Điểm tin báo chí sáng ngày 14 tháng 3 năm 2012

14/03/2012
Trong buổi sáng ngày 14/3/2012, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I-           THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Thanh niên Online đưa tin: Ngày 13.3, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã họp phiên toàn thể lần thứ ba dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.

Phát biểu bế mạc phiên họp, Chủ tịch Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 phải đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định. Chủ tịch hoan nghênh sự cố gắng của Ban biên tập dự thảo trong việc nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý 2 bản dự thảo báo cáo và các tài liệu tham khảo kèm theo; đồng thời yêu cầu Ban biên tập nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ, tối đa ý kiến thảo luận tại phiên họp; tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện cả về nội dung và kỹ thuật văn bản để trình các cơ quan hữu quan trong thời gian sắp tới.

Báo cũng có bài Diễn biến đáng quan ngại trên biển Đông. Bài báo phản ánh: Ngày 12.3 (giờ địa phương), hội đàm lần thứ ba về châu Á - Thái Bình Dương giữa Mỹ và Trung Quốc diễn ra tại bang Maryland. Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách Đông Á - Thái Bình Dương Kurt Campbell và Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Thôi Thiên Khải cùng chủ trì cuộc họp. Thông cáo từ Bộ Ngoại giao Mỹ cho hay 2 bên thảo luận một số vấn đề liên quan đến khu vực, thúc đẩy hợp tác song phương trước các thách thức tại đây, nhưng không tiết lộ nội dung chi tiết. Tuy nhiên, giới quan sát nhận định Washington và Bắc Kinh chắc chắn có nhiều điều cần bàn. Thời gian qua, Mỹ có nhiều động thái đặt trọng tâm vào châu Á - Thái Bình Dương, bao gồm cả biển Đông, và khẳng định lợi ích của nước này tại đây. Đáp lại, Trung Quốc liên tục phản đối việc Mỹ chuyển trọng tâm vào khu vực và cho rằng đó là hành động nhằm bao vây nước này.

Trong khi đó, tờ China Daily dẫn lời quan chức Vương Nhu Long thuộc Ban Phát triển du lịch tỉnh Hải Nam, Trung Quốc cho hay nước này đang lập kế hoạch phát triển du lịch ở quần đảo Hoàng Sa. Cục trưởng Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc Lưu Tứ Quý cũng vừa tuyên bố Bắc Kinh sẽ tăng cường tuần tra khu vực quần đảo Trường Sa, theo Tân Hoa xã. Những động thái này đều vi phạm nghiêm trọng chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong một diễn biến khác, AFP dẫn lời Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Philippines Francisco Cruz đề nghị chính phủ đưa ra chính sách an ninh quốc gia nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến Trường Sa.

2. Báo Vietnamnet đưa tin: Liên quan đến việc bà Phạm Thị Diệu Hiền Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc công ty CP Thủy sản Bình An xuất cảnh để lại món nợ lớn cho nông dân, ngày 13/3, Văn phòng Chính phủ đã có văn bản số 1560/VPCP-TH do Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Quang Thắng ký gửi đến UBND TP Cần Thơ yêu cầu UBND TP Cần Thơ kiểm tra sự việc báo nêu và báo cáo Thủ tướng trước ngày 25/3.

II-         THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thủ tướng chỉ đạo làm rõ việc Đà Nẵng hạn chế nhập cư. Bài báo đưa tin: Khi trao đổi với báo chí tại buổi tổng kết thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của HĐND, UBND năm 2004 do TP Đà Nẵng tổ chức sáng 13-3. Chính phủ cũng có chỉ đạo Bộ Công an, Bộ Tư pháp làm rõ các vấn đề liên quan đến Nghị quyết 23 của HĐND TP Đà Nẵng.

Liên quan đến nghị quyết này, Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Văn Hữu Chiến cũng cho biết TP Đà Nẵng sẽ kiến nghị với Ủy ban Thường vụ QH công nhận Luật Cư trú và Luật Tổ chức UBND, HĐND có giá trị pháp lý ngang nhau, đồng thời kiến nghị cho phép Đà Nẵng tiếp tục thực hiện nghị quyết này, trong quá trình thực hiện sẽ có những sửa đổi, điều chỉnh phù hợp…

Như đã thông tin, Nghị quyết 23 của HĐND TP Đà Nẵng quy định bốn nội dung gây tranh cãi, trong đó nổi bật là việc tạm dừng giải quyết đăng ký thường trú mới vào khu vực nội thành đối với một số đối tượng nhập cư. Những nội dung này đã bị Cục Kiểm tra VBQPPL (Bộ Tư pháp) và một số cơ quan trung ương “tuýt còi” vì không phù hợp với pháp luật hiện hành.

