt trên mái nhà công trình nhà dân, cơ quan công sở, khu công nghiệp.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm có 04 chương, 26 điều và Phụ lục kèm theo quy định cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ, cụ thể như sau:
- Phạm vi điều chỉnh (quy định tại Điều 1):
Nghị định này quy định về cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển điện mặt trời tự sản xuất, tự tiêu thụ được lắp đặt trên mái nhà của công trình xây dựng gồm nhà ở, cơ quan công sở, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ sở sản xuất, cơ sở kinh doanh được đầu tư, xây dựng theo đúng quy định của pháp luật.
Việc mua bán điện trực tiếp giữa các tổ chức, cá nhân được thực hiện theo Nghị định về cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện năng lượng tái tạo và khách hàng sử dụng điện lớn.
- Đối tượng áp dụng (quy định tại Điều 2):
+ Các tổ chức, cá nhân quản lý, tham gia phát triển điện mặt trời mái nhà tại Việt Nam theo hình thức tự sản xuất, tự tiêu thụ.
+ Các tổ chức, cá nhân khác có liên quan.
Các quy định chính
- Điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ không đấu nối với hệ thống điện quốc gia (quy định tại Điều 6);
- Điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ có đấu nối với hệ thống điện quốc gia (quy định tại Điều 7);
- Chính sách khuyến khích (quy định tại Điều 8);
- Cơ quan có thẩm quyền cấp và điều kiện cấp giấy chứng nhận đăng ký phát triển (quy định tại Điều 9).
- Nghiệm thu đầu tư xây dựng, lắp đặt (quy định tại Điều 17)
- Thực hiện mua bán điện đối với điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ bán điện dư (quy định tại Điều 18).
- Danh mục phụ lục kèm theo:
+ Mẫu số 01: Giấy đăng ký lắp đặt điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ có đấu nối với hệ thống điện quốc gia.
+ Mẫu số 02: Giấy chứng nhận đăng ký phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ.
+ Mẫu số 03: Báo cáo hoạt động đăng ký và tình hình thực hiện phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ trên địa bàn tỉnh … từ ngày ….. đến ngày….
+ Mẫu số 04: Thông báo phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ có đấu nối với hệ thống điện quốc gia
+ Mẫu số 05: Hợp đồng mua bán điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ.
16. Nghị định số 136/2024/NĐ-CP ngày 23 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định số có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10 tháng 12 năm 2024.
- Nghị định số 136/2024/NĐ-CP bổ sung, thay thế, bỏ một số từ, cụm từ quy định sau của Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ quy định về quỹ xã hội, quỹ từ thiện như sau:
+ Bổ sung từ sau: “huyện” sau cụm từ “Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh” tại khoản 1 Điều 22, điểm đ khoản 3 và điểm b khoản 5 Điều 41.
- Thay thế các cụm từ sau: “30 ngày làm việc” bằng “60 ngày” tại khoản 3 Điều 20, khoản 3 Điều 25, điểm b khoản 2 Điều 39; “15 ngày làm việc” bằng “60 ngày” tại điểm c khoản 4 Điều 39, khoản 2 và khoản 4 Điều 40, điểm a, b khoản 5 Điều 41; “tạm đình chỉ” bằng “đình chỉ có thời hạn” tại khoản 5 Điều 40; “Trưởng Ban kiểm tra” bằng “Trưởng Ban kiểm soát” tại điểm c khoản 3 Điều 41; “người phụ trách kế toán” bằng “Kế toán trưởng” tại điểm d khoản 3 Điều 26, Điều 29, điểm khoản 3 Điều 41; “cấp” bằng “hỗ trợ” tại khoản 3 Điều 35.
+ Bỏ các cụm từ sau: “vay” tại điểm b khoản 3 Điều 26; “không đạt mức giải ngân quy định tại Nghị định này” tại điểm b khoản 4 Điều 41.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
Căn cứ Nghị quyết số 04/NQ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ về việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; Quyết định số 1015/QĐ-TTg ngày 30/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án phân cấp trong giải quyết thủ tục hành chính thuộc phạm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong đó đề nghị: phân cấp thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính từ Chủ tịch UBND cấp tỉnh về Chủ tịch UBND cấp huyện đối với quỹ có phạm vi hoạt động trong huyện và trong xã (trừ trường hợp quỹ có tổ chức, cá nhân nước ngoài góp tài sản với công dân, tổ chức Việt Nam để thành lập, hoạt động); Công văn số 56/UBPL15 ngày 19/8/2021 của của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội về việc cần chuyển quy định tại Thông tư số 04/2020/TT-BNV ngày 13/10/2020 có yếu tố cấu thành thủ tục hành chính thành quy định của Nghị định; đồng thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng Nghị định số 93/2019/NĐ-CP, Bộ Nội vụ tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2024/NĐ-CP.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 04 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện, cụ thể như sau:
- Điều 1. gồm 24 khoản, trong đó sửa đổi 22 nội dung; bổ sung 02 nội dung mới (Điều 44a, Điều 48a)
[18] của Nghị định số 138/2020/NĐ-CP.
- Điều 2. Bổ sung, thay thế, bỏ một số từ, cụm từ quy định sau của Nghị định số 93/2019/NĐ-CP ngày 25 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ quy định về quỹ xã hội, quỹ từ thiện
- Điều 3. Ban hành và hướng dẫn các loại mẫu văn bản
- Điều 4: Điều khoản thi hành trong đó quy định hiệu lực thi hành; quy định chuyển tiếp và trách nhiệm thi hành
Những nội dung mới của Nghị định
- Về tôn chỉ, mục đích hoạt động chung của quỹ, trong đó quy định về quỹ xã hội: bổ sung thêm nội dung về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, bảo vệ tài nguyên và môi trường
- Bổ sung giải thích từ ngữ về “Người có quan hệ gia đình”: Gồm vợ (chồng); bố, mẹ hoặc bố, mẹ vợ (chồng); con, con rể, con dâu; anh, chị, em ruột của vợ (chồng) theo quy định pháp luật.”.
- Về tên, biểu tượng của quỹ đã tách riêng thành 2 khoản, trong đó quy định cụ thể về điều kiện về tên quỹ, biểu tượng của quỹ. Theo đó, bổ sung quy định về điều kiện tên gọi của quỹ phù hợp với tôn chỉ, mục đích, phạm vi, lĩnh vực hoạt động chính của quỹ; không gắn với tên riêng của anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, lãnh đạo và nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các chức sắc tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng, các sáng lập viên thành lập quỹ, thành viên Hội đồng quản lý quỹ và người có quan hệ gia đình với sáng lập viên, thành viên Hội đồng quản lý quỹ; không gây hiểu nhầm, dẫn đến mâu thuẫn, nguy cơ xung đột quan điểm, lợi ích giữa các tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, cộng đồng các dân tộc tại Việt Nam; không trái với quy định tại các điều ước, thỏa thuận, hiệp định, công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc là thành viên; không ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia của Việt Nam.
- Về quyền hạn và nghĩa vụ của quỹ đã bổ sung quy định chặt chẽ về việc thành lập, quản lý các tổ chức có tư cách pháp nhân trực thuộc quỹ theo quy định pháp luật và điều lệ quỹ để thực hiện các nhiệm vụ, phù hợp với tôn chỉ, mục đích, lĩnh vực hoạt động của quỹ; đồng thời quy định việc tài trợ, hỗ trợ trong phạm vi hoạt động theo điều lệ, trừ trường hợp quỹ tham gia tài trợ, hỗ trợ nhân dân khắc phục khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn, sự cố nghiệm trọng, khẩn cấp theo quy định pháp luật; thời gian báo cáo hàng năm của quỹ vào thời điểm ngày trước 31 tháng 3;
- Về sáng lập viên thành lập quỹ, sáng lập viên thành lập quỹ: bổ sung quy định về việc ban sáng lập quỹ không phải là người có quan hệ gia đình với nhau; đồng thời quy định hồ sơ liên quan đến sáng lập viên gồm: Sơ yếu lý lịch cá nhân (theo mẫu kèm theo Nghị định này) và phiếu lý lịch tư pháp số 01 do cơ quan có thẩm quyền cấp cho các sáng lập viên thành lập quỹ không quá 06 tháng tính đến ngày nộp hồ sơ và các hồ sơ khác có liên quan Nghị định này; trường hợp sáng lập viên thành lập quỹ là cán bộ, công chức, viên chức có văn bản đồng ý của cơ quan có thẩm quyền theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ thì không cần phiếu lý lịch tư pháp số 01.
- Về thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính về quỹ quy định: (1) Bộ trưởng Bộ Nội vụ có thẩm quyền giải thủ tục hành chính đối với quỹ có phạm vi hoạt động toàn quốc hoặc liên tỉnh và quỹ có tổ chức, cá nhân nước ngoài góp tài sản với công dân, tổ chức Việt Nam để thành lập, hoạt động trong phạm vi tỉnh; (2) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải thủ tục hành chính đối với quỹ hoạt động trong phạm vi cấp tỉnh và quỹ có tổ chức, cá nhân nước ngoài góp tài sản với công dân, tổ chức Việt Nam để thành lập, hoạt động trong phạm vi cấp huyện, xã; (3) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính đối với quỹ hoạt động trong phạm vi cấp huyện, xã; trừ trường hợp quỹ có tổ chức, cá nhân nước ngoài góp tài sản thành lập.
Việc tiếp nhận hồ sơ giải quyết các thủ tục về quỹ dưới hình thức trực tiếp hoặc qua hệ thống bưu chính hoặc trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng dịch vụ công của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 18 Nghị định này.
- Tăng thời hạn quỹ gửi văn bản đề nghị gia hạn đóng góp tài sản thành lập quỹ từ 10 ngày lên 15 ngày và tăng thời gian gia hạn đóng góp tài sản thành lập quỹ từ 20 ngày lên thành 45 ngày kể từ ngày có văn bản gia hạn của cơ quan có thẩm quyền.
- Về quy định thủ tục, hồ sơ công nhận điều lệ sửa đổi, bổ sung của quỹ; cấp lại giấy phép thành lập và công nhận điều lệ quỹ: (i) Thủ tục, hồ sơ công nhận điều lệ sửa đổi, bổ sung của quỹ; (ii) Cấp lại giấy phép thành lập và công nhận điều lệ quỹ.
