I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Dân Việt có bài Bí thư Hải Phòng thông tin trái kết luận của Thủ tướng. Bài báo phản ánh: Dư luận Hải Phòng đang xôn xao về việc ông Nguyễn Văn Thành - Bí thư Thành ủy Hải Phòng thông tin trái với kết luận của Thủ tướng về vụ cưỡng chế đầm tôm của ông Đoàn Văn Vươn, tại CLB Bạch Đằng.
Bí thư Thành ủy Hải Phòng Nguyễn Văn Thành đã đến “nói chuyện thời sự” tại CLB Bạch Đằng (nơi sinh hoạt của các cán bộ trung cao cấp nghỉ hưu) sáng 17.2, nội dung chủ yếu là vụ cưỡng chế đầm tôm nhà ông Vươn. Theo ông Hoàng Châu (83 tuổi) - nguyên cán bộ tuyên giáo Thành ủy Hải Phòng, trong phát biểu, ông Thành chủ yếu nói ông Vươn sai.
Ngày 18.2, các cán bộ lão thành, người có công với cách mạng sinh hoạt trong CLB Bạch Đằng gồm ông Nguyễn Cục - đại tá quân đội về hưu (84 tuổi, 64 tuổi Đảng), ông Nguyễn Viết Phúc - nguyên Phó Bí thư Huyện ủy Kiến An (84 tuổi, 64 tuổi Đảng) và ông Lê Văn Thinh - đại tá quân đội về hưu (78 tuổi, 60 tuổi Đảng) đã có báo cáo - kiến nghị gửi Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, Thường trực Ban Bí thư, bày tỏ sự bất bình của các thành viên CLB đối với ông Nguyễn Văn Thành - Bí thư Thành ủy Hải Phòng trong việc thông tin trái với kết luận của Thủ tướng về việc cưỡng chế thu hồi đất tại huyện Tiên Lãng.
Bản báo cáo - kiến nghị viết: "Xung quanh vụ việc Tiên Lãng, chúng tôi đang chờ đợi, hy vọng sự kiểm điểm nghiêm túc của lãnh đạo thành phố. Nhưng không ngờ đồng chí Nguyễn Văn Thành không hề nêu sai sót nào của Thành ủy, chính quyền, các cơ quan liên quan TP.Hải Phòng. Đ
Đồng chí Thành có những điều trình bày trái với kết luận của Thủ tướng như: "Báo chí nói sai, ghép ảnh chỗ khác vào, chứ đâu có chuyện xe ủi nhà ông Vươn, không ca ngợi công an, bộ đội, có biểu hiện bôi nhọ; có cán bộ lão thành nói không chuẩn; ông Vươn xây nhà không trong quy hoạch - trốn nợ thuế - không có tý công tích gì, trong khi đó Tiên Lãng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho ông Vươn...”.
2. Trang VEF.VN có bài Khi dân cày có thêm... casino! Bài báo phản ánh: Các đề xuất đầu tư Casino luôn là một tổ hợp dịch vụ, giải trí hàng tỷ USD, tốn hàng trăn ha đất. Trong khi đó, hiệu quả từ các casino thử nghiệm và những dự án đầu tư mới đều chưa chứng minh được sự cần thiết của nó.
Các casino muốn đầu tư vào Việt Nam phải nằm trong một dự án tổng hợp lớn về du lịch, giải trí có trị giá ít nhất trên 1 tỷ USD. Thực tế, các đề xuất đầu tư Casino luôn là một tổ hợp dịch vụ, giải trí hàng tỷ USD, tốn hàng trăn ha đất. Trong khi đó, hiệu quả từ các casino thử nghiệm và những dự án đầu tư mới đều chưa chứng minh được sự cần thiết của nó.
Câu hỏi đặt ra là những dự án hàng tỷ USD của những ông chủ vốn đã quen kiếm lợi siêu lợi nhuận từ ngành kinh doanh ăn chơi, cờ bạc...liệu có chịu ngồi yên và chờ đợi trước thực tế vắng khách như hiện tại. Hay đằng sau "tấm bình phòng" tổ hợp dịch vụ đắng cấp quốc tế với tiêu điểm hấp dẫn là casino lại là những sân golf, bất động sản và có thể là cả những điều chúng ta chưa lường hết.
