I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Dân trí phản ánh: Thứ trưởng Bộ Y tế Cao Minh Quang vừa gửi đơn lên Ban Thường vụ Đảng ủy Khối các cơ quan TƯ, phản ánh về việc lộ thông tin mật ra báo chí về kết quả kiểm phiếu trong buổi họp xem xét kỷ luật ngày 16/02/2012 của Thường vụ Đảng ủy Bộ Y tế. Theo đó, sau cuộc họp chiều 16/2 của Ban cán sự Đảng ủy Bộ Y tế đề nghị mức kỷ luật đối với ông Cao Minh Quang, nhiều báo đã đưa tin chi tiết về kết quả bỏ phiếu với 2 phiếu khiển trách, 2 phiếu cảnh cáo, 4 phiếu cách chức và 1 phiếu khai trừ khỏi Đảng, trong khi bản thân ông Quang không biết về kết quả này.
Trong đơn gửi lên Ban Thường vụ Đảng ủy Khối các cơ quan TƯ, ông Cao Minh Quang đề nghị về việc xem xét và giải quyết các đề nghị trong Bản kiểm điểm và giải trình ngày 14/02/2012 theo yêu cầu của Ủy ban Kiểm tra TƯ. Ngoài ra, ông Quang cũng đề nghị cần làm rõ việc nội bộ tung tin mật ra báo chí ngày 17/02/2012 về kết quả kiểm phiếu trong buổi họp xem xét kỷ luật ngày 16/02/2012 của Thường vụ Đảng ủy Bộ Y tế. Theo nội dung trong đơn, việc thông tin bị một ai đó cố tình tung ra ngoài cho báo chí là vi phạm quy chế bảo mật trong quá trình kiểm tra của các cơ quan chức năng của Đảng khi chưa có kết luận sau cùng của Uỷ ban Kiểm tra TƯ.
Trong đơn kiến nghị lên Ban Thường vụ Đảng ủy Khối các cơ quan TƯ, ông Cao Minh Quang cũng đề nghị được xem xét lại các kết luận của Đoàn Kiểm tra về việc tố cáo ông Quang vu khống, không trung thực trong lời nói và việc làm, gây mất đoàn kết nội bộ nhằm thay thế cán bộ lãnh đạo cấp dưới thuộc lĩnh vực phụ trách. Đồng thời ông Quang đề nghị Ban Thường vụ Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương nghiên cứu phần “Tổng hợp các cơ sở pháp lý về việc xác định tương đương văn bằng “Licentiatexamen’’ - Licentiate of Pharmaceutical Sciences do Trường Đại học Uppsala, Thụy Điển cấp cho ông DS. Cao Minh Quang vào tháng 10/1994.
2. Báo Thanh niên phản ánh: Thông tin giao thông (GT) TP.HCM năm nay sẽ thiếu hụt hàng nghìn tỉ đồng trong tổng nhu cầu vốn gần 50.000 tỉ đồng hoàn toàn không phải chuyện mới. Bởi GT là lĩnh vực rất nặng vốn nên tình trạng “thiếu trước, hụt sau” gần như năm nào cũng xảy ra. Vấn đề đáng bàn là, với nguồn chi còn hạn hẹp như thế, việc sử dụng đồng vốn của ngành GT có lúc, có nơi thiếu hiệu quả, lãng phí, thậm chí tuy mang cảnh “con nhà nghèo” song việc “chơi sang”, “chơi trội” ở các dự án (DA) GT cũng chẳng phải chuyện hiếm. Tình trạng lãng phí trước hết thể hiện ở sự hạn chế trong quản lý nguồn vốn khiến cho cứ mười DA GT thì cả mười đều đội vốn chóng mặt. Điều này kéo theo chi phí cho mỗi DA tăng cao, và như thế, với cùng một lượng tiền, số công trình được đầu tư ít đi. Đơn cử, tuyến metro Bến Thành - Suối Tiên (vay vốn ODA Nhật) chưa khởi công đã tăng vốn hơn gấp đôi từ 1,1 tỉ USD lên 2,5 tỉ USD.