2. Trang web Infonet có bài Ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải hỏi ý kiến nhân dân. Bài báo đưa tin: Ngày 13/3, tại hội nghị tổng kết thi hành "Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND" ban hành năm 2004 (gọi tắt là Luật BHVBQPPL 2004) do UBND TP Đà Nẵng tổ chức, PV Infonet đã trao đổi với Giám đốc Sở Tư pháp Đà Nẵng Nguyễn Bá Sơn về thực trạng thi hành luật này và những kiến nghị sửa đổi, bổ sung.

Theo nhiều ý kiến thì có những VBQPPL do các địa phương ban hành bị xác định trái luật song trách nhiệm cụ thể thuộc về ai thì còn rất mơ hồ. Ông có thể nói rõ thêm về vấn đề này?

Luật BHVBQPPL 2004 là đạo luật quan trọng, có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động quản lý điều hành ở địa phương. Tuy nhiên qua thực tế triển khai cho thấy một số VBQPPL được ban hành mà thiếu sự đồng thuận, nhất trí giữa các sở, ban, ngành với nhau cũng như với quan điểm thẩm định của cơ quan tư pháp, nhưng Luật BHVBQPPL 2004 chưa quy định cụ thể cách thức xử lý trong trường hợp này.

Luật BHVBQPPL 2004 cũng chưa quy định cụ thể trách nhiệm thẩm tra của Văn phòng UBND cấp tỉnh đối với dự thảo VBQPPL do các sở, ngành gửi đến, dẫn tới tình trạng một số trường hợp VBQPPL được Văn phòng UBND trình nhưng chưa có ý kiến thẩm định của cơ quan tư pháp.

Bên cạnh đó, Luật BHVBQPPL 2004 cũng chưa quy định trách nhiệm cá nhân đối với trường hợp cá nhân trực tiếp tham mưu, trực tiếp ký ban hành VBQPPL trái luật, dẫn đến việc VBQPPL bị huỷ, bãi bỏ... Do vậy đã làm hạn chế việc phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của cá nhân. Đồng thời dẫn đến tình trạng đùn đẩy cho trách nhiệm chung của tập thể hoặc hợp thức hoá những quyết định cá nhân của người đứng đầu dưới danh nghĩa ý kiến quyết định của tập thể.

Điều đó cho thấy quy định hiện hành về trình tự, thủ tục BHVBQPPL vẫn còn nhiều bất cập. Để khắc phục tình trạng này, luật cần có những sửa đổi, bổ sung như thế nào?

Qua thực tiễn triển khai Luật BHVBQPPL 2004, chúng tôi kiến nghị Quốc hội khi sửa đổi, bổ sung luật này cần quy định cụ thể cơ quan chủ trì soạn thảo VBQPPL phải có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức và nhân dân tham gia góp ý kiến đối với dự thảo văn bản, đồng thời phải tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản.

Thực ra vấn đề này đã được Luật BHVBQPPL 2004 quy định tại Điều 4 nhưng chỉ dừng ở việc quy định chung chung, chưa rõ ràng và chưa mang tính bắt buộc. Do đó, luật sửa đổi, bổ sung cần phải quy định việc tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu tác động là thủ tục bắt buộc trong quy đình xây dựng văn bản. Đồng thời cần phải quy định cơ chế kiểm tra, giám sát và chế tài như: Cơ quan thẩm định không tiếp nhận hồ sơ thẩm định nếu không có bảng tổng hợp tiếp thu ý kiến của nhân dân, đối tượng chịu tác động của văn bản... hoặc sẽ xem là vi phạm thủ tục, không công nhận hiệu lực pháp lý của văn bản!