- Về mở rộng phạm vi hoạt động của quỹ đã bổ sung quy định cụ thể về điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục
- Về hội đồng quản lý quỹ: (1) Bổ sung quy định các thành viên trong Hội đồng quản lý quỹ không phải là người có quan hệ gia đình; (2) Quy định về thời gian chậm nhất 90 ngày trước ngày hết nhiệm kỳ, quỹ phải hoàn thành hồ sơ, thủ tục công nhận hội đồng quản lý hợp lệ gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 18 Nghị định này công nhận. Hội đồng quản lý quỹ nhiệm kỳ trước điều hành hoạt động của quỹ cho đến khi có quyết định công nhận hội đồng quản lý nhiệm kỳ tiếp theo; (3) Quy định cụ thể hồ sơ công nhận thành viên Hội đồng quản lý quỹ ban đầu, khi thay đổi hoặc hết nhiệm kỳ, trong đó quy định cụ thể về sơ yếu lý lịch cá nhân (theo mẫu kèm theo Nghị định này) và phiếu lý lịch tư pháp số 01 do cơ quan có thẩm quyền cấp cho các thành viên Hội đồng quản lý quỹ không quá 06 tháng tính đến ngày nộp hồ sơ. Trường hợp cán bộ, công chức, viên chức tham gia Hội đồng quản lý quỹ, người đã nghỉ hưu được cấp có thẩm quyền theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ đồng ý giới thiệu bầu Chủ tịch Hội đồng quản lý quỹ thì không cần phiếu lý lịch tư pháp số 01.
- Về tổ chức có tư cách pháp nhân của quỹ: bổ sung quy định về thời hạn 30 ngày kể từ ngày quỹ thành lập pháp nhân theo quy định thì quỹ gửi hồ sơ báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Về tài sản, tài chính của quỹ: (1) Chỉnh sửa quy định việc tiếp nhận, sử dụng viện trợ không hoàn lại không thuộc hỗ trợ phát triển chính thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài dành cho quỹ thực hiện theo quy định pháp luật về quản lý, sử dụng nguồn vốn viện trợ không hoàn lại; (2) Chỉnh sửa quy định về định mức chi cho hoạt động quản lý quỹ từ nguồn tài sản, tài chính của quỹ nhưng không quá 10% tổng chi trong năm của quỹ để tài trợ, hỗ trợ cho các chương trình, các đề án theo điều lệ quỹ và quy định pháp luật (không bao gồm các khoản: Tài trợ bằng hiện vật, tài trợ của Nhà nước để thực hiện các dịch vụ công, đề tài nghiên cứu khoa học, các chương trình mục tiêu, đề án do Nhà nước đặt hàng và các khoản tài trợ có số tiền, địa chỉ của người nhận).
- Bổ sung về hồ sơ, trình tự thủ tục về chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể quỹ khi thay đổi địa giới hành chính.
- Bổ sung quy định về đình chỉ có thời hạn hoạt động của quỹ; xử lý vi phạm.
- Đã tăng thời gian giải quyết thủ tục hành chính về quỹ từ 45 ngày làm việc thành 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ và ý kiến của các cơ quan liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, quyết định giải quyết các thủ tục hành chính đối với quỹ.
- Chỉnh sửa, bổ sung quy định đối với trách nhiệm của Bộ Nội vụ; Bộ Tài chính; bộ, cơ quan ngang bộ đối với quỹ hoạt động thuộc lĩnh vực do bộ, ngành quản lý; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Ủy ban nhân dân cấp huyện.
17. Nghị định số 137/2024/NĐ-CP ngày 23 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước và hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 23 tháng 10 năm 2024; Nghị định bãi bỏ Điều 25 Nghị định 64/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 04 năm 2007 quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước; có quy định chuyển tiếp tại Điều 23; không có quy định về hiệu lực trở về trước của văn bản.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Nghị định được ban hành nhằm quy định một số điều Luật Giao dịch điện tử năm 2023 giao Chính phủ quy định chi tiết bao gồm: Điều 12, Điều 44, Điều 45, Điều 47 và khoản 2 Điều 48 của Luật.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định có 05 chương, 24 điều quy định về giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước và hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử, cụ thể như sau:
- Phạm vi điều chỉnh: Nghị định này quy định về giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước và hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử bao gồm chuyển đổi hình thức giữa văn bản giấy và thông điệp dữ liệu; hoạt động của cơ quan nhà nước trên môi trường điện tử; hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử; trách nhiệm của chủ quản nền tảng số trung gian phục vụ giao dịch điện tử quy mô lớn, rất lớn và tiêu chí tín nhiệm mạng của hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử.
- Đối tượng áp dụng: Nghị định này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia trực tiếp hoặc có liên quan đến giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước và hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử.
- Các quy định chính: Quy định về chuyển đổi hình thức giữa văn bản giấy và thông điệp dữ liệu; quy định về hoạt động của cơ quan nhà nước trên môi trường điện tử, trong đó ưu tiên thực hiện 04 hoạt động toàn trình trên môi trường điện tử bao gồm: dịch vụ công; quản trị nội bộ; chỉ đạo, điều hành; thanh tra, kiểm tra, giám sát; quy định về trách nhiệm của chủ quản nền tảng số trung gian phục vụ giao dịch điện tử quy mô lớn, rất lớn.
18. Nghị định số 138/2024/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng chi thường xuyên ngân sách nhà nước để mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (ngày 24 tháng 10 năm 2024).
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Căn cứ đề nghị của các Bộ, ngành địa phương và phản ánh của các đại biểu Quốc hội về những vướng mắc trong việc áp dụng quy đinh pháp luật về Luật Ngân sách nhà nước và Luật Đầu tư công trong việc bố trí, quản lý, sử dụng kinh phí chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước thực hiện các nhiệm vụ mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp mở rộng công trình xây dựng; triển khai thực hiện kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Thông báo số 3307/TB-TTKQH ngày 18/01/2024 và Thông báo số 4177/TB-TTKQH ngày 22/8/2024 của Tổng thư ký Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 138/2024/NĐ-CP nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong thời gian vừa qua.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 04 chương, 12 điều quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng chi thường xuyên ngân sách nhà nước để mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng, cụ thể như sau:
- Nghị định có phạm vi điều chỉnh là việc lập dự toán, phân bổ dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí chi thường xuyên ngân sách nhà nước quy định tại khoản 6 Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, gồm: Mua sắm tài sản, trang thiết bị theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công; Cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng, pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công (Nghị định số 138/2024/NĐ-CP không điều chỉnh với một số nội dung quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 1 Nghị định này)
- Đối tượng áp dụng của Nghị định là các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị - xã hội; các đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến sử dụng kinh phí chi thường xuyên ngân sách nhà nước để mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng.
- Về nội dung chủ yếu: Nghị định số 138/2024/NĐ-CP đã quy định về nguyên tắc bố trí dự toán ngân sách nhà nước chi thường xuyên để thực hiện nhiệm vụ mua sắm tài sản, trang thiết bị; cải tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới hạng mục công trình trong các dự án đã đầu tư xây dựng; thẩm quyền phê duyệt nhiệm vụ và dự toán kinh phí; trình tự thủ tục xây dựng dự toán, tổng hợp, phân bổ dự toán; quản lý sử dụng, quyết toán kinh phí và trách nhiệm, chế tài và chế tài cụ thể đối với các bộ, cơ quan, địa phương.
19. Nghị định số 139/2024/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định thể thức bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 09 tháng 12 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Cơ sở chính trị
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là chủ trương chiến lược, xuyên suốt của Đảng ta nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, không ngừng củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Trước yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, thời gian qua Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng thế hiện chủ trương, quan điêm về phát triến kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Tại Nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc đều chỉ rõ yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
Triển khai các nghị quyết của Đảng, các cấp, các ngành đã thường xuyên xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật về xây dựng và bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Cơ sở pháp lý
Vùng trời Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm khoảng không bao trùm phía trên đất liền, trên nội thủy, lãnh hải và trên hải đảo, quần đảo của Việt Nam do pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định.
Về quy chế pháp lý của vùng trời quốc gia, một nguyên tắc được công nhận rộng rãi trong luật pháp quốc tế là quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối đối với vùng trời quốc gia (Điều 1 Công ước Chicago năm 1944 về Hàng không dân dụng quốc tế).
Pháp luật Việt Nam ghi nhận và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng trời quốc gia quy định trong Hiến pháp năm 2013 và các luật: Luật Quốc phòng năm 2018, Luật Biên giới quốc gia năm 2003, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2014 và Luật Biển Việt Nam năm 2012.
Khoản 2 Điều 94 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2014, quy định: “Bộ Quốc phòng chủ trì, phối họp với Bộ Giao thông vận tải quy định thể thức bay chặn, bắt buộc tàu bay hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay, các biện pháp cưỡng chế khác đối với tàu bay”.
Theo quy định trên, Bộ Quốc phòng và Bộ Giao thông vận tải phối hợp ban hành thông tư liên tịch quy định các nội dung Luật Hàng không dân dụng Việt Nam giao như trên. Tuy nhiên, theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hiện nay không còn hình thức thông tư liên tịch giữa các Bộ, trừ trường hợp ban hành thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ để quy định về việc phối hợp thực hiện trình tự, thủ tục tố tụng và phòng chống tham nhũng.
Theo khoản 2 Điều 19 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định: “Chính phủ ban hành Nghị định để quy định những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn từ 2 bộ, cơ quan ngang bộ trở lên...” do đó, hình thức văn bản quy định về thể thức bay chặn, bắt buộc tàu bay hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay, các biện pháp cương chế khác đối với tàu bay phải thực hiện bằng Nghị định của Chính phủ.
Cơ sở thực tiễn
Những năm qua, các đơn vị quân đội đã triển khai, thực hiện tốt chức năng của Bộ Quốc phòng về công tác quản lý vùng trời, quản lý các hoạt động bay, xử lý kịp thời các tình huống, bảo đảm an toàn cho hoạt động hàng không dân dụng và quân sự; các đơn vị không quân thường xuyên tổ chức bay huấn luyện nội dung bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm; tuy nhiên, do chưa được quy định bằng các văn bản quy phạm pháp luật, chưa có cơ sở pháp lý để các lực lượng thuộc các Bộ, ngành khác nhau hiệp đồng tổ chức huấn luyện, diễn tập; khi có tình huống liên quan đến vụ việc vi phạm trong vùng trời xảy ra còn gặp khó khăn, vướng mắc về cơ sở pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn trong phối hợp thực hiện.
Từ thực tiễn về tình hình các vụ việc vi phạm về chế độ bay, quy tắc bay, khu vực cấm bay và khu vực hạn chế bay xảy ra trong thời gian qua; trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, dự báo trong thời gian tới các hoạt động bay sẽ gia tăng nhanh chóng cả về số lượng, kiểu loại, tính chất và cường độ, đặt ra những khó khăn, thách thức không nhỏ cho công tác quản lý, bảo vệ vùng trời. Hội nhập quốc tế là cơ hội phát triển đất nước song cũng là thách thức trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách lợi dụng sơ hở để thực hiện các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta trên nhiều lĩnh vực của đời sống; trong đó, chúng có thể lợi dụng hoạt động hàng không dân dụng để thực hiện các hành vi thù địch, can thiệp bất hợp pháp đặt ra các yêu cầu ngày càng cao trong việc triển khai các biện pháp quản lý và xử lý có hiệu quả vụ việc vi phạm vùng trời, vi phạm chế độ bay, đáp ứng yêu cầu bảo đảm an toàn, an ninh vùng trời.
