I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Lao động có bài Kết luận của Thủ tướng tại buổi làm việc với Đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐVN. Bài báo đưa tin: Báo Lao Động lược ghi ý kiến kết luận của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại buổi làm việc với Đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐVN ngày 22.2.2012.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Chính phủ đánh giá cao những nỗ lực phấn đấu và kết quả đã được của giai cấp công nhân và các cấp CĐ trong những năm qua, đặc biệt là trong năm 2011. Tình hình kinh tế - xã hội của đất nước còn gặp nhiều khó khăn, nhưng CNVCLĐ và các cấp CĐ từ T.Ư đến địa phương đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua nhiều thách thức đóng góp vào thành tựu chung của đất nước. Kết quả đó còn có sự phối hợp công tác giữa Tổng LĐLĐVN với Chính phủ. Tôi nhấn mạnh là Tổng LĐLĐVN đã có nhiều cố gắng, tham gia với Chính phủ để xây dựng, hoàn thiện pháp luật, ví dụ như Luật Lao động (sửa đổi) và Luật công đoàn (sửa đổi), đặc biệt là các nội dung liên quan đến quyền, lợi ích của người lao động, chức năng, vai trò của tổ chức CĐ… góp phần ổn định chính trị, chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động, của giai cấp CN. Chính phủ hoan nghênh và đề nghị Tổng LĐLĐVN tiếp tục phát huy vai trò, chức năng của mình, bảo vệ lợi ích chính đáng của NLĐ, của giai cấp CN.
Năm 2011, Tổng LĐLĐVN cũng đã chủ trì, triển khai có hiệu quả nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động thiết thực, tăng cường, phát huy tinh thần học tập, lao động sản xuất của CNLĐ. Tổ chức CĐ đã thực hiện các cuộc vận động CNVCLĐ giúp đỡ lẫn nhau; tổ chức các chương trình xã hội từ thiện thể hiện sự đùm bọc giai cấp… góp phần đảm bảo an sinh xã hội, ví dụ như Chương trình giúp công nhân về quê ăn Tết, chương trình “Mái ấm công đoàn”… CĐ cũng đề cao trách nhiệm, tích cực phối hợp với chính quyền để giải quyết các yêu cầu chính đáng của NLĐ; tham gia giải quyết các cuộc đình công, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Chính phủ cũng đánh giá cao sự phối hợp của Tổng LĐLĐVN trong thực hiện tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, phòng chống TNXH đối với CNVCLĐ, nhất là việc tuân thủ pháp luật về trật tự an toàn giao thông. Đặc biệt, trong thời gian vừa qua, Tổng LĐLĐVN đã tổ chức thành công mô hình Nghiệp đoàn Nghề cá ở một số nơi. Đây là chủ trương đúng đắn, sát thực, cần nghiên cứu, mở rộng ra cả nước. Chính phủ cũng có chủ trương hỗ trợ cho đánh cá ở vùng biển xa, trong đó có kinh phí hỗ trợ cho ngư dân. Nhưng sự hỗ trợ cần thông qua tổ chức cụ thể.
Trong năm 2012, mục tiêu của cả nước đưa tỉ lệ lạm phát xuống dưới hai con số là khả thi và duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Có tăng trưởng mới giải quyết được việc làm, an sinh xã hội. Phải bảo đảm phúc lợi xã hội trong điều kiện khó khăn, nhưng quyết không để người dân bị đói; đảm bảo y tế, giáo dục, cải cách hành chính, bảo đảm quốc phòng an ninh… để giữ ổn định đất nước, nâng cao vai trò vị thế của VN trên thế giới… Mục tiêu đó cần sự đóng góp của giai cấp CN, của tổ chức CĐ trong việc phối hợp với Chính phủ trong việc phát triển đất nước, thực hiện nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó.