Cần phát triển Điều 4 của Luật BHVBQPPL 2004 thành một chương, hoặc mục. Trong đó quy định cụ thể, chi tiết nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch trong việc xây dựng pháp luật; quyền và nghĩa vụ của công dân, cơ quan, tổ chức trong việc tham gia góp ý kiến xây dựng dự thảo VBQPPL; trách nhiệm tiếp thu, giải trình, phản hồi ý kiến góp ý của các cơ quan chủ trì soạn thảo; cơ chế kiểm tra, giám sát và chế tài để xử lý vi phạm; quy trình lấy ý kiến và thời gian cụ thể của từng công đoạn của quy trình... Đồng thời pháp luật cần quy định bắt buộc đăng tải dự thảo văn bản trên mạng Internet để công khai, minh bạch lấy ý kiến rộng rãi như cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.

Theo ông, những nội dung dự thảo VBQPPL nào của chính quyền địa phương cần phải được lấy ý kiến của nhân dân?

Qua thực tiễn ở địa phương, chúng tôi nhận thấy khi sửa đổi, bổ sung Luật BHVBQPPL 2004 cần theo hướng quy định cụ thể những nội dung dự thảo văn bản sau đây phải được lấy ý kiến của nhân dân: Quy định về thu, quản lý, sử dụng các loại quỹ, các khoản đầu tư, các khoản huy động nhân dân đóng góp, mức đóng góp huy động vốn của nhân dân. Quy định về đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí, thuế và nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.

Quy định về chính sách quản lý đất đai, chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng, môi trường và quy hoạch, đầu tư xây dựng nhà ở, các công trình công cộng. Quy định trợ cấp cho đối tượng chính sách, đối tượng xã hội khác. Quy định các chính sách liên quan đến ưu đãi, hỗ trợ. Quy định liên quan đến cải cách thủ tục hành chính. Những quy định ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt của nhân dân mà chưa có hoặc đã có VBQPPL của cấp trên điều chỉnh nhưng giao cho địa phương quy định chi tiết và hướng dẫn cụ thể.

Cần quy trách nhiệm cụ thể khi ban hành VBQPPL trái luật

Ngoài ra, như trên ông đã nói, có tình trạng "đùn đẩy cho trách nhiệm chung của tập thể hoặc hợp thức hoá những quyết định cá nhân của người đứng đầu dưới danh nghĩa ý kiến quyết định của tập thể". Ông có kiến nghị gì để khắc phục tình trạng này?

Chúng tôi kiến nghị Quốc hội khi sửa đổi, bổ sung Luật BHVBQPPL 2004 cần quy định cụ thể trách nhiệm thẩm tra VBQPPL của Văn phòng UBND, cách thức xử lý trong trường hợp ý kiến giữa các sở, ngành và cơ quan thẩm định khác nhau; quy định cụ thể trách nhiệm cá nhân trong trường hợp cá nhân trực tiếp tham mưu, trực tiếp ký ban hành VBQPPL trái pháp luật.

Bên cạnh đó, thực tế cho thấy quy định họp thành viên UBND để lấy ý kiến trực tiếp khi thông qua VBQPPL là không khả thi. Do rất khó họp đầy đủ các thành viên UBND nên khi có VBQPPL cần thông qua thì các địa phương giới hạn chỉ họp Thường trực UBND. Thời gian họp cũng gấp gáp nên các thành viên UBND không có sự đầu tư nghiên cứu, dẫn đến chất lượng văn bản ban hành chưa cao, nhiều vấn đề không được bàn bạc thấu đáo đã ban hành quy định nên dễ dẫn tới tình trạng văn bản vừa ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung, thậm chí ban hành văn bản không phù hợp với quy định của trung ương.

Do vậy chúng tôi cũng kiến nghị cần bổ sung quy định cho phép lấy ý kiến bằng văn bản của từng thành viên UBND để tạo điều kiện cho các địa phương triển khai thực hiện thống nhất.

3. Báo Tin tức có bài Án tuyên 4 năm vẫn chưa thể thi hành. Bài báo phản ánh:  Một vụ việc kéo dài gần 4 năm nay, án đã tuyên nhưng vẫn chưa thể thi hành được, tính nghiêm minh của pháp luật chưa được thực thi, gây bức xúc dẫn đến khiếu nại, đến mức Bộ Tư pháp phải yêu cầu Cơ quan thi hành án TP. Hồ Chí Minh cần nghiêm túc thực hiện việc thi hành để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án mà pháp luật đã quy định.