Tính chất hoạt động bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay tương đối phức tạp; việc phát hiện các vi phạm, xác minh hành vi vi phạm yêu cầu phải được sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng liên quan thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông vận tải, các Bộ, ngành và địa phương liên quan để kịp thời đưa ra quyết định xử lý chính xác.
Để hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, bảo vệ vùng trời, sẵn sàng xử lý kịp thời các tình huống trên không, cần có văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể việc sử dụng lực lượng không quân để bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm hạ cánh, việc Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan xây đựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định thể thức bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam hạ cánh tại các câng hàng không, sân bay là cần thiết và có cơ sở.
- Mục đích ban hành:
+ Hoàn thiện thể chế, cơ sở pháp lý về bảo vệ vùng ừời nhằm xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các lực lượng thuộc Bộ Quốc phòng trong quản lý, bảo vệ vùng trời Việt Nam.
+ Làm cơ sở pháp lý để các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông vận tải áp dụng trong thực tiễn về quản lý, bảo vệ vững chắc và sử dụng vùng trời Vỉệt Nam đảm bảo thống nhất, chặt chẽ, đúng pháp luật.
+ Góp phần ngăn ngừa, đấu tranh xử lý các hành vi vi phạm vùng trời Việt Nam.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 04 chương, 22 điều quy định thể thức bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay, cụ thể như sau:
- Chương I: Quy định chung, gồm 03 điều (từ Điều 1 đến Điều 3); quy định về: Phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ.
- Chương II: Xử lý tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam, gồm 11 điều (từ Điều 4 đến Điều 14); quy định về: Tàu bay vi phạm vùng trời bị bay chặn, bay kèm, bay ép hạ cánh tại các cảng hàng không, sân bay; thể thức bay chặn, .bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay và sử dụng thông tin, ký, tín hiệu; xử lý tàu bay vi phạm vùng trời không chấp hành hiệu lệnh của tàu bay bay chặn, bay kèm, bay ép hạ cánh; lực lượng thực hiện bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm hạ cánh; thẩm quyền ra lệnh bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm hạ cánh; quy trình xử lý tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam; lực lượng xử lý, công tác phối họp, hiệp đồng giữa các lực lượng tham gia xử lý tàu bay vi phạm vùng trời bị bay chặn, bay kèm, bay ép hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay.
- Chương III: Trách nhiệm của các Bộ, ngành Trung ương và tổ chức, cá nhân liên quan, gồm 06 điều (từ Điều 15 đến Điều 20); quy định về: Trách nhiệm của Bộ Quồc phòng; Bộ Giao thông vận tải; trách nhiệm của các Bộ liên quan (Bộ Công an, Tài Chính, Ngoại giao) và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có cảng hàng không, sân bay.
- Chương IV: Điều khoản thi hành, gồm 02 điều (Điều 21 và Điều 22); quy định về hiệu lực thi hành và trách nhiệm thi hành.
Nội dung cơ bản của Nghị định
- Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Nghị định quy định thể thức bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay; lực lượng bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm hạ cánh; tàu bay không người lái và phương tiện bay siêu nhẹ không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này.
Nghị định áp dụng đối với các loại tàu bay có người lái bay trên vùng tròi Việt Nam có hành vi vi phạm quy định về hoạt động bay; áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động bay trong vùng trời Việt Nam và các cơ quan, đơn vị quản lý khai thác cảng hàng không, sân bay tại Việt Nam.
- Nội dung thể thức bay chặn, bay kèm và bay ép tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay
Đây là nội dung chính của Nghị định, quy định cụ thể về phương pháp, cách thức bay chặn, bay kèm và bay ép tàu bay vi phạm từ khi phát lệnh cho lực lượng bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm hạ cánh cánh; phương pháp tiếp cận tàu bay vi phạm; thiết lập tốc độ, giữ khoảng cách phù hợp bảo đảm an toàn và phi công của tàu bay vi phạm đủ nhìn thấy để tiếp nhận thông tin từ tàu bay bay chặn, bay kèm, bay ép; sau khi thiết lập tốc độ và khoảng cách, tiến hành phát ký, tín hiệu nhằm làm cho phi công vi phạm tiếp nhận thông tin và điều chỉnh hành vi vi phạm.
Trường hợp tàu bay bị bay chặn, bay kèm là khi tàu bay bay vào vùng trời Việt Nam chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép bay; đang bay trong vùng trời Việt Nam nhưng bay vào khu vực cấm bay, khu vực hạn chế bay hoặc không tuân thủ quy tắc bay; vi phạm chế độ bay nhưng không chấp hành hướng dẫn của cơ quan điều hành bay.
Trường hợp tàu bay bị bay ép hạ cánh tại các cảng hàng không, sân bay là khi tàu bay đang bay trong vùng trời Việt Nam bị can thiệp bất hợp pháp; tàu bay đang bị bay chặn, bay kèm trong vùng trời Việt Nam nhưng không chấp hành hiệu lệnh của tàu bay bay chặn, bay kèm thì sẽ bị lực lượng Không quân của Việt Nam tiến hành bay ép hạ cánh tại các cảng hàng không, sân bay để xử lý theo các quy định của pháp luật.
- Xử lý tàu bay vi phạm vùng trời hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay
Quy định về lực lượng thực hiện bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm; thẩm quyền ra lệnh bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay.
Quy trình xử lý tàu bay vi phạm trong vùng trời Việt Nam; lực lượng xử lý tàu bay vi phạm, người vi phạm khi tàu bay vỉ phạm vùng trời bị bay ép hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay.
Công tác phối hợp, hiệp đồng giữa các lực lượng tham gia xử lý tàu bay vi phạm bị bay chặn, bay kèm, bay ép hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay và phối hợp xử lý tàu bay vi phạm, người vi phạm khi tàu bay bị bay ép hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay. Quy định nguyên tắc phối hợp, hiệp đồng; nội dung phối hợp, hiệp đồng trong quá trình xử lý tàu bay vi phạm đang ở trên không và sau khi hạ cánh tạỉ cảng hàng không, sân bay.
- Trách nhiệm của các Bộ, ngành và địa phương liên quan
Chương này quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ Quốc phòng là cơ quan chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông vận tải và các ban, bộ, ngành Trung ương, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có cảng hàng không, sân bay triển khai lực lượng tổ chức bay chặn, bay kèm, bay ép tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay.
Bộ Giao thông vận tải là cơ quan phối hợp xây dựng, đào tạo, huấn luyện và trang bị các phương tiện, thiết bị kỹ thuật cho lực lượng chức năng thuộc quyền; chủ trì, phối hợp với các ban, bộ, ngành liên quan trong hợp tác quốc tế để xử lý tình huống đối với tàu bay quốc tịch nước ngoài vi phạm vùng trời Việt Nam. Chỉ đạo đề xuất các nội dung, tổ chức các cuộc diễn tập cấp quốc gia theo chỉ đạo của Chủ tịch ủy ban An ninh hàng không dân dụng quốc gia về xử lý tình huống khi tàu bay vi phạm vùng trời Việt Nam bị bay chặn, bay kèm, bay ép hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay.
Bộ Công an là cơ quan chủ trì điều hành, tổ chức các biện pháp bảo đảm an ninh hàng không khi tàu bay vi phạm hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay. Chỉ đạo thực hiện các biện pháp xử lý đối với tàu bay vi phạm và người trên tàu bay sau khi tàu bay vi phạm hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay.
Bộ Tài chính chỉ đạo các đơn vị Hải quan tại các cảng hàng không quốc tế chủ trì kiểm tra, xác minh theo quy định của pháp luật đốỉ với các vật phẩm nguy hiểm.
Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Giao thông vận tải thực hiện hợp tác quốc tế trong xử lý đối với tàu bay mang quốc tịch nước ngoài vi phạm vùng trời Việt Nam bị bay chặn, bay kèm, bay ép hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay.
Ủy ban nhân đân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ưang nơi có cảng hàng không, sân bay (Ban Chỉ đạo phòng, chống khủng bố cấp tỉnh) phối hợp xử lý tàu bay vi phạm bị ép hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay.
20. Nghị định số 140/2024/NĐ-CP ngày 25 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về thanh lý rừng trồng
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 25 tháng 10 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Cơ sở chính trị, pháp lý
+ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu”; “Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế... Cơ cấu lại thị trường bất động sản, đất đai, tài nguyên để đất đai, tài nguyên được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả cao”; “Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên”; “Chủ động… quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên”; Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tại Mục II.4 xác định quan điểm “…Quản lý, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên đất, tài nguyên nước, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển bền vững các hệ sinh thái”; Mục IV.7 xác định nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu “… Quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, chuyển mạnh sang mô hình tăng trưởng xanh…”…
Đồng thời, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng đề ra các nhiệm vụ, giải pháp tăng cường quản lý, bảo vệ, phát triển rừng, phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái: “Định hướng các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 – 2025:… Về môi trường: Đến năm 2025… giữ tỉ lệ che phủ rừng ổn định 42%...”; Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định mục tiêu cụ thể đến năm 2030: “Tỉ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%”…
+ Luật Lâm nghiệp năm 2017 tại khoản 1 Điều 7 về sở hữu rừng quy định: “1. Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đối với rừng thuộc sở hữu toàn dân bao gồm: a) Rừng tự nhiên; b) Rừng trồng do Nhà nước đầu tư toàn bộ; c) Rừng trồng do Nhà nước thu hồi, được tặng cho hoặc trường hợp chuyển quyền sở hữu rừng trồng khác theo quy định của pháp luật.”.
+ Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 quy định: Khoản 1 Điều 3 quy định: “Tài sản công là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, bao gồm: tài sản công phục vụ hoạt động quản lý, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại cơ quan, tổ chức, đơn vị; tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; …và các loại tài nguyên khác”; Điều 4 (Phân loại tài sản công): Rừng tự nhiên (tài nguyên rừng) được quy định tại khoản 7; rừng trồng là tài sản được quy định tại khoản 3, khoản 4 và khoản 5.
Như vậy, việc thanh lý rừng trồng có những đặc thù riêng, không chỉ thực hiện theo quy định của pháp luật quản lý, sử dụng tài sản công mà còn phải thực hiện theo quy định của pháp luật lâm nghiệp. Vì vậy, việc xây dựng Nghị định quy định về thanh lý rừng trồng là cần thiết, đảm bảo phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung và phù hợp với pháp luật quản lý, sử dụng tài sản công và pháp luật chuyên ngành về lâm nghiệp.
Cơ sở thực tiễn
Thực hiện Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng (được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Quyết định số 34/2011/QĐ-TTg ngày 24/6/2011), Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 18/2013/TT-BTC ngày 20/02/2013 hướng dẫn trình tự, thủ tục thanh lý rừng trồng và quản lý, sử dụng số tiền thu được từ thanh lý rừng trồng không thành rừng, rừng trồng không có khả năng thành rừng (Thông tư 18/2013/TT-BTC).