Tôi nhất trí với những nội dung phối hợp trong thời gian tới đã nêu trong dự thảo. Trong năm 2012, cần sự phối hợp cho tốt hơn giữa Tổng LĐLĐVN và Chính phủ, xây dựng những chính sách pháp luật liên quan tới NLĐ, tổ chức CĐ. Cần phối hợp chăm lo cho NLĐ, đẩy mạnh các phong trào thi đua; chủ động phát hiện, phối hợp với chủ sử dụng lao động để giải quyết sớm, giải đáp thắc mắc của NLĐ và quyền lợi của DN, phấn đấu giảm 50% số vụ đình công năm 2012 (đặc biệt là các ngành thường xuyên xảy ra đình công như da giày, may mặc); cần phát hiện để đấu tranh với người sử dụng LĐ để sớm giải quyết quyền lợi cho NLĐ để giảm đình công. CĐ cần chủ động để đấu tranh đúng pháp luật với người sử dụng LĐ vi phạm để ổn định, trong sạch môi trường đầu tư. Bộ LĐTBXH và Bộ CA cũng cần phối hợp với Tổng LĐLĐVN để giải quyết vấn đề này. CĐ cần xem xét việc xây dựng nghiệp đoàn, ví dụ như Nghiệp đoàn Nghề cá thì cần Nhà nước hỗ trợ những gì, giúp người lao động những gì, để ổn định và phát triển, góp phần bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia.
Về kiến nghị của Tổng LĐLĐVN, những vấn đề đã kết luận rồi mà chưa thực hiện, các bộ cần nghiêm túc triển khai thực hiện. Với các kiến nghị trong năm 2012, các bộ liên quan cần xem xét để triển khai cụ thể theo đề xuất của Tổng LĐLĐVN và Văn phòng Chính phủ tập hợp. Sau hội nghị là triển khai thực hiện ngay. Về việc nhân rộng mô hình, hỗ trợ vốn cho người nghèo tạo việc làm có sự hỗ trợ của nhà nước, Chính phủ đã đồng ý về chủ trương. Đề nghị Bộ Tài chính quyết liệt làm sớm, VPCP phối hợp nghiên cứu để trình Thủ tướng phê duyệt. Về trụ sở của Tổng LĐLĐVN, UBND TP Hà Nội cần xem xét, bàn cụ thể với Tổng Liên đoàn. Nếu không có trở ngại gì lớn thì có văn bản trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.
2. Báo CAND Online có bài Ra mắt Website “Dự thảo online” để người dân tham gia xây dựng pháp luật. Bài báo phản ánh: Sáng 22/2, tại Hà Nội, Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu khoa học thuộc Văn phòng Quốc hội đã tổ chức lễ ra mắt phiên bản mới của website Dự thảo online.
Mục đích của website này là tạo ra một kênh thông tin hai chiều để gắn kết các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội với cử tri; là phương tiện hữu hiệu để người dân có thể tham gia trực tiếp vào quá trình xây dựng pháp luật của Quốc hội.
Được biết, Trang thông tin này có tiền thân là trang Ý kiến nhân dân về dự thảo luật, pháp lệnh, được xây dựng và ra mắt lần đầu tiên năm 2007. Việc xây dựng phiên bản mới của website sau 5 năm đi vào hoạt động là nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để người dân có thể theo dõi, tìm hiểu và góp ý vào quy trình hình thành và phê chuẩn chính sách tại Quốc hội.
Phát biểu tại lễ ra mắt phiên bản mới của website, Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Sĩ Dũng cho biết, Website sẽ đăng tải các dự án, Dự thảo luật, Pháp lệnh, Nghị quyết trình Quốc hội xem xét thông qua. Các ý kiến đóng góp của người dân và chuyên gia đăng tải trên website sẽ được tổng hợp và gửi đến các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, phục vụ cho việc chỉnh lý và hoàn thiện dự án. Từ đó, Quốc hội sẽ thêm một kênh thông tin để nắm bắt ý kiến, nguyện vọng của người dân. Với các nhà nghiên cứu, đây còn là một kho dữ liệu phong phú, đầy đủ và chính thống. Đồng thời, người dân cũng có điều kiện để hiểu rõ hơn về các chính sách liên quan đến quyền và lợi ích của mình.