Casino đã bằng nhiều cách lên mọc lên ở nhiều địa phương, từ Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh đến Đà Nẵng Và nhiều dự án đã được chấp thuận đầu tư ở Lạng Sơn, Bà Rịa - Vũng Tàu, Phú Thọ...Đó đều là những dự án cực lớn và được kỳ vọng tạo ra những đổi thay cho kinh tế ở nhiều địa phương.
Tháng 12/2011, một tập đoàn "ăn chơi" lớn của Mỹ - Las Vegas Sands, đã lần đầu tiên xúc tiến kế hoạch đầu tư khu nghỉ dưỡng phức hợp tại đất nước này, với số vốn đầu tư có thể lên tới 6 tỷ USD. Địa điểm ban đầu dự kiến của tập đoàn này là tại Hà Nội và TP.HCM - hai thành phố có sức cầu lớn nhất và cũng là những khu vực có "hệ số tiêu hoang" cao nhất ở Việt Nam.
Như một "đồng thanh", vào đầu năm 2012, chính quyền tỉnh Quảng Ninh lại đưa ra một dự án đầy tham vọng: xây dựng khu liên hợp du lịch - casino với giá trị đầu tư lên đến 4 tỷ USD. Nếu được thành hình, đây sẽ là một dự án "vĩ đại" nữa, sau Casino Đồ Sơn. Trong khi việc xúc tiến đầu tư dự án này đang rầm rộ thì dưới góc độ khác lại đang dấy lên những lo ngại cho sự "trong lành" của Hạ Long. Dù sở hữu "kỳ quan thứ tám" của thế giới, nhưng bất chấp sự bức xúc cùng vô số phản ánh của dư luận khách du lịch, từ nhiều năm qua rác sinh hoạt, rác tiêu dùng vẫn tràn ngập ở Bãi Cháy và Hạ Long, những nơi mà nhiều du khách trong nước và ngoài nước không muốn quay lại một khi đã đặt chân đến.
"Kỳ quan thứ 8" - Hạ Long đang thực sự đối mặt với nhiều nguy cơ mất điểm khi vẻ đẹp tươi tắn, tự nhiên và trong sáng của nó bị mất đi. Có lẽ sẽ có nhiều điều cần phải làm, có nhiều thứ "rác" cần phải dọn để cho Hạ Long xứng đáng với tên gọi và vẻ đẹp thực có nó. Đó chắn hẳn là điều quyết định để hấp dẫn và thu hút du khách một cách bền vững hay. Còn casino có phải là một tiêu điểm để hấp dẫn du khách, có phải là một điều cần thiết bên cạnh những giá trị đã được khẳng định và cần được bảo vệ của Hạ Long. Đặc biệt là khi những hiệu quả của nó chưa được chứng minh. Hơn thế, trên thế giới lại có rất nhiều câu trả lời bằng thực tế phồn thịch nhờ du lịch văn hóa, di sản mà không có bóng sang casino
Vào năm 2009, khi số lượng sân golf do các địa phương trình lên Chính phủ tăng vọt lên đến 156 dự án, thì một nửa trong số đó đã chiếm hết khoảng 8.000 ha đất nông nghiệp. Biểu đồ đi lên của sân golf và biểu đồ đi xuống của diện tích đất nông nghiệp là một nghịch lý không thể lý giải ở Việt Nam, dù tất cả những người nông dân phải chịu cảnh mất đất để phục vụ cho thói quen ăn chơi của giới thượng lưu, và hơn ai hết là giới chủ đầu tư kinh doanh sân golf và casino, đều hiểu ra cái nghịch lý phũ phàng ấy. Song thời gian cứ trôi qua, cùng sự xuất hiện của hết dự án sân golf này đến dự án sân golf khác.
Vào cuối năm 2009, trước làn sóng phản đối mạnh mẽ của dư luận, bao gồm các nhà khoa học và báo chí về những "thói hư tật xấu" của sân golf như gây ảnh hưởng đến môi sinh, môi trường và "ăn" cả đất nông nghiệp, cộng với thực tế chỉ có một tỷ lệ nhỏ nhoi dự án kinh doanh sân golf có lãi, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phải cắt giảm đến 76 dự án do chính quyền các địa phương trình đề nghị bổ sung cho quy hoạch sân golf đến năm 2020. Đến lúc đó, số lượng dự án sân golf là 90.