Theo báo cáo của 24 địa phương, giai đoạn từ tháng 4 năm 2013 đến tháng 02 năm 2021, đã thanh lý rừng trồng với tổng diện tích là 8.808,793ha (trong đó: diện tích chưa thành rừng 697,61 ha; diện tích thành rừng 5.193,73 ha; diện tích chưa xác định được loại rừng 2.917,453 ha). Thông tư số 18/2013/TT-BTC đã tạo hành lang pháp lý cho các chủ rừng xử lý kịp thời các diện tích rừng trồng không có khả năng thành rừng, góp phần sử dụng có hiệu quả diện tích đất rừng được giao, hạn chế thất thoát tài sản của Nhà nước; đồng thời, giúp các chủ rừng quản lý tài sản, sử dụng số tiền thu được từ thanh lý rừng trồng theo đúng các quy định của Nhà nước.
Tuy nhiên, việc thực hiện thanh lý rừng trồng theo Thông tư số 18/2013/TT- BTC cũng có tồn tại, hạn chế, cụ thể như sau:
+ Việc xác định nguyên nhân, thiệt hại gặp nhiều khó khăn vì chưa rõ thành phần tham gia thẩm định, các địa phương thực hiện không thống nhất.
+ Việc kiểm tra xác minh hiện trường trong nhiều trường hợp chưa kịp thời vì cơ quan chuyên môn chưa được chủ động, phải mất nhiều thời gian để xin ý kiến về việc thành lập đoàn kiểm tra xác minh.
+ Việc thực hiện trình tự thủ tục thanh lý rừng trồng cũng còn những vướng mắc, chưa quy định cụ thể về trách nhiệm xử lý của các đơn vị liên quan.
+ Việc quy định về xử lý tài chính đối với rừng trồng chưa cụ thể nên việc đầu tư trồng rừng cũng gặp nhiều khó khăn sau khi thanh lý rừng.
Nguyên nhân của những khó khăn trên là do Thông tư số 18/2013/TT-BTC:
+ Chưa quy định việc thành lập Hội đồng thẩm định để giúp cơ quan chuyên môn thực hiện việc đánh giá, tư vấn các nội dung thực hiện thanh lý rừng trồng;
+ Quy định chỉ thành lập đoàn kiểm tra xác minh trong trường hợp cần thiết và do cơ quan quyết định thanh lý quyết định;
+ Trình tự, thủ tục thanh lý rừng trồng chưa rõ ràng, cụ thể;
+ Việc quy định về xử lý tài chính đối với rừng trồng trong giai đoạn đầu tư và sau giai đoạn đầu tư chưa cụ thể, rõ ràng.
Ngày 28/12/2020, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 110/2020/TT-BTC bãi bỏ Thông tư số 18/2013/TT-BTC; theo đó, Thông tư số 18/2013/TT-BTC hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/02/2021. Từ tháng 02 năm 2021 đến nay, do chưa có văn bản pháp luật quy định về thanh lý rừng trồng được đầu tư bằng nguồn vốn của Nhà nước, các địa phương gặp nhiều khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện thanh lý rừng trồng. Tính đến tháng 12 năm 2023, BộNông nghiệp và Phát triển nông thôn đã nhận được văn bản của 15 tỉnh 6 đề nghị hướng dẫn về thanh lý rừng. Theo báo cáo của các địa phương, tính đến nay có 2.201,72 ha rừng trồng cần thanh lý nhưng chưa thực hiện được.
Từ năm 2018, thực hiện Luật Lâm nghiệp và các văn bản hướng dẫn, chính sách trồng rừng thay thế đã phát huy hiệu quả, góp phần vào việc tăng độ che phủ rừng toàn quốc. Tuy nhiên, việc trồng rừng theo chính sách này cũng phát sinh những trường hợp cần thanh lý tương tự như đối với rừng trồng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Trong thời gian qua, hệ thống pháp luật có nhiều thay đổi, nhất là trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công (Luật Quản lý, sử dụng tài sản công được ban hành năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành) và lĩnh vực lâm nghiệp (Luật Lâm nghiệp năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành) đòi hỏi các quy định về thanh lý rừng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, việc xây dựng Nghị định quy định về thanh lý rừng trồng là rất cần thiết để khắc phục “khoảng trống pháp lý”; đảm bảo phù hợp với pháp luật quản lý, sử dụng tài sản công và pháp luật chuyên ngành về lâm nghiệp; giải quyết những vấn đề vướng mắc trên thực tế nhằm thúc đẩy việc phát triển rừng, góp phần thực hiện các chỉ tiêu đã đề ra.
- Mục đích ban hành:
+ Cụ thể hóa những quy định của pháp luật quản lý, sử dụng tài sản công nhằm quản lý chặt chẽ rừng trồng được đầu tư từ ngân sách nhà nước và rừng trồng từ nguồn vốn hợp pháp khác, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng bền vững diện tích rừng và diện tích đất quy hoạch cho phát triển lâm nghiệp;
+ Tạo cơ sở pháp lý để thực hiện Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050, góp phần ổn định tỷ lệ che phủ rừng, giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường và đảm bảo quốc phòng, an ninh.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định bao gồm 15 điều quy định về thanh lý rừng trồng, cụ thể như sau:
+ Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Nghị định này quy định trình tự, thủ tục thanh lý và quản lý, sử dụng số tiền thu được từ thanh lý rừng trồng thuộc sở hữu toàn dân.
2. Trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định cụ thể, việc thanh lý rừng trồng được thực hiện theo điều ước quốc tế đã ký kết.
+ Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Nghị định này áp dụng đối với cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư có liên quan đến các hoạt động thanh lý rừng trồng theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị định này.
2. Khuyến khích áp dụng các quy định về thanh lý rừng trồng tại Nghị định này đối với rừng trồng thuộc sở hữu của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư theo khoản 2 Điều 7 Luật Lâm nghiệp.
+ Điều 3. Giải thích từ ngữ
+ Điều 4. Nguyên nhân thanh lý rừng trồng
+ Điều 5. Nguyên tắc thanh lý rừng trồng
+ Điều 6. Thẩm quyền quyết định thanh lý rừng trồng
+ Điều 7. Các trường hợp rừng trồng được thanh lý
+ Điều 8. Hình thức thanh lý rừng trồng
+ Điều 9. Hồ sơ thanh lý rừng trồng
+ Điều 10. Trình tự, thủ tục thanh lý rừng trồng
+ Điều 11. Tổ chức thực hiện thanh lý rừng trồng
+ Điều 12. Quản lý, sử dụng tiền thu được từ thanh lý rừng trồng
+ Điều 13. Trách nhiệm của bộ, cơ quan trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
+ Điều 14. Hiệu lực thi hành
+ Điều 15. Trách nhiệm thi hành
21. Nghị định số 141/2024/NĐ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS)
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 12 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Thuận lợi
Các Nghị định số 108/2007/NĐ-CP; Nghị định số 75/2016/NĐ-CP; Nghị định số 90/2016/NĐ-CP và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP sau khi được ban hành đã tạo hành lang pháp lý và tạo điền kiện thuận lợi cho công tác phòng, chống HIV/AIDS, trong việc:
+ Thứ nhất, giảm tỷ lệ lây truyền HIV, tăng độ bao phủ của chương trình cung cấp bao cao su (BCS), bơm kim tiêm (BKT), đa dạng mô hình cung cấp BCS và BKT bảo đảm tính sẵn có và tăng khả năng tiếp cận của các nhóm người có hành vi nguy cơ cao.
+ Thứ hai, đảm bảo việc cung ứng thuốc kháng HIV (ARV) có chất lượng, đầy đủ, thường xuyên, liên tục, kịp thời, đáp ứng đủ nhu cầu điều trị của người bệnh. Thiết lập thống nhất một hệ thống cung ứng thuốc ARV quốc gia. Chuyển đổi cung ứng thuốc sang cơ chế thanh toán qua nguồn Bảo hiểm y tế đảm bảo tính bền vững cho chương trình. Góp phần đạt 86% người nhiễm HIV được điều trị ARV với hơn 90% bệnh nhân chi trả qua hệ thống bảo hiểm y tế; duy trì 96% người điều trị ARV có tải lượng HIV được kiểm soát; duy trì dưới 5% tỷ lệ kháng ARV; số lượng bệnh nhân HIV tử vong hàng năm giảm dưới mức 2.000 bệnh nhân.
+ Thứ ba, đa dạng hóa hình thức cung cấp dịch vụ xét nghiệm HIV tại cộng đồng và tại cơ sở y tế. Đã thiết lập được hệ thống cơ sở xét nghiệm HIV theo 3 cấp: cộng đồng, sàng lọc, khẳng định HIV; hệ thống cơ sở xét nghiệm rộng khắp 63 tỉnh, thành phố với hơn 1.300 cơ sở xét nghiệm sàng lọc, hơn 239 cơ sở xét nghiệm khẳng định HIV.
+ Thứ tư, việc triển khai đề án thí điểm cấp phát thuốc điều trị thay thế nhiều ngày cho các đối tượng đang điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế ở giai đoạn ổn định liều (Quyết định 2898/QĐ-BYT ngày 17/7/2023 của Bộ Y tế phê duyệt Đề án duy trì và mở rộng cấp thuốc Methadone nhiều ngày cho người bệnh điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện giai đoạn 2023-2024) tạo điều kiện cho người bệnh tiếp cận và tuân thủ điều trị tốt, giúp người bệnh không bị ảnh hưởng đến thời gian làm việc, đi lại, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi đi lại khó khăn (hiện này có khoảng 50% số người bệnh đang được điều trị tại các tỉnh miền núi).
+ Thứ năm, bảo đảm kinh phí nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS, bao gồm: cung ứng thuốc Methadone và chi phí khám chữa bệnh cho 06 nhóm đối tượng ưu tiên với khoảng 40 tỷ đồng/năm; phụ cấp ưu đãi nghề dành cho người làm công tác điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế 76 tỷ đồng/năm; đồng chi trả thuốc kháng HIV 40 tỷ đồng/năm; hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nhiễm HIV 43 tỷ đồng/năm.
Khó khăn, tồn tại
Trong quá trình thực hiện 03 Nghị định nêu trên đã bộc lộ một số tồn tại, bất cập, cụ thể như sau:
+ Thứ nhất, nội dung quy định chi tiết khoản 6 và khoản 9 Điều 1 Luật HIV 2020 về việc cho phép người nhiễm HIV, người có hành vi nguy cơ cao được thực hiện cung cấp dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS và Xét nghiệm sàng lọc HIV, xét nghiệm khẳng định HIV dương tính chưa được hướng dẫn đầy đủ: (1) Tuyên truyền và tham gia thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV theo quy định của Chính phủ; (2) Cung cấp dịch vụ tư vấn, xét nghiệm sàng lọc HIV, sinh phẩm tự xét nghiệm HIV cho người có hành vi nguy cơ cao khi đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của Chính phủ; (3) Điều kiện, hồ sơ, thủ tục công nhận cơ sở đủ điều kiện xét nghiệm khẳng định HIV dương tính theo quy định của Chính phủ.