Trước đó, DA Đại lộ Đông Tây và Cải thiện môi trường nước (cũng vay ODA Nhật) đội vốn thêm 3.600 tỉ đồng. Một DA siêu bê bối khác là Vệ sinh môi trường lưu vực Nhiêu Lộc - Thị Nghè (vay ODA của Ngân hàng Thế giới) thi công quá ì ạch nên tổng kinh phí “leo thang” từ 200 triệu USD lên gần 320 triệu USD và chưa dừng lại. “Kỷ lục” nhất có lẽ là cầu Hoàng Hoa Thám (do ngân sách TP đầu tư) dài chỉ 100m song phải mất 12 năm mới hoàn thành, vốn đầu tư tăng gấp 8 lần, từ 19 tỉ đồng lên 155 tỉ đồng... Có thể thấy, số tiền đội lên ở các DA này là quá lớn, đáng lẽ có thể giúp TP.HCM có thêm nhiều con đường, nhiều cây cầu mới, đầu tư vào các DA cấp bách và thiết thực khác, song ở đây lại dùng để bù đắp cho phần chi phí phát sinh từ việc thi công chậm trễ và sự yếu kém trong quản lý DA của các cơ quan hữu quan.
Chưa kể, do căn bệnh đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ, nên nhiều công trình hạ tầng không thể phát huy hiệu quả. Chẳng hạn, tính đến thời điểm này, TP.HCM đã rót hàng chục nghìn tỉ đồng cho các công trình ở cửa ngõ phía đông (cầu Thủ Thiêm, cầu Phú Mỹ, cầu Rạch Chiếc, mở rộng xa lộ Hà Nội, đại lộ Đông Tây, hầm Thủ Thiêm...), song hầu hết đều rơi vào cảnh “cầu chờ đường”, hoặc “giai đoạn 1 chờ giai đoạn 2”.
Trên bình diện rộng hơn, việc áp dụng công nghệ đắt tiền vào các DA hạ tầng mà không tiên liệu đầy đủ về việc liệu công nghệ ấy có phù hợp với điều kiện đặc thù và nguồn ngân sách hạn hẹp hay không cũng gây lãng phí rất lớn. Chúng ta hẳn chưa quên việc sử dụng lớp tạo nhám hiện đại Novachip trên nền đất chưa tắt lún và thiết kế hàng loạt hệ sàn giảm tải đắt tiền đã biến đường cao tốc TP.HCM - Trung Lương trở thành con đường đắt giá với suất đầu tư cao gấp 4 - 5 lần các nước châu Âu, trong khi chất lượng lại kém xa. Hay việc chi hơn 97 tỉ đồng sửa chữa mặt cầu Thăng Long (Hà Nội) bằng công nghệ nhựa SMA hiện đại nhưng chỉ sau vài tháng cầu đã nứt toác và lại tốn chi phí sửa chữa tiếp...
Khi bàn về thực trạng yếu kém của hệ thống hạ tầng, ngành GT thường đổ cho việc thiếu vốn. Đồng ý là thế, song thử hỏi việc sử dụng những đồng vốn GT quý giá đã đúng chỗ, đúng thời điểm hay chưa, khi mà có không ít cây cầu xây xong để... thả diều, nhiều công trình xây nửa chừng rồi bỏ hoang cả thập kỷ? DA trì trệ, vốn đầu tư tăng vọt, công trình xây xong không người sử dụng... trở thành chuyện “thường ngày ở huyện” và cũng chẳng thấy cá nhân, cơ quan nào phải chịu chế tài. Chỉ thương những đồng tiền thuế của người dân góp vào ngân sách bị đem sử dụng lãng phí, còn gánh nặng ODA oằn vai thế hệ tương lai.
3. Báo điện tử Vnexpress phản ánh: au 4 ngày, đám cháy ở Vườn quốc gia Hoàng Liên (Lào Cai) đã thiêu rụi khoảng 100 ha rừng. Việc khống chế đám cháy vẫn gặp nhiều khó khăn do không thể sử dụng được phương tiện, máy móc dập lửa. Chiều tối 5/3, có mặt tại hiện trường vụ cháy ở Vườn quốc gia Hoàng Liên, Phó tổng cục Lâm nghiệp Hà Công Tuấn cho biết, khu vực xảy cháy không có diện tích người dân làm rẫy nhưng đây là nơi người dân có trồng và sấy thảo quả. “Ngọn lửa đã thiêu rụi khoảng 100 ha rừng tái sinh sau vụ cháy năm 1998, chưa cháy vào rừng tự nhiên”, ông Tuấn cho biết.