Địa chỉ phiên bản mới của website là http://duthaoonline.quochoi.vn.
3. Báo Dân trí có bài Kiểm toán phát hiện nhiều sai phạm tài chính tại PetroVietnam. Bài báo phản ánh: Theo nguồn tin từ Kiểm toán Nhà nước (KTNN), tổng số tiền cơ quan này kiến nghị Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) phải nộp ngân sách lên tới trên 185,76 tỉ đồng. Tuy nhiên PVN và các đơn vị thành viên mới chỉ thực hiện nghĩa vụ và nộp vào NSNN 91,388 tỷ đồng, bằng 49% so kiến nghị của KTNN. Số chưa thực hiện vẫn còn tới 94,388 tỷ đồng, bằng 51% số kiến nghị của KTNN.
Sau khi làm việc với PVN, KTNN đã xác định được một số nguyên nhân cản trở. Trong đó, 12,77 tỷ đồng còn “khất” là khoản tiền thuế thu nhập doanh nghiệp mà Tổng công ty điện lực phải nộp thay nhà thầu về tiền lãi vay của ngân hàng Calyon đang làm thủ tục miễn thuế tại Cục thuế Hà Nội.
Bên cạnh đó, đáng kể hơn là số 81,54 tỷ đồng cũng chưa thanh toán. Kiểm toán xác định do Tổng công ty Điện lực dầu khí chưa thu được tiền bán điện cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).
Tính đến thời điểm 8/11/2011 số tiền EVN còn nợ Tổng công ty Điện lực dầu khí là 11.981,08 tỷ đồng và phía dầu khí đã đề nghị Công ty mua bán điện thanh toán khoản nợ này trước 31/12/2011.
KTNN đề nghị Tập đoàn chỉ đạo Tổng công ty điện lực Dầu khí sớm thu nợ EVN khoản này, đồng thời nộp ngân sách nhà nước khoản thuế giá trị gia tăng theo kiến nghị kiểm toán vào ngân sách nhà nước. Ngoài ra, cũng theo nguồn tin từ KTNN thì trong quá trình làm việc với EVN, cơ quan này đã phát hiện việc Tổng công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam thực hiện hỗ trợ lãi suất sai quy định, sai đối tượng gần 6 tỷ đồng. Khoản này đã được Tổng công ty thu hồi.
PVN còn mắc nhiều sai phạm trong việc chấp hành các quy định pháp luật về đầu tư, xây dựng cơ bản tại 3 dự án Văn phòng Viện Dầu khí, Trung tâm Tài chính Dầu khí và Khách sạn Dầu khí Vũng Tàu. PVN đã phải giảm trừ khi thanh, quyết toán các dự án này.
Nguồn tin kiểm toán cũng tiết lộ, cơ quan KTNN đã có chỉ đạo tới Tổng công ty Dầu Việt Nam khắc phục những tồn tại trong quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh; làm rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân đại diện phần vốn nhà nước liên quan tại CTCP Dầu khí Mê Kông - Petromekong (niên độ 2008-2009) dẫn đến tình trạng thua lỗ. Theo đó, Tập đoàn đã thực hiện tái cấu trúc 2 đơn vị, tổ chức cán bộ có thay đổi những chức danh quan trọng như Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Ôm nợ vì sập “bẫy”. Bài báo phản ánh: Bà Ngô Thị Mỹ Liên (SN 1988, ngụ Nguyễn Kiệm, P3Q.Phú Nhuận) mua căn nhà số 8 đường 34, P.Tân Quy, Q7, TPHCM của Công ty TNHH thương mại vận tải Dương Hoàng Thịnh (Cty DHT). Hợp đồng mua bán nhà được Văn phòng công chứng Gia Định chứng nhận ngày 20-5-2010, có sự chứng kiến của đại diện Ngân hàng Nông nghiệp - Phát triển nông thôn chi nhánh Phú Mỹ Hưng (nơi bà Liên vay 6,5 tỷ đồng mua nhà).