+ Thứ hai, việc quy định các biện pháp và đối tượng áp dụng các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV chưa đầy đủ, chưa đảm bảo việc mở rộng các giải pháp dự phòng lây nhiễm HIV và cụ thể hóa các nhóm đối tượng cần can thiệp nhằm thích ứng với sự thay đổi về tình hình dịch tễ HIV và các nhóm có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV mới nổi theo như quy định của khoản 7 Điều 1 Luật phòng, chống HIV/AIDS năm 2020 (sửa đổi, bổ sung Điều 21 Luật Phòng, chống HIV/AID năm 2006).
+ Thứ ba, việc quản lý, phân phối, sử dụng thuốc kháng HIV phát sinh nhiều điểm chưa phù hợp với Luật Ngân sách nhà nước, Luật Dược, Luật Bảo hiểm y tế cần phải thay đổi. Thực tiễn phát sinh 03 nhóm đối tượng được cấp thuốc ARV miễn phí gồm có: người bị phơi nhiễm, người bị nhiễm HIV do tham gia cứu nạn; trẻ em có chỉ định điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con; người nhiễm HIV trong cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở trợ giúp xã hội, trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ khác . Việc thay đổi này nhằm đảm bảo độ bao phủ cho các nhóm đối tượng trên được tiếp cận với thuốc ARV, thể hiện được tính ưu việt của xã hội, nhà nước và phù hợp với khoản 13 Điều 1 Luật Phòng, chống HIV/AIDS năm 2020 (sửa đổi, bổ sung Điều 39 Luật Phòng, chống HIV/AIDS năm 2006).
+ Thứ tư, một số quy định đối với người nghiện các chất dạng thuốc phiện tại Nghị định số 90/2016/NĐ-CP chưa đồng bộ thống nhất với quy định đã thay đổi tại Luật Phòng, chống ma túy năm 2021 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính.
+ Thứ năm, về hồ sơ, thủ tục đăng ký tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế và hồ sơ, thủ tục cấp thẻ nhân viên tiếp cận cộng đồng còn bất cập, không còn phù hợp với thực tế và chưa đáp ứng được yêu cầu về cắt giảm thủ tục hành chính. Việc quy định hồ sơ, thủ tục cấp thẻ nhân viên tiếp cận cộng đồng tại Thông tư liên tịch là không còn phù hợp với quy định ban hành văn bản quy phạm pháp luật về kiểm soát thủ tục hành chính.
+ Thứ sáu, một số quy định về điều kiện cơ sở vật chất, nhân sự để tổ chức hoạt động của cơ sở điều trị thay thế, cơ sở xét nghiệm khẳng định HIV dương tính cần phải thay đổi cho phù hợp với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh và an toàn sinh học. Đồng thời, còn thiếu quy định về điều kiện, thẩm quyền, hồ sơ, trình tự, thủ tục chỉ định, điều chỉnh giấy chứng nhận cơ sở xét nghiệm khẳng định HIV dương tính tham chiếu tại Nghị định số 75/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016.
+ Thứ bảy, một số thủ tục công bố cơ sở đủ điều kiện điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế quy định tại Nghị định số 90/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 không còn phù hợp với thực tiễn.
+ Thứ tám, việc thanh toán tập trung cấp quốc gia đối với thuốc kháng HIV từ nguồn quỹ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế quy định tại khoản 1 Điều 3 và hình thức mua sắm thuốc kháng HIV quy định tại Điều 2 Quyết định số 2188/QĐ-TTg không còn phù hợp với bối cảnh thực tế do hình thức thanh toán tập trung làm hạn chế khả năng chủ động tự mua thuốc và thanh toán của cơ sở y tế cho nhà thầu trúng thầu theo quy định pháp luật của bảo hiểm y tế. Các quy định này thuộc thẩm quyền của Chính phủ, vì vậy cần quy định tại dự thảo Nghị định.
Như vậy, việc xây dựng Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi-rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) là hết sức cần thiết và có cơ sở pháp lý.
- Mục đích ban hành:
Khắc phục các tồn tại, hạn chế, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật trong các quy định liên quan đến quy định chi tiết của Luật Phòng, chống HIV/AIDS về dự phòng lây nhiễm HIV, can thiệp giảm tác hại, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, điều trị HIV/AIDS, tư vấn và xét nghiệm HIV, huy động sự tham gia của nhóm đối tượng đích và cộng đồng trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 7 chương, 57 điều quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS), cụ thể như sau:
- Chương I. Quy định chung gồm 02 Điều quy định về: Phạm vi điều chỉnh và giải thích từ ngữ.
Nghị định này quy định chi tiết khoản 2 Điều 23, khoản 3 Điều 28, khoản 4 Điều 39 và khoản 5 Điều 41 của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS); các khoản 6, 7 và 9 Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (sau đây gọi là Luật Phòng, chống HIV/AIDS) về:
(i) Các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV trừ các biện pháp đã được quy định tại Nghị định số 63/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (sau đây gọi là Nghị định số 63/2021/NĐ-CP).
(ii) Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
(ii) Tư vấn và xét nghiệm HIV.
(iv) Lồng ghép hoạt động phòng, chống HIV/AIDS với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
(v) Danh mục một số nghề phải xét nghiệm HIV trước khi tuyển dụng.
(vi) Quản lý, phân phối, sử dụng thuốc kháng HIV và thuốc thay thế.
- Chương II. Các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV gồm 12 Điều quy định về:
+ Tổ chức thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV.
+ Tiêu chuẩn, thẩm quyền và thủ tục cấp thẻ nhân viên tiếp cận cộng đồng.
+ Các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS của người nhiễm HIV, người có hành vi nguy cơ cao.
- Chương III. Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế gồm 22 Điều quy định về:
+ Đăng ký tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
+ Điều kiện của cơ sở điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
+ Công bố đủ điều kiện điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
+ Cấp phát thuốc điều trị thay thế nhiều ngày.
- Chương IV. Tư vấn và xét nghiệm HIVgồm 10 Điều quy định về:
+ Điều kiện thực hiện tư vấn và xét nghiệm HIV.
+ Thẩm quyền, hồ sơ, thủ tục cấp, điều chỉnh, thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện xét nghiệm khẳng định các trường hợp HIV dương tính hoặc chỉ định, điều chỉnh, thu hồi quyết định cơ sở thực hiện xét nghiệm khẳng định HIV dương tính tham chiếu và đình chỉ hoạt động xét nghiệm khẳng định các trường hợp HIV dương tính hoặc xét nghiệm khẳng định HIV dương tính tham chiếu.
- Chương V. Lồng ghép hoạt động phòng, chống HIV/AIDS với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và danh mục một số nghề phải xét nghiệm HIV trước khi tuyển dụng gồm 02 Điều quy định về:
+ Lồng ghép hoạt động phòng, chống HIV/AIDS với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
+ Danh mục một số nghề phải xét nghiệm HIV trước khi tuyển dụng.
- Chương VI. Quản lý, phân phối, sử dụng thuốc kháng HIV và quản lý thuốc thay thế gồm 05 Điều quy định về:
+ Quản lý thuốc kháng HIV.
+ Phân phối thuốc kháng HIV miễn phí.
+ Kê đơn, sử dụng thuốc kháng HIV.
+ Mua sắm, thanh toán và chế độ hỗ trợ người sử dụng thuốc kháng HIV nguồn quỹ bảo hiểm y tế.
+ Quản lý thuốc thay thế.
- Chương VII. Trách nhiệm thi hành gồm 03 Điều quy định về: Hiệu lực thi hành, điều khoản chuyển tiếp và trách nhiệm thi hành, cụ thể như sau:
+ Điều 55. Hiệu lực thi hành
1. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 12 năm 2024.
2. Các văn bản sau đây hết hiệu lực thi hành, kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành:
a) Nghị định số 108/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (sau đây gọi là Nghị định số 108/2007/NĐ-CP);
b) Nghị định số 75/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 quy định điều kiện thực hiện xét nghiệm HIV (sau đây gọi là Nghị định số 75/2016/NĐ-CP);
c) Nghị định số 90/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 quy định về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
3. Bãi bỏ khoản 1 và 2 Điều 16 Chương VIII Lĩnh vực phòng, chống HIV/AIDS Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2018 sửa đổi bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế (sau đây gọi là Nghị định số 155/2018/NĐ-CP).
4. Bãi bỏ điểm b khoản 1, điểm b khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 13 Nghị định số 63/2021/NĐ-CP.
+ Điều 56. Điều khoản chuyển tiếp
1. Hồ sơ đề nghị công bố đủ điều kiện điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế của cơ sở điều trị thay thế, cơ sở cấp phát thuốc nộp cho cơ quan có thẩm quyền trước khi Nghị định này có hiệu lực thi hành thực hiện theo quy định tại Nghị định số 90/2016/NĐ-CP và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP.
2. Hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện của cơ sở xét nghiệm khẳng định HIV dương tính hoặc chỉ định cơ sở xét nghiệm khẳng định HIV dương tính tham chiếu nộp cho cơ quan có thẩm quyền trước khi Nghị định này có hiệu lực thi hành thực hiện theo quy định tại Nghị định số 75/2016/NĐ-CP và Nghị định số 155/2018/NĐ-CP.
3. Hồ sơ đề nghị cấp Thẻ nhân viên tiếp cận cộng đồng tham gia thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV đã nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BYT-BCA ngày 20 tháng 01 năm 2010 của liên Bộ Y tế, Công an quy định việc cấp, phát, quản lý và sử dụng Thẻ nhân viên tiếp cận cộng đồng tham gia thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV.
4. Chế độ, chính sách đối với người làm công tác điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế theo quy định tại khoản 4 Điều 22 Nghị định số 90/2016/NĐ-CP tiếp tục được áp dụng đến khi thực hiện cải cách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21 tháng 5 năm 2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về Cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp.
+ Điều 57. Trách nhiệm thi hành
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này”.