Cho tới năm 2011, một hệ quả đã được các nhà khoa học và giới phân tích dự đoán đã xảy đến với 90 dự án sân golf trên. Một cuộc kiểm tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã kết luận có đến 69 dự án (chiếm tỷ lệ khoảng 70% số dự án) nghiêng về kinh doanh bất động sản thay vì mục tiêu ban đầu là kinh doanh sân golf.
Nguồn cơn của trào lưu sân golf đã hiện ra: chủ đầu tư lấy đất nông nghiệp của nông dân, phù phép chuyển quyền sử dụng đất thành đất phục vụ sân golf rồi từ đó biến thành đất xây biệt thự và các hạng mục dịch vụ du lịch. Trong thực tế, có dự án chỉ dành 30% diện tích để làm sân golf, còn 70% là bất động sản và những thứ liên quan đến bất động sản.
Trong khi hiện trạng hoạt động của 90 dự án sân golf vẫn không mấy thay đổi, và heeuyf hết không khả quan với kinh doanh golf một số địa phương vẫn tiếp tục đệ trình dự án sân golf lên Thủ tướng. Và trong đó, vẫn có đất nông nghiệp, đất lúa.
Đã không thiếu những minh họa sống động về nạn lạm phát sân golf, đưa ra những minh họa sống động về một xã ở Lâm Đồng phải "cõng" đến 3 sân golf, trong khi bà con nông dân người dân tộc thiểu số vẫn còn trong diện đói nghèo. Với những người nông dân này, kế sách mưu sinh của họ thật giống như mành chỉ treo chuông một khi phần đất đai ít ỏi của họ bị sân golf "nuốt" mất. Không đất đai, không có nghề nghiệp gì khác, họ sẽ sinh sống thế nào đây trong những năm tháng tới?
Cũng như thời xúc tiến đầu tư xây dựng sân golf, hiện cũng đã xuất hiện những ý kiến tô điểm cho "ích nước" của casino. Với nhiều chính quyền địa phương, casino là một "cứu cánh" cho du lịch bản địa. Và điểm trùng khớp là hầu hết các dự án đầu tư casino đều mô tả triển vọng sáng lạn về giải quyết công ăn việc làm cho người dân địa phương và nguồn thu nhập sẽ dồi dào hơn.
Xem ra, những lý do trên có vẻ khá "hợp lý" đối với nhiều địa phương nhiều năm qua đã không có cách nào đột phá để khai thác tiềm năng du lịch sẵn có của mình một cách hiệu quả và lại phải tính đến nước có casino?
3. Báo Quân đội nhân dân có bài Xích lại gần nhau. Bài báo phản ánh: Chẳng cần phải đợi đến khi đoàn thanh tra của Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VH-TT-DL) chính thức công bố kết quả thanh tra bản hợp đồng bản quyền truyền hình giữa VFF với AVG, chỉ cần đọc bản ý kiến của Bộ Tư pháp gửi Bộ VH-TT-DL, trong đó khẳng định bản hợp đồng này “không trái pháp luật”, cũng như ý kiến của ông Phạm Nhật Vũ, Chủ tịch của AVG, rằng kết quả thanh tra này “rất ổn”, là đã có thể đoán được chiều hướng cơ bản của kết quả thanh tra, theo đó phần bất lợi thuộc về VPF. Thế nhưng VPF bất lợi sau khi có kết quả thanh tra trong “cuộc chiến” về bản quyền truyền hình với AVG và VFF không có nghĩa là họ “tâm phục khẩu phục” và cuộc tranh cãi “Tom và Jerry” đến đây là kết thúc.
Bằng chứng là ngay sau khi có cuộc họp báo của Bộ VH-TT-DL thông báo kết quả thanh tra, bầu Kiên, Phó chủ tịch của VPF đã tổ chức ngay một cuộc gặp mặt báo chí, trong đó thông báo VPF sẽ kiến nghị lên các cơ quan chức năng về tính hợp pháp của hợp đồng bản quyền truyền hình giữa VFF với AVG. Có thể đoán định trước được động thái này của VPF với đại diện là bầu Kiên, bởi từ rất lâu trước đây, có lẽ để phòng xa, bầu Kiên đã “rào trước” rằng Thanh tra của Bộ VH-TT-DL cũng không có quyền phán quyết rằng hợp đồng giữa VFF với AVG có giá trị hợp pháp hay không, mà chủ thể được quyền quyết định chuyện này chỉ có thể là tòa án!