Nhận đủ tiền của bà Liên, phía Cty DHT không thực hiện đúng theo hợp đồng đã ký kết (bên bán phải đóng thuế thu nhập và các lệ phí liên quan). Đang đau đầu thì bà Liên bất ngờ nhận được thông báo do Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án (THA) dân sự Q7 Nguyễn Văn Mỳ ký ngày 23-6-2010 liên quan đến việc thi hành án của Cty DHT. Được Chi cục THA Q7 mời làm việc, bà Liên mới biết Cty DHT do giám đốc Nguyễn Phước Chánh làm đại diện phải trả cho Tổng công ty Hàng hải Việt Nam 2,9974 tỷ đồng, theo quyết định số 20/2009/QĐST-KDTM ngày 4-9-2009 của TAND Q7. Chi cục THA Q7 đã ra quyết định cưỡng chế, kê biên, phát mãi căn nhà số 8 đường 34, P.Tân Quy, Q7 vào ngày 24-6-2010.
Bà Liên làm đơn khiếu nại Chi cục THA Q7 đồng thời khởi kiện Cty DHT ra tòa. Ngày 13-8-2010, TAND Q7 ra thông báo thụ lý vụ án. Trong khi đó, ngày 16-8-2010, Chi cục trưởng Nguyễn Văn Mỳ ký quyết định bác đơn bà Liên yêu cầu Chi cục THA Q7 không được cưỡng chế kê biên phát mãi căn nhà số 8 đường 34, P.Tân Quy, Q7. Ngày 3-12-2010 Phó cục trưởng Cục THA dân sự TPHCM Võ Minh Hòa ký quyết định bác đơn bà Liên, giữ nguyên quyết định 16-8-2010 của Chi cục trưởng Mỳ.
Bức xúc dẫn đến tố cáo của bà Liên là có cơ sở. Sau khi quyết định số 20/2009/ QĐST-KDTM của TAND Q7 có hiệu lực, ngày 13-11-2009, Chi cục THA Q7 ra quyết định thi hành án. Tiếp đến, ngày 26-3-2010, THA Q7 ra quyết định ngăn chặn việc chuyển nhượng căn nhà số 8 đường 34, P.Tân Quy, Q7 để đảm bảo thi hành án. Chỉ hơn một tháng sau, ngày 29-4-2010 Chi cục trưởng Mỳ bất ngờ ký quyết định số 206/QĐ-THA chấm dứt ngăn chặn chuyển nhượng đối với căn nhà trên. Cty DHT bán căn nhà cho bà Liên ngày 20-5-2010. “Giúp” Cty DHT bán nhà lấy tiền xong, ngày 24-6-2010, ông Mỳ ký thông báo “cưỡng chế, kê biên, phát mãi” căn nhà! Bà Liên phản ứng: “Ký quyết định số 206/QĐ-THA, ông Mỳ đã giăng ra cái “bẫy”. Nếu tôi không sập thì người khác cũng sẽ dính “bẫy” khi mua căn nhà này. Cho đến nay, lãnh đạo Cục THA dân sự TP cũng như Tổng cục THA dân sự Bộ Tư pháp vẫn chưa làm rõ việc ông Mỳ ký quyết định này”.
Đặt bút ký quyết định số 206/QĐ-THA gởi rất nhiều nơi, nhưng trong hàng loạt các văn bản ban hành sau này, trong đó có cả quyết định giải quyết khiếu nại của bà Liên, ông Mỳ “quên” không đề cập đến! Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 10-1-2011, đại diện ông Mỳ chẳng những “quên” quyết định số 206/QĐ-THA mà còn lên tiếng cho rằng việc bà Liên mua nhà là trái pháp luật nhằm “tẩu tán tài sản thi hành án” (?!).