22. Nghị định số 142/2024/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2024 của Chính phủ quy định về quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật
a) Hiệu lực thi hành: Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2025, thay thế Nghị định số 18/2002/NĐ-CP ngày 18/02/2002 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý kho vật chứng; Nghị định số 70/2013/NĐ-CP ngày 02/7/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý kho vật chứng ban hành kèm theo Nghị định số 18/22/NĐ-CP ngày 18/02/2002 của Chính phủ.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Ngày 18 tháng 02 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 18/2002/NĐ-CP về Quy chế quản lý kho vật chứng; ngày 02/7/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 70/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý kho vật chứng ban hành kèm theo Nghị định số 18/2002/NĐ-CP ngày 18/02/2002 của Chính phủ. Một số nội dung không còn phù hợp với hệ thống văn bản pháp luật hiện hành, ngoài ra còn gặp một số khó khăn, vướng mắc khi tiếp nhận, nhập, xuất, bảo quản, chuyển giao vật chứng, đó là:
- Căn cứ pháp lý ban hành của Nghị định số 18/2002/NĐ-CP và Nghị định số 70/2013/NĐ-CP đến nay không còn hiệu lực bởi đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, nhất là thể chế hóa các quy định của pháp luật hiện hành về tiếp nhận, quản lý, bảo quản vật chứng được quy định tại Điều 89, 90 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021); Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2019, 2020, 2022); Điều 82 Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi, bổ sung năm 2019); Điều 122 và 123 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2018, 2020, 2022); đồng thời chưa cụ thể hóa được các nội dung của hoạt động này trong quá trình thực hiện;
- Ngoài ra, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 mới chỉ quy định về bảo quản vật chứng của các vụ án, chưa quy định cụ thể tổ chức, cá nhân nào bảo quản tài liệu, đồ vật từ tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo điểm a khoản 3 Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), tuy nhiên tại khoản 3 Điều 20 Luật Tổ chức Chính phủ quy định : “Tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật…, phòng ngừa và đấu tránh chống các loại tội phạm, vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội”. Qua khảo sát thực tiễn đối với cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố từ ngày 01/01/2018 đến ngày 30/6/2022 đã tiếp nhận, giải quyết tổng số tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố 692.649 tin, trong đó: số tin ra quyết định khởi tố vụ án hình sự 356.399 (chiếm 51,4%); số tin ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự 218.933 (chiếm 31,6%); số tin ra quyết định tạm đình chỉ 92.844 (chiếm 13,5%); số tin chưa giải quyết 23.873 (chiếm 3,5%); số nguồn tin thu thập, bảo quản tài liệu, đồ vật 453.685 (chiếm 65% số tin thụ lý). Hiện nay, Điều tra viên, cán bộ điều tra khi tiếp nhận nguồn tin tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có tài liệu, đồ vật đang tự quản lý tiềm ẩn nguy cơ mất mát, hư hỏng, giảm giá trị chứng minh tài liệu, đồ vật khi khởi tố vụ án nhằm phục vụ hiệu quả quá trình tiến hành tố tụng tiếp theo. Vấn đề này đang được cử tri Đại biểu Quốc hội quan tâm, đề nghị giải quyết;
- Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 18/2002/NĐ-CP quy định: vật chứng thuộc loại mau hỏng, không thể bảo quản lâu tại kho vật chứng (như lương thực, thực phẩm tươi sống, dược phẩm, dược liệu…), được chuyển giao cho cơ quan chức năng để tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật nhưng trong quá trình thực hiện lại có nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau gây khó khăn cho các cơ quan trong quá trình quản lý, bảo quản vật chứng;
- Khoản 6 Điều 1 Nghị định số 70/2013/NĐ-CP quy định:
+ Vật chứng là tiền, giấy tờ có giá, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ… thì phải được niêm phong và gửi tại hệ thống Kho bạc Nhà nước cùng cấp nơi cơ quan thụ lý vụ án có trụ sở, tuyệt đối không được lưu thông, nhưng trên thực tế hiện nay gặp khó khăn, vướng mắc khi áp dụng đó là Kho bạc Nhà nước không nhận vật chứng là tiền mặt đã được niêm phong mà phải gửi vào tài khoản tạm giữ theo quy định của pháp luật hiện hành trong quản lý đối với tiền mặt, giấy tờ có giá, tài sản quý hiếm tạm giữ khi Kho bạc Nhà nước nhận bảo quản;
+ Vật chứng là động vật hoang dã được gửi tại Vườn thú, Trung tâm cứu hộ động vật hoang dã hoặc cơ sở chăn nuôi thuộc ngành Nông nghiệp trên địa bàn. Trên thực tế nhiều tỉnh không được trang bị hệ thống chuồng nuôi, giữ động vật hoang dã còn sống để nuôi dưỡng nên không thể bàn giao cho cơ sở trong tỉnh để bảo quản, chăm sóc trong thời gian chờ xử lý, dẫn đến động vật đó bị suy giảm về sức khỏe, trọng lượng, khả năng tái thả về tự nhiên thấp;
- Vẫn còn trường hợp cơ quan thụ lý vụ án (cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao) chưa kịp thời chuyển giao vật chứng vào kho vật chứng theo quy định tại Nghị định số 18/2002/NĐ-CP và Nghị định số 70/2013/NĐ-CP để quản lý, bảo quản khi đã có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can mà vẫn quản lý vật chứng tại phòng làm việc, khu vực làm việc, do đó đã xảy ra trường hợp mất vật chứng.
Vì vậy, việc xây dựng Nghị định quy định về quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật thay thế Nghị định số 18/2002/NĐ-CP và Nghị định số 70/2013/NĐ-CP là cần thiết nhằm bảo đảm thống nhất hệ thống pháp luật hiện hành và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
c) Nội dung chủ yếu: Nghị định gồm 6 chương, 26 điều quy định về quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật, cụ thể như sau:
- Chương I. Quy định chung: từ Điều 1 đến Điều 6;
- Chương II. Hệ thống kho vật chứng và tài liệu, đồ vật: từ Điều 7 đến Điều 10;
- Chương III. Trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật: từ Điều 11 đến Điều 14;
- Chương IV. Quy trình nhập, xuất và bảo quản vật chứng, tài liệu, đồ vật: Điều 15 và Điều 16;
- Chương V. Trách nhiệm của các bộ và Ủy nhân nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật: từ Điều 17 đến Điều 24;
- Chương VI. Điều khoản thi hành: Điều 25 và Điều 26.
Nội dung cơ bản của Nghị định
- Quy định phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ, nguyên tắc quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật; hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý, nhập, xuất, bảo quản, chuyển giao vật chứng, tài liệu, đồ vật thu thập được của các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và từ tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tài sản tạm giữ trong thi hành án dân sự; kinh phí bảo đảm trong quản lý vật chứng, tài liệu, đồ vật; cơ sở dữ liệu trong quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật.
- Hệ thống kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự trong quản lý vật chứng, tài liệu, đồ vật cụ thể: (1) Hệ thống kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Công an nhân dân: kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Bộ Công an; kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Công an huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương. Bên cạnh đó, quy định hệ thống kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Công an nhân dân tiếp nhận, bảo quản vật chứng, tài liệu, đồ vật của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong Công an nhân dân, Viện kiểm sát và cơ quan, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Công an, Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư. (2) Hệ thống tổ chức kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Quân đội nhân dân: kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Bộ Quốc phòng (Cục điều tra hình sự, Cục Thi hành án và Cục bảo vệ an ninh quân đội); kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án quân khu và tương đương, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển và cơ quan điều tra hình sự khu vực; kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức kho vật chứng và tài liệu, đồ vật trong khu vực kho vũ khí, trang bị kỹ thuật thuộc Bộ chỉ huy quân sự cấp tỉnh. (3) Hệ thống tổ chức kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của cơ quan thi hành án dân sự: kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của cục thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của chi cục thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp quy định hệ thống kho vật chứng và tài liệu, đồ vật của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự.
- Quy định về trách nhiệm, quyền hạn thi hành của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật: cơ quan, người có thẩm quyền ra lệnh hoặc quyết định nhập, xuất vật chứng, tài liệu, đồ vật; cơ quan quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật; Thủ trưởng cơ quan quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật; Thủ kho, cán bộ quản lý, nhân viên kho vật chứng và tài liệu, đồ vật và chế độ phụ cấp đặc thù đối với Thủ kho, cán bộ, nhân viên trực tiếp quản lý kho vật chứng, tài liệu, đồ vật.
- Quy trình nhập, xuất vật chứng, tài liệu, đồ vật; bảo quản vật chứng, tài liệu, đồ vật, trong đó quy định các vật chứng, tài liệu, đồ vật bảo quản tại các cơ quan, tổ chức chuyên môn trong điều kiện đặc biệt: (1) việc quản lý đối với tiền mặt hoặc ngoại tệ tiền mặt, tiền mặt lưu dấu vết của tội phạm, tài sản quý, giấy tờ có giá, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ; (2) các tiêu chí cụ thể để xác định vật thuộc loại mau hỏng, khó bảo quản theo quy định của pháp luật; (3) chuyển giao động vật hoang dã; (4) vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, pháo nổ, pháo hoa, chất cháy thể lỏng, chất cháy thể khí.
- Quy định trách nhiệm của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong công tác quản lý kho vật chứng và tài liệu, đồ vật.
23. Quyết định số 15/2024/QĐ-TTg ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Quyết định số 38/2021/QĐ-TTg ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ
a) Hiệu lực thi hành: Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (ngày 04 tháng 10 năm 2024).
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành: Việc ban hành Quyết định số 15/2024/QĐ-TTg ngày 04/10/2024 của Thủ tướng Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia nhằm điều chỉnh việc quy định các băng tần dành cho hệ thống thông tin di động IMT đáp ứng các nhu sử dụng tần số trong mọi lĩnh vực.
Quyết định số 15/2024/QĐ-TTg là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động quản lý, sử dụng phổ tần số vô tuyến điện ở Việt Nam.
c) Nội dung chủ yếu: Quyết định gồm có 02 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Quyết định số 38/2021/QĐ-TTg ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ, cụ thể như sau:
- Điều 1: Nội dung sửa đổi, bổ sung Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia ban hành kèm theo Quyết định số 71/2013/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Quyết định số 38/2021/QĐ-TTg ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ.
- Điều 2: Điều khoản thi hành.
Nội dung của Quyết định: Sửa đổi, bổ sung chú thích VTN9 tại khoản 2 Điều 9 Quy hoạch phổ tần số vô tuyến điện quốc gia, cụ thể là sửa đổi việc quy định “băng tần 2500-2690 MHz” thành “băng tần 2500-2600” cho hệ thống thông tin di động IMT để phát triển kinh tế - xã hội.
24. Quyết định số 16/2024/QĐ-TTg ngày 14 tháng 10 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh
a) Hiệu lực thi hành: Quyết định có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 12 năm 2024.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
Cơ sở chính trị, pháp lý
+ Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, nêu quan điểm: “Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững; kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu.
+ Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Bộ Chính trị về phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo, đề ra mục tiêu: “Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn dân về phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả chiến tranh, thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại về người, tài sản của Nhà nước và Nhân dân.
+ Ngày 01 tháng 02 năm 2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 18/2019/NĐ-CP về quản lý và thực hiện hoạt động khắc phục hậu quả bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh.
+ Ngày 22 tháng 6 năm 2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 748/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động quốc gia khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh ở Việt Nam giai đoạn 2023 - 2025; trong đó có giao nhiệm vụ: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tiêu chuẩn, chế độ các lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ điều tra, khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ”.