Vụ “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Nguyễn Phi Long và bị đơn ông Đinh Văn Đặng đã trải qua 2 cấp xét xử, tòa đã tuyên ông Long là người thắng kiện; ông Đặng phải trả lại cho ông Long 51,4285 lượng vàng SJC còn thiếu. Do ông Đặng không tự nguyện thi hành án nên cơ quan thi hành án huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh đã kê biên quyền sử dụng đất của ông Đặng để cưỡng chế thi hành.

Vậy nhưng thay vì bán đấu giá quyền sử dụng đất nói trên thì ngày 27/10/2008, Thi hành án dân sự (THADS) huyện Bình Chánh lại ra công văn gửi Chánh án TAND Tối cao xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm. Cách “hành xử” khó hiểu này đã bị ông Nguyễn Phi Long khiếu nại và Cục THADS TP. Hồ Chí Minh đã yêu cầu Chi cục THADS Bình Chánh thu hồi và hủy bỏ công văn nói trên, đồng thời phải tiếp tục thi hành án. Song THADS Bình Chánh vẫn không chịu thi hành.

Ngay cả khi Cục THADS TP. Hồ Chí Minh ra quyết định giải quyết khiếu nại và văn bản chỉ đạo nghiệp vụ, yêu cầu chấp hành viên THADS huyện Bình Chánh kê biên, cắt một phần đất tương ứng với số vàng theo bản án để thi hành nhưng THADS Bình Chánh vẫn tiếp tục trì hoãn. Về vấn đề này, trong công văn số 1266 ngày 19/5/2010, Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp nêu rõ: “Chấp hành viên Chi cục THADS huyện Bình Chánh đã chậm trễ trong việc đưa tài sản đã kê biên ra bán đấu giá theo quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án”.

Do Chi cục THADS Bình Chánh không chịu thi hành nên tháng 8/2010, vụ việc được rút về Cục THADS TP. Hồ Chí Minh thi hành. Cơ quan thi hành án thành phố đã nhiều lần làm việc với các bên đương sự, xem xét lại đất trên thực địa và khảo sát giá. Thế nhưng đến nay, vụ việc vẫn không được giải quyết. Quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án vẫn chưa được đảm bảo.

Đáng lưu ý, trong công văn số 3182 ngày 6/9/2011 của Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp có nêu: “Tổng cục đã yêu cầu Cục trưởng Cục THADS TP. Hồ Chí Minh kiểm tra việc tổ chức thi hành vụ việc, chỉ đạo tổ chức thi hành án để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Phi Long và báo cáo kết quả thực hiện. Tuy nhiên cho đến nay, đương sự vẫn khiếu nại việc chậm trễ thi hành và Cục THADS TP. Hồ Chí Minh vẫn chưa báo cáo kết quả về Tổng cục”.

4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Bị cấp trên nhắc nhở, vẫn chậm trễ thi hành án. Bài báo phản ánh: Tháng 10-2010, TAND TP Hội An (Quảng Nam) đã ra quyết định công nhận thỏa thuận thành với nội dung bà NTT (bị đơn) phải trả cho vợ chồng ông Lê Văn Tiến (nguyên đơn) 4 tỉ đồng, thời hạn trả là ngày 30-11-2010. Quá thời hạn trên, bà T. vẫn không tự nguyện trả nợ nên vợ chồng ông Tiến đã yêu cầu Chi cục Thi hành án (THA) TP Hội An tổ chức THA.

Đầu tháng 12-2010, chi cục trưởng Chi cục THA dân sự TP Hội An đã ra quyết định THA nhưng từ đó đến nay, chấp hành viên (cũng là chi cục trưởng) lại không tổ chức THA. Sau khi vợ chồng ông Tiến khiếu nại khắp nơi, tháng 10-2011, chấp hành viên mới có công văn ngăn chặn gửi các phòng ban yêu cầu cấm chuyển nhượng nhà đất của bà T. để đảm bảo THA. Nhưng rồi vụ THA này vẫn tiếp tục giậm chân tại chỗ. Vợ chồng ông Tiến gửi nhiều đơn khiếu nại hành vi chậm trễ THA thì Chi cục THA TP Hội An trả lời là không có cơ sở chấp nhận.