Ông Mỳ và đại diện của ông Mỳ “quên”, nhưng TAND Q7 thì nhớ rất rõ vì quyết định số 206/QĐ-THA là mấu chốt của vụ án. Tòa nhận định: Căn cứ vào quyết định số 206/QĐ-THA thì hợp đồng mua bán căn nhà số 8 đường 34, P.Tân Quy, Q7 ký kết ngày 20-5-2010 tại Văn phòng công chứng Gia Định hoàn toàn phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Nhà ở. Không thể cho rằng bà Liên có hành vi tẩu tán tài sản, nếu có thì trách nhiệm này thuộc về Cty DHT. Từ nhận định trên, TAND Q7 tuyên công nhận hợp đồng mua bán nhà giữa bà Liên với Cty DHT. Bà Liên được quyền liên hệ với cơ quan chức năng để đăng ký chuyển sở hữu căn nhà và quyền sử dụng đất ở đối với căn nhà số 8 đường 34, P.Tân Quy, Q7 theo quy định pháp luật.
Hoàn tất thủ tục, bà Liên được UBND Q7 cấp giấy chứng nhận (sổ hồng) căn nhà số 8 đường 34, P.Tân Quy, Q7 vào ngày 11-5-2011. Tuy nhiên, ngày 7-7-2011, ông Chi cục trưởng Mỳ ký văn bản số 277/THA gởi các cơ quan chức năng, nêu rõ: Ngày 15-9-2010 Chi cục THA Q7 ra quyết định số 89/QĐ-THA về việc tạm dừng đăng ký, chuyển nhượng căn nhà số 8 đường 34, P.Tân Quy, Q7. Hiện nay Cty DHT không chịu thi hành án. Chi cục THA Q7 đang kiến nghị giám đốc thẩm hủy bản án của TAND Q7 nên đề nghị tiếp tục duy trì quyết định số 89/QĐ-THA.
Đúng như văn bản số 277/THA của ông Mỳ kiến nghị, ngày 5-10-2011, Phó chánh án TAND TP Trần Văn Sự ký quyết định kháng nghị bản án của TAND Q7, đề nghị Ủy ban thẩm phán TANDTP xét xử giám đốc thẩm vụ án. Một điều lạ, kháng nghị này hoàn toàn không đề cập đến quyết định “mấu chốt” số 206/QĐ-THA do ông Mỳ ký.
Bà Liên khiếu nại quyết liệt, ngày 9-11-2011, Tổng cục THA dân sự Bộ Tư pháp có văn bản khẳng định: Việc Chi cục THA Q7 ra quyết định ngăn chặn số 89/QĐ-THA ngày 15-9-2010 là không đúng quy định. Tổng cục đã yêu cầu Cục THA dân sự TPHCM chỉ đạo giải tỏa việc ngăn chặn, tổ chức việc thi hành án theo đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, bản án đã bị kháng nghị nên phải tạm đình chỉ thi hành cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm.
Bà Liên cho biết, đang thống kê thiệt hại và xúc tiến việc khởi kiện đòi ông Mỳ bồi thường. Bên cạnh đó, bà Liên đã có đơn khiếu nại quyết định kháng nghị của TANDTP.
2. Báo Giáo dục & Thời đại có bài Một bản án dân sự thiếu công minh. Bài báo phản ánh: Vừa qua, Báo Giáo dục và Thời đại liên tiếp nhận được khiếu nại của bà Lê Thị Hường trú tại số nhà 69, đường An Dương Vương (phường An Đông, Tp Huế, Thừa Thiên Huế), về kết luận của bản án dân sự phúc thẩm số 03/2008/HNGD-PT ngày 09/6/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử cho ông Nguyễn Đức Cư (tạm trú tại 217, Trần Phú, phường Trường An, thành phố Huế) hưởng một nửa giá trị tài sản- ngôi nhà và đất thuộc quyền sở hữu của bà. Phóng viên Báo Giáo dục và Thời đại đã có cuộc xác minh sự việc và phát hiện có nhiều tình tiết mới xung quanh vụ án dân sự này.