Cơ sở thực tiễn
Ngày 27 tháng 7 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 122/2007/QĐ-TTg về một số chế độ đối với quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ rà phá bom, mìn, vật nổ; trong đó quy định quân nhân, công nhân, viên chức quốc phòng biên chế thuộc các đơn vị Công binh chuyên trách trực tiếp thực hiện nhiệm vụ rà phá bom, mìn, vật nổ được hưởng nguyên lương theo ngạch bậc, cấp bậc, quân hàm và phụ cấp lương (nếu có); được hưởng các chế độ, chính sách khác theo quy định của pháp luật; hưởng sinh hoạt phí mức 60.000 đồng/người/ngày, tính theo ngày thực tế thực hiện nhiệm vụ tại khu vực bãi bom, mìn, vật nổ
(chế độ sinh hoạt phí không phải là chế độ phụ cấp theo lương, chỉ là chế độ bồi dưỡng). Ngày 21 tháng 5 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 30/2013/QĐ-TTg sửa đổi khoản 2 Điều 1 Quyết định số 122/2007/QĐ-TTg; trong đó, nâng mức sinh hoạt phí từ 60.000 đồng/người/ngày lên mức 180.000 đồng/người/ngày.
Sau gần 20 năm thực hiện Quyết định số 122/2007/QĐ-TTg đã kịp thời động viên, khuyến khích các đối tượng khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh; góp phần đẩy nhanh tiến độ giải phóng đất đai bị ô nhiễm, giúp ổn định đời sống của nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương cơ sở. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện Quyết định số 122/2007/QĐ-TTg và Quyết định số 30/2013/QĐ-TTg đã nảy sinh bất cập, đó là:
Tại thời điểm ban hành Quyết định số 122/2007/QĐ-TTg, đối tượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh được hưởng mức bồi dưỡng 60.000 đồng/người/ngày; đến năm 2013, ban hành Quyết định số 30/2013/QĐ-TTg, đối tượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh được hưởng mức bồi dưỡng 180.000 đồng/người/ngày (tại Quyết định số 30/2013/QĐ-TTg). Từ năm 2013 đến nay, giá cả các loại hàng hóa thường xuyên tăng; chỉ số giá tiêu dùng luôn có sự biến động, bình quân năm sau so với năm trước tăng từ
2% đến gần 7%, nhưng mức bồi dưỡng đối với đối tượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ rà phá bom, mìn, vật nổ không thay đổi (theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng bình quân (CPI) năm 2013 tăng 6,6% so với bình quân năm 2012; năm 2014 tăng 1,84% so với bình quân năm 2013; năm 2015 tăng 0,63% so với bình quân năm 2014; năm 2016 tăng 2,66% so với bình quân năm 2015; năm 2017 tăng 3,53% so với bình quân năm 2016; năm 2018 tăng 3,54% so với bình quân năm 2017; năm 2019 tăng 2,63% so với bình quân năm 2018; năm 2020 tăng 3,23% so với bình quân năm 2019; năm 2021 tăng 1,84% so với bình quân năm 2020; năm 2022 tăng 3,15% so với bình quân năm 2021; năm 2023 tăng 3,25% so với bình quân năm 2022). Mặt khác, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, từ năm 2013 đến nay, Chính phủ đã 7 lần điều chỉnh mức lương cơ sở nhưng mức bồi dưỡng nêu trên vẫn giữ nguyên. Việc giá cả các mặt hàng thường xuyên tăng, kinh tế - xã hội đất nước phát triển nhưng mức bồi dưỡng đối với đối tượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ không được điều chỉnh đã trực tiếp tác động đến tư tưởng, tâm lý, đời sống và kết quả thực hiện nhiệm vụ của đối tượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh.
Ngày 01 tháng 02 năm 2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 18/2019/NĐ-CP về quản lý và thực hiện hoạt động khắc phục hậu quả bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh; trong đó, tại điểm b khoản 2 Điều 18 về quản lý chi phí dự án, hạng mục khắc phục hậu quả bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh xác định, chi phí bồi dưỡng đối với các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước khi tham gia thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ thuộc chi phí nhân công trong hoạt động điều tra, khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh; mức hưởng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, mức hưởng hiện nay đang áp dụng theo Quyết định số 30/2013/QĐ-TTg và đang có sự bất cập như đã nêu ở trên nên cần thiết phải điều chỉnh tăng mức hưởng để phù hợp với tình hình thực tế
.
Từ tình hình nêu trên, để khắc phục bất cập hiện hành; động viên lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ khắc phục khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ; góp phần thúc đẩy Chương trình hành động quốc gia khắc phục hậu quả bom, mìn sau chiến tranh ở Việt Nam, hướng tới mục tiêu giảm thiểu và hạn chế cơ bản những ảnh hưởng của bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thì việc nghiên cứu, xây dụng và ban hành Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh để thay the Quyết định số 122/2007/QĐ-TTg và Quyết định số 30/2013/QĐ-TTg là cần thiết và phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 18 Nghị định số 18/2019/NĐ-CP.
- Mục đích ban hành:
Nhằm khắc phục bất cập hiện hành trong thực hiện quy định về mức bồi dưỡng trong thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh; cụ thể hóa quy định của Nghị định số 18/2019/NĐ-CP; bảo đảm phù hợp với thực tiễn nhiệm vụ và điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay; góp phần động viên lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
c) Nội dung chủ yếu: Quyết định gồm 06 điều về chế độ bồi dưỡng đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh, cụ thể như sau: Phạm vi điều chỉnh (Điều 1); đối tượng áp dụng (Điều 2); chế độ bồi dưỡng đối với đối tượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh (Điều 3); nguồn kinh phí (Điều 4); hiệu lực thi hành (Điều 5); trách nhiệm thi hành (Điều 6).
Nội dung cơ bản của Quyết định
- Tên gọi của Quyết định: Quyết định quy định về chế độ bồi dưỡng đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom mìn, vật nổ sau chiến tranh.
- Nội dung cơ bản: Quy định chế độ bồi dưỡng đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh theo quy định tại Nghị định số 18/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về quản lý bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh.
Đối tượng áp dụng là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng, cán bộ, công chức, viên chức được cấp có thẩm quyền giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ.
Các đối tượng trên ngoài chế độ tiền lượng, phụ cấp (nếu có) và các chế độ chính sách khác theo quy định của pháp luật được hưởng chế độ bồi dưỡng mức 350.000 đồng/người/ngày, tính theo ngày thực tế trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tại khu vực khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ. Trong ngày thực tế làm việc, nếu thời gian trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tại khu vực khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ dưới 4 giờ thì được tính bằng một nửa ngày; từ đủ 04 giờ trở lên thì được tính 01 ngày.
Nguồn kinh phí chi trả chế độ bồi dưỡng đối với đối tượng thực hiện nhiệm vụ khảo sát, rà phá bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh quy định tại Điều 3 Quyết định ngày được tính trong chi phí của dự án theo đơn giá nhân công trên 01 (một) héc-ta diện tích quy định cho khu vực khảo sát rà phá bom, mìn, vật nổ được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
25. Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg ngày 25 tháng 10 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg ngày 12 tháng 8 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần
a) Hiệu lực thi hành: Quyết định này có hiệu lực thi hành từ ngày 10 tháng 12 năm 2024.
- Quyết định này sửa đổi khoản 1 Điều 2, điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 2 Điều 3 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg; Sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 1 Điều 3 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg; Bổ sung khoản 1a Điều 4 và khoản 1a Điều 5 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg.
b) Sự cần thiết, mục đích ban hành:
- Sự cần thiết ban hành:
+ Khắc phục một số vướng mắc trong thực hiện Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg:
Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành đến nay được hơn hai năm, đến hết năm 2023, đã có 02 Bộ, ngành và 31 địa phương trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị phê duyệt Danh mục ĐVSNCL thành CTCP giai đoạn 2021-2025. Trong quá trình theo dõi, tổng hợp và tham gia ý kiến về việc xây dựng Danh mục ĐVSNCL chuyển thành CTCP của các Bộ, UBND địa phương theo quy định tại Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg, một số Bộ, địa phương phản ánh vướng mắc trong thực hiện đầy đủ quy định về điều kiện “Còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và xác định lại giá trị đơn vị sự nghiệp công lập” tại điểm a khoản 1 Điều 3 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg. Theo đó, để thực hiện đầy đủ nội dung quy định này thì cần phải thực hiện các bước xác định giá trị của ĐVSNCL để xác định còn vốn nhà nước hay không, trên cơ sở đó mới xem xét có thuộc Danh mục ĐVSNCL chuyển thành CTCP giai đoạn 2021-2025 hay không. Tuy nhiên, việc thực hiện xác định giá trị ĐVSNCL ngay tại thời điểm các Bộ, UBND địa phương rà soát để xây dựng Danh mục trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương cổ phần hoá/không cổ phần hoá có thể dẫn đến kéo dài thời gian phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ và phải mất thêm chi phí ngay trong giai đoạn này
Ngoài ra, điểm a khoản 1 Điều 3 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg quy định các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh và tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục đơn vị sự nghiệp công lập chuyển thành công ty cổ phần giai đoạn 2021-2025 trong Quý IV năm 2021. Tuy nhiên, đến cuối năm 2023 mới có 2 Bộ, ngành và 31 địa phương thực hiện. Do vậy, cần gia hạn thời gian để các Bộ, ngành, địa phương có thể hoàn thành nốt nhiệm vụ này.
+ Rà soát, hoàn thiện quy định chuyển ĐVSNCL hoạt động trong 04 ngành, lĩnh vực: Kiểm định kỹ thuật an toàn lao động, Kiểm định xây dựng, Kiểm định kỹ thuật phương tiện giao thông cơ giới, phương tiện thuỷ nội địa, Sản xuất, lưu giữ giống gốc cây trồng, vật nuôi thành CTCP
+ Quan điểm, mục tiêu của việc xây dựng Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg
(i) Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg được xây dựng với các quan điểm sau đây: (i) Kế thừa những quy định của Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg ngày 12/8/2021 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển ĐVSNCL thành CTCP đang được thực hiện ổn định, không có vướng mắc và phù hợp với Nghị định số 150/2020/NĐ-CP; (ii) Các quy định tại Quyết định không có nội dung trái với quy định tại Nghị định số 150/2020/NĐ-CP, Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg; góp phần cụ thể hoá các chủ trương của Đảng tại Nghị quyết số 19/NQ-TW theo hướng rõ ràng, minh bạch, đẩy mạnh thực hiện sắp xếp hệ thống các ĐVSNCL trên toàn quốc.