Vợ chồng ông Tiến phải cầu cứu cấp trên. Tháng 12-2011, Cục THA dân sự tỉnh Quảng Nam đã yêu cầu Chi cục THA TP Hội An giải trình về vụ việc và gửi toàn bộ hồ sơ lên để Cục xem xét, giải quyết khiếu nại của công dân.

Cuối tháng 2-2012, cục trưởng Cục THA tỉnh Quảng Nam đã có kết luận về vụ việc. Theo đó, chấp hành viên đã vi phạm khoản 2 Điều 39 Luật THA dân sự, thiếu trách nhiệm tổ chức THA, hơn bảy tháng sau khi thụ lý vụ việc mới tống đạt giấy tờ cho phía bà T. Về các biện pháp cưỡng chế THA, theo Cục THA tỉnh, chấp hành viên đã thiếu tinh thần trách nhiệm, chậm trễ không kiên quyết tổ chức, gây phiền hà cho vợ chồng ông Tiến, làm vụ việc kéo dài hơn một năm. Về việc giải quyết khiếu nại của vợ chồng ông Tiến, Cục THA tỉnh cho rằng chi cục trưởng Chi cục THA TP Hội An đã vi phạm khoản 1 Điều 23 Luật THA dân sự, không thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình…

Tuy nhiên, Cục THA tỉnh cho rằng những sai sót trên chỉ là lỗi không tích cực, lúng túng trong nghiệp vụ và chưa gây hậu quả, thiệt hại gì cho vợ chồng ông Tiến (!?). Cuối cùng, Cục kết luận là chấp hành viên phải nhanh chóng khắc phục những vi phạm đã mắc phải để khẩn trương thi hành quyết định của tòa.

Dù vậy, đến nay vụ việc vẫn chưa hề có tiến triển gì mới. Trong khi đó, theo Điều 45, Điều 46 Luật THA dân sự, thời hạn tự nguyện THA là 15 ngày kể từ ngày người phải THA nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định THA. Hết thời hạn quy định nêu trên, người phải THA có điều kiện THA mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế. Trong vụ này, việc THA đã kéo dài từ tháng 12-2010 đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm, rõ ràng đã gây thiệt hại lớn cho vợ chồng ông Tiến.

5. Báo Tiền Phong Online có bài Vụ "Nhờ trừ lương nhân viên cũ để bù tiền tiếp khách": Người nói sai, kẻ xuê xoa. Bài báo phản ánh: Liên quan việc Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án Dân sự (THADS) huyện Lệ Thủy - Quảng Bình phát công văn đề nghị chi cục huyện khác trừ lương nhân viên cũ để bù tiền tiếp khách, Cục trưởng Cục THADS Quảng Bình cho rằng: Đó là việc cá nhân, không có gì sai.

Như Tiền Phong ngày 11 - 3 thông tin, để bù vào khoản tiền 34 triệu chi sai mục đích bị Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Tỉnh ủy thu hồi, Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện Lệ Thủy, Lê Công Xuân đã ép nhân viên dưới quyền mỗi người nộp 1.654.000 đồng để chia đều trách nhiệm. Riêng trường hợp ông N.T.H đã chuyển công tác đến Chi cục THADS huyện Tuyên Hóa, sau nhiều lần gọi điện đòi không được, ông Xuân đã phát công văn đề nghị chi cục "thu nợ" dùm bằng cách trừ lương của ông H.

PV Tiền Phong có buổi làm việc với ông Phạm Văn Lãnh - Cục trưởng cục THADS Quảng Bình. Ông Lãnh cho rằng, ngay sau khi báo đăng, ông tổng cục trưởng có gọi điện cho ông hỏi tình hình. "Tôi nói với tổng cục trưởng là không có gì, việc đã cũ, những người sai phạm đã bị kỷ luật và đã nộp lại số tiền sai phạm. Anh ấy nghe xong nói: À thế à, tưởng có chuyện gì mới" - ông Lãnh nói.

Tuy nhiên, khi PV nói sự việc báo nêu là Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện Lệ Thủy ép nhân viên nộp tiền để bù vào khoản tiền sai phạm bị thu hồi và công văn nhờ "đòi nợ" chứ không phải nội dung như ông Lãnh nói với tổng cục trưởng. Ông Lãnh ậm ừ: "À việc đó là việc cá nhân với nhau. Tôi là cấp trên, nhưng anh Xuân là chủ tài khoản, anh ấy làm gì tôi có biết đâu".