Ông Nguyễn Đức Cư và bà Lê Thị Hường (nguyên đơn) chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1990, không đăng ký kết hôn theo quy định là vi phạm Luật hôn nhân và gia đình, nên khi xét xử Tòa án đã không công nhận ông Cư và bà Hường là vợ chồng hợp pháp. Tuy nhiên, trong khoảng 12 năm chung sống, hai người đã có 3 con chung, đều chưa đến tuổi thành niên. Theo ý muốn của 3 người con đều muốn được sống cùng mẹ và hai người đã thỏa thuận giao cho bà Hường nuôi dưỡng. Về phần tiền cấp dưỡng nuôi con, Toà án phúc thẩm đã phán quyết, ông Nguyễn Đức Cư phải cấp tiền cấp dưỡng cho 3 cháu mỗi tháng 750 ngàn đồng (250 ngàn đồng mỗi cháu) thời gian kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật cho đến khi các cháu tròn 18 tuổi. Tuy vậy, theo phản ánh của bà Lê Thị Hường thì từ ngày 9/6/2008 đến nay 3 người con chưa hề nhận được một khoản tiền cấp dưỡng nào từ người cha. Với thu nhập ít ỏi từ nghề uốn tóc, một mình bà gặp rất khó khăn khi phải chăm sóc và nuôi 3 người con ăn học.
Sau khi Tòa án phúc thẩm phân đôi mỗi người hưởng 50% tổng giá trị tài sản (nhà và đất), ông Nguyễn Đức Cư đã nhanh chóng làm hồ sơ chuyển nhượng cho một người khác. Bức xúc việc các cơ quan chức năng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Đức Cư khi đang trong thời gian kháng cáo lên Toà án nhân dân tối cao và có tranh chấp; sau đó, bà Lê Thị Hường đã chiếm dụng phần nhà và đất này. Buộc UBND thành phố Huế ban hành quyết định số 5769/ QĐ-CC ngày 13/9/2011 áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc bà trả lại nhà ở cho chủ sở hữu hợp pháp. Tuy nhiên, đến tại thời điểm này việc tổ chức cưỡng chế thi hành các quyết định vẫn chưa thể thực hiện được do bà Hường đã đưa ra một số chứng cứ bất hợp pháp trong quá trình thụ lý hồ sơ, giải quyết vụ việc của cơ quan chức năng. Bà Lê Thị Hường cho biết, trong nhiều năm qua, tôi luôn thắc mắc một điều là tại sao ông Nguyễn Thế Toại, Phó Trưởng ban Tư pháp (UBND thành phố Huế) và ông Nguyễn Tô Hoài, Chủ tịch UBND phường An Đông ký và cấp bản sao chứng thực từ bản chính Đơn xin bán nhà và Giấy thỏa thuận mua và bán nhà khi có dấu hiệu không còn giá trị pháp lý. Và đến nay vẫn chưa có cơ quan chức năng hay cấp chính quyền nào trả lời cho tôi được rõ về vấn đề này.
Theo đơn bà Lê Thị Hường phản ánh thì việc tòa án hai cấp (cấp thành phố và tỉnh) Thừa Thiên Huế đã không giám định chứng cứ để xác định việc làm gian dối của nguyên đơn là ông Nguyễn Đức Cư nhằm lấy tài sản riêng của bà có trước khi quan hệ hôn nhân bất hợp pháp với ông. Việc chia tài sản là áp đặt không đủ cơ sở pháp lý vì Tòa chỉ dựa vào những chứng cứ bất hợp pháp trong hồ sơ mua bán nhà và đất của bà.