Trước đó, trưa 2/3, đám cháy được phát hiện tại khu rừng gần ngã ba suối Nà Háng thuộc thôn Séo Mý Tỷ (xã Tả Van, Sapa, Lào Cai). Diện tích rừng bị cháy nằm trong Vườn quốc gia Hoàng Liên - Sapa. Khu vườn này nằm trên địa bàn 6 xã vùng cao của huyện Sapa và huyện Tân Uyên (Lai Châu), rộng khoảng 30.000 ha, được công nhận là Vườn di sản ASEAN vào năm 2003.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài THA bắt đương sự mỏi mòn chờ tiền bồi thường. Bài báo phản ánh: Theo hồ sơ, tháng 9-1999, bà Lâm Tuyết Ánh trúng đấu giá mua một căn nhà do cơ quan Thi hành án (THA) TP Cà Mau (nay là Chi cục THA TP Cà Mau) bán đấu giá. Tháng 10-1999, bà Ánh nộp đủ số tiền mua nhà là 305 triệu đồng nhưng chờ mãi không được giao nhà nên đã kiện cơ quan THA ra tòa yêu cầu được bồi thường.
Sau đó, TAND tỉnh Cà Mau đã tuyên buộc Chi cục THA TP Cà Mau phải bồi thường cho bà Ánh gần 2 tỉ đồng. Tuy nhiên, đến giữa năm 2011, cơ quan THA chỉ mới bồi thường cho bà Ánh khoảng 356 triệu đồng. Bà Ánh đã có đơn đề nghị THA gần một năm qua nhưng THA cho biết không có tiền, đang chờ xin Bộ Tư pháp nên chưa thể bồi thường. Ngày 5-3, ông Lê Minh Thành (Chi cục trưởng Chi cục THA TP Cà Mau) nhìn nhận: “Chúng tôi chưa có nguồn chi bồi thường thiệt hại, do vậy mà đến giờ cũng chưa thể THA cho bà Ánh. Khi nhận được đơn xin THA của bà, chúng tôi đã gửi hồ sơ về Tổng cục THA xem xét. Sau đó, chúng tôi được Tổng cục THA hướng dẫn làm thủ tục gửi Bộ Tư pháp. Hiện chúng tôi đang chờ Bộ Tư pháp giải quyết hồ sơ bồi thường cho bà Ánh...”.
Báo cũng phản ánh: Tại hội thảo Tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992 của ngành TAND ngày 5-3, Chánh án TAND Tối cao Trương Hòa Bình đã tổng hợp các ý kiến góp ý và thống nhất kiến nghị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp theo hướng: Hiến định rõ quyền tư pháp độc lập của tòa án và đề nghị chấm dứt quyền kiểm sát xét xử của VKS để thay thế bằng cơ chế kiểm soát khác phù hợp hơn. Các đại biểu còn kiến nghị sửa đổi hàng loạt các quy định chưa phù hợp của Hiến pháp.
Theo PGS-TS Trần Văn Độ - Phó Chánh án TAND Tối cao: Về mặt lý luận thì nhiều quốc gia trên thế giới đều coi quyền tư pháp là quyền xem xét và phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp. Nhưng trong Hiến pháp 1992 vẫn chưa xác định tòa án là cơ quan tư pháp độc lập duy nhất, mà chỉ quy định (Chương X Điều 127) “TAND là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam” nên chưa thể hiện chính xác, đầy đủ các quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thậm chí, trong thực tiễn thì các cơ quan tư pháp thường được hiểu bao gồm: TAND, VKSND, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án. Điều này không đúng! Nếu không làm rõ nội hàm những quyền cơ bản thì sẽ khó xây dựng các thiết chế và cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả. Vì vậy, lần sửa đổi Hiến pháp này cần hiến định rõ tòa án là cơ quan tư pháp duy nhất, thực hiện quyền tư pháp độc lập đó là xét xử. Như vậy, các hệ thống cơ quan tư pháp chỉ bao gồm: TAND Tối cao, các TAND, các tòa quân sự và các tòa án khác do luật định.
Còn VKSND chỉ là cơ quan tham gia hoạt động tư pháp, chủ yếu thực hiện chức năng công tố. Cơ quan điều tra, thi hành án cũng thuộc nhóm cơ quan hành pháp. Ngay cả Bộ Tư pháp về tên gọi là như thế nhưng thực ra cũng không có quyền tư pháp (phán quyết) mà chỉ là cơ quan quản lý nhà nước về một số lĩnh vực liên quan trong hoạt động tư pháp (luật sư, thi hành án dân sự…). Nếu xác định rõ và bảo đảm quyền tư pháp độc lập thì cũng phải xem xét lại chức năng kiểm sát xét xử của VKS vì rất bất hợp lý: Cơ quan này là một bên tham gia tố tụng nhưng vừa có quyền công tố, vừa có quyền kiểm sát xét xử. Điều này có thể ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử của tòa án. Vì thế, nhiều chánh án các tòa địa phương bày tỏ không đồng tình về vai trò hiện hành của VKSND mà đề nghị chuyển hẳn VKSND thành cơ quan thực hành quyền công tố. Còn nếu tiếp tục duy trì chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp thì nên giới hạn trong phạm vi kiểm sát hoạt động điều tra, thi hành án… Nếu để kiểm sát hoạt động xét xử thì phải xây dựng cơ chế riêng phù hợp hơn.