Tại cuộc làm việc, ông Lãnh nhiều lần tránh nói về quan điểm đúng sai trong việc phát công văn nhờ đòi nợ của ông Xuân, nhưng ông Lãnh kể: “Khi anh Xuân đòi nợ, anh H. có điện thoại cho tôi. Tôi nói với anh H. việc chi thưởng Tết và tiền điện thoại ngoài quy định là sai rồi, anh nên nộp lại, còn khoản tiếp khách thì tùy".

Ông Lãnh còn nói thêm: "Việc Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy thu hồi số tiền sai phạm từ anh Xuân là đúng. Nhưng anh em ở dưới họ thương lãnh đạo, họ góp tiền để chia sẻ thì không có gì sai".

Ông Trần Bá Cự - phó Trưởng ban thường trực, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Quảng Bình cho rằng: Kết luận của đoàn kiểm tra nói rất rõ, số tiền sai phạm ở Chi cục THADS huyện Lệ Thủy trách nhiệm thuộc về chi cục trưởng. Ông Xuân trực tiếp ký duyệt chi tất cả các khoản sai phạm thì ông Xuân phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Ép nhân viên nộp tiền, cùng chịu trách nhiệm là sai.

6. Báo Người cao tuổi có bài Huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh: Ai tiếp tay cho cán bộ tư pháp xã chiếm đoạt tiền của dân? Bài báo phản ánh: Không bỏ chút mồ hôi công sức để trồng rừng, song một cán bộ tư pháp xã vẫn ngang nhiên kí nhận hàng trăm triệu đồng tiền bồi hoàn của dân. Tuy nhiên, nếu không có sự dung túng, tiếp tay thì liệu vị "quan" liều này có “hoàn thành nhiệm vụ” chiếm đoạt được không?...

Năm 2006, do không có hộ khẩu tại địa phương nên vợ chồng cô giáo Bùi Thị Hoa, 50 tuổi, ngụ tại thị trấn Kỳ Anh nhờ người cháu họ là Lê Văn Đính, cán bộ (CB) tư pháp xã Kỳ Thịnh đứng tên trên hợp đồng (HĐ) nhận 4,3 ha đồi núi trọc tại tiểu khu 387A để trồng rừng với Cty Rau quả Hà Tĩnh (theo chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng của Chính phủ). Thực tế, ông Đính chỉ là người cho mượn tên, còn toàn bộ thủ tục giấy tờ cũng như quá trình nhận đất, trồng rừng, chăm sóc... đều do vợ chồng cô Hoa thực hiện. Việc "mượn danh" này rất nhiều người dân địa phương và ngay cả CB Cty Rau quả cũng như CB xã cũng "tỏ tường"!

Sau năm năm, khi rừng cây khép tán thì cũng là lúc doanh nghiệp Saviha của Hàn Quốc triển khai dự án khai thác đá tại khu vực và Hội đồng Bồi thường giải phóng mặt bằng (BTGPMB) huyện tiến hành bồi hoàn (bằng tiền của Saviha) cho những người nhận đất trồng rừng. Điều trớ trêu đã xảy ra: Người được hưởng hơn 420 triệu đồng tiền hỗ trợ, bồi hoàn cho hơn 4 ha rừng lại không phải vợ chồng cô giáo Hoa mà là ông Lê Văn Đính, người không hề bỏ một giọt mồ hôi, công sức!