Cùng phản ánh về trường hợp của bà, Báo Thừa Thiên Huế ra số 5094 ngày 21/4/2011 đã nêu ra những vấn đề chưa được tòa án nhân dân hai cấp làm rõ: “Lật lại hồ sơ vụ án, chúng tôi không khỏi băn khoăn về những căn cứ hợp pháp do bà Lê Thị Hường đặt ra vẫn chưa được TAND hai cấp làm rõ, xem xét đầy đủ và toàn diện một cách khách quan…”. Trong đơn bà có phản ánh rằng, cuối năm 2001, khi được bà nhờ làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông Nguyễn Đức Cư đã điền thêm tên ông vào giấy thoả thuận mua và bán nhà, đất giữa bà với ông Nguyễn Đình Thanh, bà Hoàng Thị Lài. Tình tiết này, bài báo cũng đã nêu: “Điều này phù hợp với việc ông Lê Văn Tuyển, Chủ tịch UBND xã Thủy An (nay là phường An Đông) xác nhận trong giấy thỏa thuận về phía người mua chỉ có bà. Mặt khác, TAND các cấp chỉ dựa vào lời khai của ông Nguyễn Đức Cư để cho rằng, công sức đóng góp mỗi bên ngang nhau là không có cơ sở…Ngoài ra, tất cả các giấy tờ khác (hộ khẩu thường trú, giấy chứng nhận số nhà, thông báo nộp thuế nhà đất, hồ sơ kỹ thuật thửa đất) đều đứng tên bà. Lại nữa, mặc dù bà Lê Thị Hường luôn yêu cầu thẩm phán các cấp trưng cầu giám định giấy thỏa thuận mua và bán nhà nhưng không được thẩm phán các cơ quan này chấp nhận là không đúng theo quy định của pháp luật”.
Sau khi nghiên cứu đơn của bà Lê Thị Hường và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ngày 21/6/2011, Tòa án nhân dân tối cao đã gửi văn bản số 142/HNGD-LĐ trả lời bà, trong đó có nội dung: “…việc bà cho rằng căn nhà tại 69 An Dương Vương (mua của ông Thanh, bà Lài) là tài sản riêng của bà nên bà yêu cầu được hưởng 70% tổng giá trị tài sản, ông Cư được hưởng 30% tổng giá trị tài sản là không có căn cứ…”. Vì vậy, để có thêm căn cứ khẳng định quyền sở hữu tài sản của mình, bà Lê Thị Hường đã đề nghị và được Công ty Luật Hồng Hà (địa chỉ 114 Phan Kế Bính, quận Ba Đình, Hà Nội) nhận tư vấn pháp lý và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Hường trong quá trình đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xét lại bản án dân sự phúc thẩm số 03/2008/ HNGD-PT ngày 09/6/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
Để đảm bảo tính khách quan, chính xác của chứng cứ trong vụ án, ngày 15/8/2011, Công ty Luật Hồng Hà đã gửi công văn số 71/CV-HH.11 đến Viện Khoa học hình sự (Bộ Công an) đề nghị được giám định chữ viết trong 2 văn bản (Đơn xin mua nhà, Giấy thỏa thuận mua và bán nhà ngày 18/12/1990). Kết quả giám định kết luận có nhiều nét chữ khác nhau trong hai văn bản đó và khác dạng với chữ viết phần nội dung.
Như vậy, việc nghi ngờ những chữ viết được viết vào sau khi thỏa thuận của bà Hường và bên mua được xác lập, là điểm rất cần được các cơ quan có thẩm quyền xem xét lại nhằm đảm bảo tính công bằng, khách quan của vụ án. Đồng thời, cần kiểm tra, giải quyết việc ông Nguyễn Thế Toại, Phó Trưởng ban Tư pháp (UBND thành phố Huế) tiến hành chứng thực cấp bản sao Giấy thỏa thuận mua và bán nhà (vào ngày 20/9/2001) và UBND phường An Đông cũng đã cấp giấy chứng thực 2 văn bản nói trên, khi mà 2 văn bản này có dấu hiệu thêm bớt nội dung, trái với nội dung quy định tại khoản 2 thuộc điều 12, mục 2 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về việc cấp bản sao từ bản gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Cụ thể là trường hợp không được chứng thực bản sao từ bản chính khi bản chính đã bị tẩy xóa, sửa chữa, thêm, bớt hoặc đã bị hư hỏng, cũ nát không thể xác định rõ nội dung. Trả lời về vấn đề này, ông Nguyễn Tô Hoài, Chủ tịch UBND phường An Đông thừa nhận: “Với số lượng văn bản được yêu cầu chứng thực hằng ngày rất nhiều nên trong quá trình chứng thực cấp bản sao đã xảy ra nhiều sự sai sót”.