Theo chánh án TAND Tối cao, điều kiện hiện nay chưa chín muồi để thành lập tòa án hiến pháp. Việc giao cho TAND Tối cao có chức năng phán xét tính hợp hiến hay chức năng bảo vệ hiến pháp là chưa phù hợp. Ông Bình đề xuất nghiên cứu thành lập hội đồng bảo hiến. Hội đồng bảo hiến có thẩm quyền xem xét cả việc bảo vệ hiến pháp và giám sát các hoạt động vi hiến của các cơ quan nhà nước. Hội đồng bảo hiến do Chủ tịch nước đứng đầu, các thành viên gồm đại diện các cơ quan lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ), tư pháp (tòa án) và một số đại diện do Quốc hội bầu. Hội đồng bảo hiến có thẩm quyền: Xem xét tính hợp hiến của văn bản pháp luật, nếu thấy không hợp hiến thì trình Quốc hội xem xét; ban hành nghị quyết bãi bỏ văn bản dưới luật không hợp hiến và ra quyết định tạm đình chỉ thi hành, chờ Quốc hội xem xét.
Chánh tòa Kinh tế TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, ông Tạ Quốc Việt cho rằng hệ thống tổ chức tòa án và thẩm quyền xét xử theo đơn vị hành chính như hiến định hiện hành cũng không hợp lý, gây khó khăn, lúng túng trong thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp “tổ chức tòa án theo thẩm quyền và cấp xét xử”. Đồng thời, dễ bị tác động từ chính quyền địa phương, ảnh hưởng nguyên tắc độc lập xét xử. Nguyên tắc xét xử tập thể (Điều 131) cũng đã hạn chế việc xét xử theo thủ tục rút gọn (chỉ có một thẩm phán xét xử). Ngoài ra, Hiến pháp năm 1992 quy định về thành lập tòa án đặc biệt cũng cần sửa đổi. Bởi lẽ việc thành lập tòa án đặc biệt chỉ phù hợp với thời kỳ chiến tranh, khi hệ thống tòa án còn non trẻ. Đến nay, hệ thống TAND đã lớn mạnh, đủ năng lực xét xử tất cả loại án thì thành lập tòa án đặc biệt là không cần thiết.
Ngoài ra, cũng nên bãi bỏ quy định về tổ chức hòa giải cơ sở trong Hiến pháp 1992. Vì đây không phải là thiết chế tư pháp mà là thiết chế hành chính, xã hội. Hòa giải cơ sở nên quy định bằng luật riêng, nếu thấy cần thiết phải duy trì tổ chức này ở mức độ hiến định thì chuyển về chương khác, không thể để ở chương tư pháp.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Từ vụ cô dâu bị từ hôn: Đến lúc cần cân nhắc lại độ tuổi kết hôn?. Bài báo phản ánh: Mấy ngày qua, dư luận ở Cần Thơ và cả nước xôn xao về chuyện cô dâu Nguyễn Đặng Xuân Thùy (SN 1993) bị nhà chồng từ chối. Bỏ qua những tình tiết “râu ria” của câu chuyện như gia đình chồng nghi cô dâu là diễn viên trong một clip sex, cô dâu không còn trinh tiết, thì dưới góc độ pháp luật, có một số vấn đề đáng bàn.
Theo trình bày của cô dâu Xuân Thùy thì do cha mẹ hai bên quen biết nhau từ lâu nên đến năm 16 tuổi, gia đình cô đã đồng ý gả cô cho anh Nguyễn Phúc Duy. Cuối năm 2009, hai bên tổ chức đám hỏi, ngày 14/3/2011 thì tổ chức đám cưới với sự chứng kiến của đông đủ bà con hai họ, bạn bè gần xa. Cô dâu và chú rể về sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn vì khi ấy Thùy chưa đến 18 tuổi. Khi rõ chuyện, dư luận đặt câu hỏi: Tổ chức đám cưới và chung sống với nhau ở độ tuổi như vậy, cô dâu Thùy và chú rể Duy có vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) hay không, nhất là chú rể Duy? Quan điểm về vấn đề này, Luật sư Nguyễn Văn Đức - Văn phòng luật sư Vạn Lý, Cần Thơ cho rằng: “Việc hai gia đình tổ chức đám cưới là không vi phạm pháp luật vì luật chỉ quy định độ tuổi kết hôn chứ không điều chỉnh tuổi tổ chức tiệc cưới”.