(ii) Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg được xây dựng với các mục đích sau đây: (i)Đẩy mạnh quá trình thực hiện rà soát, xây dựng Danh mục chuyển ĐVSNCL thành CTCP giai đoạn 2021-2025 trên toàn quốc; (ii) Nâng cao khả năng thực thi, hiệu quả thực tiễn trong thực hiện Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg, góp phần thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ sự nghiệp công.
c) Nội dung chủ yếu: Quyết định gồm 02 điều sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg ngày 12 tháng 8 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần, cụ thể như sau:
- Điều 1 quy định những nội dung sửa đổi, bổ sung Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg;
- Điều 2 quy định về hiệu lực thi hành.
Nội dung của Quyết định số
- Về bổ sung ngành, lĩnh vực chuyển ĐVSNCL thành CTCP:
Việc thực hiện chuyển ĐVSNCL hoạt động trong 03 ngành Kiểm định: Kiểm định kỹ thuật an toàn lao động; Kiểm định xây dựng; Kiểm định kỹ thuật phương tiện giao thông cơ giới, phương tiện thuỷ nội địa được các Bộ, ngành, địa phương đánh giá là khả thi; nhiều ĐVSNCL hoạt động trong lĩnh vực này sau khi chuyển thành CTCP đã có sự chuyển biến tích cực như: chất lượng dịch vụ được đảm bảo, hiệu quả sản xuất được nâng cao, đời sống người lao động được cải thiện, đầu tư nâng cấp được máy móc, cơ sở vật chất. Để đảm bảo phù hợp với chủ trương tại Nghị quyết số 19/NQ-TW, chỉ đạo của Lãnh đạo Chính phủ tại Thông báo số 56/TB-VPCP, Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg quy định bổ sung các ĐVSNCL hoạt động 03 ngành, lĩnh vực nêu trên vào Danh mục ngành, lĩnh vực chuyển ĐVSNCL thành CTCP, Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ nhằm từng bước xã hội hoá các ĐVSNCL, huy động nguồn lực của tư nhân nhưng vẫn đảm bảo vai trò của Nhà nước trong cung cấp dịch vụ công trong 03 ngành nêu trên.
Theo đó, khoản 1 Điều 2 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg được sửa đổi như sau: Danh mục ngành, lĩnh vực đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện chuyển thành công ty cổ phần, Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ:
+ Khai thác, sản xuất, cung cấp nước sạch; thoát nước đô thị, nông thôn;
+ Kiểm định kỹ thuật an toàn lao động;
+ Kiểm định xây dựng;
+ Kiểm định kỹ thuật phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện thuỷ nội địa (trừ lĩnh vực đăng kiểm tàu biển và công trình biển).”
- Về điều kiện rà soát và thời điểm hoàn thành xây dựng Danh mục ĐVSNCL chuyển thành CTCP trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt:
Để tháo gỡ các vướng mắc về điều kiện “Còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và xác định lại giá trị đơn vị sự nghiệp công lập” tại điểm a khoản 1 Điều 3 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg và điều chỉnh thời gian các cơ quan trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt danh mục ĐVSCL để đảm bảo phù hợp với tình hình thực tiễn, Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg quy định sửa đổi điểm a, khoản 1 Điều 3 và khoản 2 Điều 3 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg theo hướng các cơ quan có trách nhiệm rà soát các ĐVSNCL thuộc phạm vi quản lý (bao gồm các ĐVSNCL đã được phê duyệt tại Danh mục đơn vị sự nghiệp công lập chuyển thành công ty cổ phần giai đoạn trước năm 2021 nhưng chưa có quyết định công bố giá trị đơn vị) đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định số 150/2020/NĐ-CP và thuộc ngành, lĩnh vực quy định tại Điều 2 Quyết định này để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục đơn vị sự nghiệp công lập chuyển thành công ty cổ phần giai đoạn 2021-2025 trong Quý IV năm 2024.
- Về quy định chuyển tiếp đối với các ĐVSNCL đã hoàn tất công tác chuyển thành CTCP hoạt động trong 03 lĩnh vực Kiểm định trước thời điểm Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg có hiệu lực thi hành:
Theo Quyết định số 31/2017/QĐ-TTg ngày 17/07/2017 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục ngành, lĩnh vực chuyển ĐVSNCL thành CTCP, Nhà nước nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ hoặc không giữ cổ phần tại các ĐVSNCL hoạt động trong 20 ngành, lĩnh vực, bao gồm lĩnh vực Khai thác, sản xuất, cung cấp nước sạch; thoát nước đô thị, nông thôn và 03 lĩnh vực đăng kiểm nêu trên. Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg và Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg quy định khi chuyển ĐVSNCL hoạt động trong Khai thác, sản xuất, cung cấp nước sạch; thoát nước đô thị, nông thôn và 03 lĩnh vực đăng kiểm thành CTCP, Nhà nước sẽ nắm giữ trên 50% vốn điều lệ tại doanh nghiệp sau chuyển đổi.
Để không ảnh hưởng tới các ĐVSNCL hoạt động trong các ngành, lĩnh vực nêu trên đã hoàn thành đăng ký chuyển thành công ty cổ phần và Nhà nước đang nắm giữ tỷ lệ vốn điều lệ dưới mức 50%, khoản 4 Điều 1 Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg quy định bổ sung khoản 1a (sau khoản 1 Điều 5 Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg như sau: “Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập đã chính thức chuyển thành công ty cổ phần (được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần lần đầu) trước thời điểm Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg có hiệu lực thi hành mà tỷ lệ vốn nhà nước tại doanh nghiệp thấp hơn tỷ lệ quy định tại Điều 2 Quyết định này thì giữ nguyên tỷ lệ vốn nhà nước hiện có, trừ trường hợp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh để phù hợp với quy định tại Điều 2 Quyết định này.”
Việc bổ sung quy định này nhằm quy định cụ thể, thống nhất trong thực hiện, tránh trường hợp các ĐVSNCL đã hoàn thành thực hiện chuyển thành CTCP theo Quyết định số 31/2017/QĐ-TTg trong giai đoạn trước đây tiếp tục kiến nghị tăng phần vốn do nhà nước nắm để đạt được tỷ lệ trên 50% vốn điều lệ như quy định tại Quyết định số 17/2024/QĐ-TTg.
Trên đây là Thông cáo báo chí văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 10 năm 2024, Bộ Tư pháp xin thông báo./.
[1] Theo số liệu thống kê đã có hơn 900 đăng kiểm viên bị khởi tố tại 112 Trung tâm đăng kiểm của 42 địa phương sẽ bị thu hồi chứng chỉ Đăng kiểm viên theo quy định tại điểm c khoản 16 Điều 1 Nghị định số 30/2023/NĐ-CP, trong đó có 91 Trung tâm đăng kiểm tại 32 địa phương có từ 02 Đăng kiểm viên trở lên bị khởi tố dẫn đến các Trung tâm đăng kiểm này phải bị dừng hoạt động 03 tháng theo quy định tại khoản 10 Điều 1 Nghị định số 30/2023/NĐ-CP, cùng với việc bị thiếu hụt Đăng kiểm viên dẫn đến cả nước có tới 36 địa phương có nguy cơ bị ùn tắc phương tiện đến kiểm định.
[2] Kết luận số 102-KL/TW ngày 22/9/2014 của Bộ Chính trị về hội quần chúng;.
[3] Kết luận số 158-TB/TW ngày 02/01/2020 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Kết luận số 102-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về hội quần chúng trong tình hình mới;
[4] Quyết định số 118-QĐ/TW ngày 22/8/2023 của Ban Bí thư ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở Trung ương.
[5] Bãi bỏ Quyết định số 68/2010/QĐ-TTg ngày 01 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định hội có tính chất đặc thù và Quyết định số 71/2011/QĐ-TTg ngày 20 tháng 12 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về bảo đảm, hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước đối với các hội có tính chất đặc thù
[6] “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số”
[7] “Ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số”; “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hoá đồng bào dân tộc thiểu số…”.
[8] “Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số. Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh vùng dân tộc miền núi phải toàn diện, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và phát huy lợi thế, tiềm năng của vùng và tinh thần tự lực của đồng bào dân tộc thiểu số”.
[9] Các điều: 4, 5, 16, 34, 37, 38, 40, 41, 42, 58, 61, 70, nhất là quy định tại Điều 5 “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”
[10] Luật Tổ chức Quốc hội , Luật Tổ chức Chính phủ , Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định Quốc hội quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước, còn Chính phủ quyết định chính sách cụ thể, biện pháp ưu tiên... dẫn đến cần soát lại một số chính sách cho phù hợp với thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ đối với công tác dân tộc; Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.
[11] Điều 2 Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc quy định nghĩa vụ quốc gia thành viên của Việt Nam tham gia Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, nhằm đảm bảo “cam kết theo đuổi bằng mọi biện pháp cần thiết và không trì hoãn” trong việc “Quốc gia thành viên có những biện pháp hữu hiệu để rà soát lại các chính sách”, “có những biện pháp đặc biệt và cụ thể trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa và những lĩnh vực khác để đảm bảo sự phát triển thích đáng và bảo vệ một số nhóm chủng tộc hoặc cá nhân thuộc các chủng tộc đó, với mục đích nhằm giúp họ được hưởng đầy đủ và bình đẳng các quyền con người và tự do cơ bản”.
[12] Chưa quy định cụ thể nội hàm và sử dụng chưa thống nhất các thuật ngữ “Vùng dân tộc thiểu số”, “Vùng đồng bào dân tộc thiểu số”, “Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi” trong các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách dân tộc; việc phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển mới dừng lại ở cấp xã, thôn và còn nhiều vướng mắc; Chính sách đối với người có uy tín ở vùng dân tộc thiểu số, chính sách thông tin - truyền thông, chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý chưa được quy định cụ thể, đầy đủ, chưa thống nhất với một số quy định của pháp luật chuyên ngành; một số quy định quản lý nhà nước về công tác dân tộc và phân công trách nhiệm của Bộ, ngành, địa phương trong việc hướng dẫn thi hành theo thẩm quyền hoặc nghiên cứu, tham mưu trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản triển khai thực hiện các nội dung tại Nghị định số 05/2011/NĐ-CP chưa rõ, cụ thể, chưa tạo điều kiện pháp lý để triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách trong Nghị định số 05/2011/NĐ-CP.
[13] Việc chi thăm hỏi, chúc mừng, tặng quà, động viên, gặp mặt đối với một số đơn vị, cá nhân là người dân tộc thiểu số đã được Ủy ban Dân tộc tham mưu tổ chức thực hiện trong hơn 20 năm qua nhưng chưa đưa vào Nghị định số 05/2011/NĐ-CP.
[14] “Xây dựng tiêu chí phân định lại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo hướng xác định rõ vùng dân tộc thiểu số (tỉnh, huyện, xã, thôn, bản), địa bàn xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn để đầu tư có trọng tâm, trọng điểm”.
[15] “Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi” là một trong các nội dung biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ theo Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.
[16] Người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
[17] Phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân.
[18] Bổ sung: (01) Điều 44a. Xử lý vi phạm; (02) Điều 48a. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp huyện