Với kết quả xác minh trên đây, rất mong các cơ quan chức năng tại thành phố Huế xem xét lại những việc làm tắc trách dẫn đến khiếu kiện; cũng như chú ý đến khía cạnh nhân văn trong quá trình giải quyết vụ việc, nhất là khi 3 người con của bà Hường đều chưa đủ tuổi trưởng thành, đang chịu hậu quả trực tiếp của một cuộc hôn nhân bất hợp pháp và thiếu vắng tình thương yêu, chăm sóc của người cha.
Báo cũng có bài Bắt 2 cán bộ xã tiếp tay cho “cò Hoa” lừa đảo. Bài báo phản ánh: Từ khoảng tháng 5-2010, Cơ quan CSĐT CA tỉnh Đắc Lắc đã bắt đầu nhận được đơn tố cáo của các hộ dân trên địa bàn tố cáo về việc bị bà Nguyễn Thị Hoa lừa đảo, chiếm đoạt tài sản.
Thủ đoạn của Hoa thường là môi giới cho các hộ dân làm thủ tục vay tiền Ngân hàng rồi lợi dụng sự thiếu hiểu biết của họ để tự ý vay thêm vào hợp đồng tín dụng hàng trăm triệu đồng. Tổng cộng đã có 55 hộ dân viết đơn tố cáo Nguyễn Thị Hoa với số tiền theo đơn tố cáo là 35 tỷ đồng. Ngày 25-10-2010, Cơ quan CAĐT CA tỉnh Đắk lắk đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Thị Hoa về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Từ tháng 6-2011, Cơ quan CSĐT CA tỉnh Đắk Lắk đã thực hiện lệnh bắt khẩn cấp đối với 4 cán bộ của Ngân hàng NN-PTNT Chi nhánh phường Tân Lợi (TP Buôn Ma Thuột) do liên quan đến đường dây lừa đảo của Nguyễn Thị Kim Hoa.
Liên quan đến vụ án trên, hôm nay 22/02, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về TTXH Công an tỉnh Đắk Lắk đã khởi tố, bắt tạm 2 đối tượng liên quan trong vụ án. Đó là Phan Văn Thịnh (SN 1963, nguyên Phó chủ tịch UBND xã Hòa Thắng – TP Buôn Ma Thuột) về hành vi Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng và Nguyễn Công An (SN 1962, nguyên cán bộ Tư pháp – Hộ tịch xã Hòa Thắng) về hành vi Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Cả hai đều trú ở thôn 9 – xã Hòa Thắng.
Trong quá trình “Cò Hoa” làm dịch vụ vay, đáo hạn tại phòng giao dịch Tân Lợi cho một số hộ dân thì Hoa có nhiều lần viết họ tên hoặc giả chữ ký của họ. Sau đó, Hoa có nhờ Nguyễn Công An chứng thực hồ sơ tài sản tại địa phương, mỗi hồ sơ Hoa chi cho An từ 200.000 – 300.000 đồng (chưa kể tiền lệ phí).
Có tiền “lót tay” nên An đã tham mưu cho Phan Văn Thịnh (Phó chủ tịch UBND xã) ký chứng thực nhiều hợp đồng thế chấp tài sản không đúng thủ tục của pháp luật, vào năm 2008 có 5 hợp đồng; năm 2009 có 8 hợp đồng. Trong đó 5 hợp đồng không có chữ kí của người yêu cầu chứng thực, 3 hồ sơ ký chứng thực khi chưa làm thủ tục xóa thế chấp tại phòng tài nguyên môi trường TP Buôn Ma Thuột. Ông Thịnh là lãnh đạo chứng nhận hợp đồng thế chấp tài sản phải chịu trách nhiệm về việc chứng thực những hợp đồng thế chấp trong việc Nguyễn Thị Hoa vi phạm pháp luật.