Cũng có nhiều ý kiến không đồng tình với quan điểm của vị luật sư trên, nhưng nhìn chung sự không nhất quán này đều có xuất pháp điểm ở những vướng mắc trong độ tuổi kết hôn của pháp luật về hôn nhân và gia đình hiện hành.
Năm 2011, Trường ĐH Luật Hà Nội đã có một đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Nghiên cứu phát hiện những bất cập của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000”. Đề tài không những là những tư duy đúc rút quan trọng của các giáo viên bộ môn luật này trong suốt quá trình giảng dạy mà còn là tài liệu đáng giá cho việc sửa đổi, bổ sung đạo luật sẽ được tiến hành trong thời gian tới. Trong chuyên đề về chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 2000, Thạc sỹ Bùi Thị Mừng - giảng viên Khoa Pháp luật Dân sự đã đề cập tới rất nhiều vấn đề như điều kiện kết hôn theo luật như tuổi kết hôn, sự tự nguyện khi kết hôn,các trường hợp luật cấm kết hôn, đăng ký kết hôn... Trong đó về tuổi kết hôn, Thạc sỹ Bùi Thị Mừng phân tích điều luật hiện hành đang chứa đựng nhiều vấn đề bất cập.
Như chúng ta đã biết, theo Luật HN&GĐ năm 2000, độ tuổi kết hôn theo quy định đối với nam là từ 20 tuổi trở lên, đối với nữ là từ 18 tuổi trở lên. Điều này cũng đồng nghĩ với việc không bắt buộc nam phải từ đủ 20 tuổi trở lên và nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn. Vì vậy, theo văn bản hướng dẫn thực hiện luật thì nam đã bước sang tuổi 20, nữ đã bước sang tuổi 18 mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về tuổi kết hôn. Trong mối liên hệ với quy định của pháp luật dân sự, pháp luật tố tụng dân sự, dễ dàng nhận thấy điểm bất cập liên quan đến quy định của pháp luật về tuổi kết hôn theo pháp luật hiện hành. Trong khi Bộ luật Dân sự quy định người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự là người đủ 18 tuổi thì độ tuổi kết hôn tối thiểu theo pháp luật hiện hành đối với người nữ lại không phải là đủ 18 tuổi.
Không những tạo ra sự thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ trong hệ thống pháp luật, việc người nữ không phải là đủ 18 tuổi đã được kết hôn sẽ dẫn đến những hệ lụy về việc tự nguyện kết hôn (liệu một người chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ vẫn thực hiện việc bày tỏ ý chí đối với việc xác lập quan hệ hôn nhân có là chuẩn xác?); hệ lụy về việc ly hôn (trong trường hợp ly hôn sau kết hôn vài tháng, tuổi vẫn chưa đủ 18 thì có thể thực hiện quyền yêu cầu ly hôn không vì theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự họ chưa có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự).
Theo quan điểm của Thạc sỹ Bùi Thị Mừng cũng như nhiều giảng viên bộ môn pháp luật hôn nhân gia đình khác thì sự tùy tiện trong việc thực thi pháp luật về tuổi kết hôn phát sinh chính từ quy định tính tuổi theo khái niệm “từ đủ” và “đã bước sang” này. Thực tiễn cho thấy sở dĩ trước đây các nhà làm luật vận dụng cách tính tuổi này là vì lý do có rất nhiều bậc cha mẹ chỉ nhớ về năm sinh chứ không nhớ chi tiết về ngày sinh tháng đẻ của con mình. Do vậy, quy định thế sẽ tạo ra một sự vận dụng linh hoạt đối với quy định về điều kiện tuổi kết hôn. Tuy nhiên, ở giai đoạn hiện nay, khi nhận thức đã thay đổi và công việc về hộ tịch đã được làm chặt chẽ ở cấp cơ sở, thì tình trạng này còn rất ít. Chính vì vậy, theo các nhà làm luật cần sớm chấm dứt hiện trang xem xét tuổi kết hôn như hiện nay để đảm bảo tính chặt chẽ, khoa học đối với các quy định của pháp luật về tuổi kết hôn.