"Vợ chồng tôi đã nhiều lần nói chuyện “phải trái” với ông Đính nhưng ông ta chẳng những không nghe mà còn thách thức!" - Cô giáo Hoa bức xúc. Tuy nhiên, điều làm nữ giáo viên gần 30 năm đứng trên bục giảng bức xúc hơn lại là: Dẫu cho ngang ngược, coi thường pháp luật đến mấy ông CB tư pháp xã cũng không thể hoàn thành việc chiếm đoạt nếu không có sự tiếp tay của một số người có trách nhiệm. Theo cô giáo Hoa, khi Hội đồng BTGPMB huyện xuống đo đạc, kiểm kê, cô đã trình bày rõ việc ông Đính chỉ là người cho mượn tên và cũng chỉ đứng tên trên HĐ năm đầu, còn những năm chăm sóc tiếp theo, do thấy ông ta có biểu hiện không trung thực nên vợ chồng cô đã nhờ người khác (ông Lê Thanh Hải, ngụ cùng xã) đứng tên. Những HĐ này cùng rất nhiều chứng cứ khác như biên lai nhận tiền (của Cty Rau quả) có chữ kí của cô cùng giấy xác nhận “vợ chồng bà Hoa là người nhận đất trồng rừng” của CB Cty, giấy thuê mướn nhân công cuốc hố, trồng rừng... đều được gia đình cô cung cấp đầy đủ. Thế nhưng, sự việc tưởng như vô cùng đơn giản ấy lại không được giải quyết. Thậm chí, ông Phó Chủ tịch Hội đồng BTGPMB huyện còn ép cô phải cam kết không được khiếu nại ông Đính (!). Trung tuần tháng 6-2011, tức hơn 7 tháng sau khi vị CB tư pháp đã nhận và "tiêu hoá" xong (xây nhà lầu) hơn 420 triệu tiền bồi hoàn, UBND xã vẫn “động tác giả”: Tổ chức buổi "giải quyết tranh chấp"! Tại buổi này, ông Trần Quốc Hoàn, Phó Chủ tịch UBND huyện sau khi biểu dương "tinh thần dám nghĩ, dám làm tạo công ăn việc làm của gia đình cô giáo Hoa” và “động viên mọi người làm được như thế" đã bày tỏ sự "cảm thông, chia sẻ về sự việc xảy ra” cũng như đánh giá những chứng cứ của cô Hoa cung cấp là "rất quan trọng" nhưng sau đó lại khuyên “hai bên nên giải quyết nội bộ vì... có cây, dây mới leo"(!)...

Theo xác minh của PV, các cấp chính quyền tại Kỳ Anh không cho cô giáo Hoa nhận tiền không phải vì "không đủ chứng cứ chứng minh ông Đính chỉ là người đứng tên" mà ngay từ đầu, tại bản thống kê đo đạc diện tích, loại đất để bồi thường do xã Kỳ Thịnh và Văn phòng Đăng kí quyền sử dụng đất tỉnh Hà Tĩnh lập đều ghi rõ tên người sử dụng đất là ông Ngại (chồng bà Hoa), thế nhưng không rõ vì nguyên do gì, sau đó tên ông Ngại đã bị xóa, ghi đè thành tên ông Đính! Ông Đính nhận tiền từ ngày 12-11-2010 nhưng phải gần hai tháng sau, ngày 30-12-2010, UBND huyện mới ra quyết định phê duyệt phương án bồi thường. Tức, ông Đính đã được người ta cho "ăn cơm trước kẻng"!…

Một vấn đề rất đáng lưu tâm, sau khi ẵm tiền "êm đẹp", ông Lê Văn Đính liền viết giấy cho Cty Saviha lên khu đất "tự chặt phá" toàn bộ rừng cây và cam kết "chịu hoàn toàn trách nhiệm"! Căn cứ vào giấy này, ngày 21-9-2011, UBND huyện huy động một lực lượng đông đảo (với sự “yểm trợ” của công an huyện và xã) kéo lên tiểu khu 387A. Kết quả của cuộc "bảo vệ thi công" ấy là cả một cánh rừng trồng rộng lớn bị chặt phá hoang tàn, bất chấp sự ngăn cản của vợ chồng cô Hoa... Vậy, tại sao trong khi tranh chấp chưa được giải quyết, chính quyền huyện lại "quyết tâm" cưỡng chế, hủy hoại tài sản công dân như thế?

Được biết, hiện vợ chồng cô giáo Hoa đã có đơn yêu cầu khởi tố ông Đính về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 2, Điều 140 Bộ luật Hình sự. Theo chúng tôi, hành vi của ông Đính đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm, do đó các cơ quan bảo vệ pháp luật cần phải thực thi nhiệm vụ, bảo đảm không ai có quyền đứng trên pháp luật. Và, khi khởi tố, rất cần “xem xét” tới sự "liên đới" của những người có trách nhiệm tại địa phương!



File đính kèm