Vấn đề nằm ở chỗ, Việt Nam chưa có một tòa án thể thao để giải quyết những tranh chấp kiểu như thế này, trong khi lãnh đạo VPF cũng khẳng định rằng, không muốn đưa vụ tranh chấp này ra tòa án thể thao quốc tế (CAS).
Việc bầu Kiên tiếp tục đưa vấn đề tranh chấp lên các cấp cao hơn phải chăng là những cố gắng nhằm giải quyết triệt để đối với một vấn đề liên quan đến pháp lý, khi mà ông Kiên cùng các đồng sự chưa “tâm phục khẩu phục” đối với phán quyết của thanh tra Bộ VH-TT-DL. Tuy nhiên, đã xuất hiện thông tin phía AVG liên hệ với bầu Kiên để hai bên cùng nhau bàn bạc nhằm tháo gỡ những khúc mắc xung quanh vấn đề hợp đồng bản quyền truyền hình.
Đây là lần đầu tiên trong suốt cả quá trình tranh chấp dằng dai, phía AVG chủ động đưa ra một đề nghị mang tính tháo gỡ bế tắc với VPF, một động thái mà người hâm mộ đã chờ đợi từ lâu, bởi nếu VPF vẫn tiếp tục kiến nghị lên các cấp cao hơn thì chưa biết vụ việc đến bao giờ mới kết thúc, trong khi bóng đá Việt Nam đang có cả một núi công việc cần phải giải quyết. Chưa thể biết được cuộc gặp giữa VPF với AVG sẽ bàn thảo những nội dung gì cũng như kết quả của nó có tháo gỡ được hoàn toàn những khúc mắc (đôi khi mang tính quá cực đoan) xung quanh vấn đề bản quyền truyền hình hay không, nhưng khi các bên đã có thể xích lại gần nhau thì hy vọng sẽ tìm được giải pháp có thể khả dĩ chấp nhận được với các bên. Ít nhất, nó cũng sẽ có lợi cho bóng đá Việt Nam.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Nạn nhân tố công chứng viên tiếp tay. Bài báo phản ánh: Báo Pháp Luật TP.HCM ngày 18-2 đưa tin Công an huyện Phú Giáo (Bình Dương) triệt phá băng tội phạm làm giả giấy tờ do Hồ Tấn Phong cầm đầu và đã khởi tố, bắt giam chín bị can về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Sau khi báo đưa tin, thêm nhiều nạn nhân tiếp tục tố cáo hành vi lừa đảo của băng nhóm trên, đồng thời cho biết một số công chứng viên có biểu hiện tiếp tay với băng tội phạm này. Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Giáo cho biết ngoài việc truy bắt các đồng phạm, sẽ làm rõ việc một số công chứng viên của Văn phòng công chứng Sở Sao, Văn phòng công chứng Hòa Lợi, Văn phòng công chứng Mỹ Phước 3… đã công chứng hồ sơ chuyển nhượng đất bất hợp pháp.
Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương vừa yêu cầu công chứng viên Phan Ngọc Sa (Trưởng văn phòng công chứng Bình Dương) có văn bản giải trình việc khiếu nại của bà Nguyễn Thị Tuyết Hồng (ngụ xã An Tây, Bến Cát, Bình Dương). Ngày 18-2, bà Hồng gửi đơn tới Công an tỉnh Bình Dương khiếu nại ông Sa công chứng hồ sơ giả cho các đối tượng lừa đảo.
Đồng thời, bà Hồng cung cấp toàn bộ giấy tờ giả gồm giấy CMND, giấy đăng ký kết hôn, sổ hộ khẩu, đơn xác nhận tình trạng bất động sản. Trong đó có những lỗi sai cơ bản như số CMND của chủ đất là ông Lê Văn Đức, Nguyễn Thị Thái (Bến Cát) bị sai; trong giấy đăng ký kết hôn, nơi đăng ký là xã Bình Chuẩn (Thuận An) nhưng đối tượng làm giả ghi là xã Lai Hưng (Bến Cát); … Bà Hồng cho biết tại phòng công chứng, ông Sa đã không khiểm tra kỹ các giấy tờ trên, không hỏi bên B đã tìm hiểu nguồn gốc lô đất chuyển nhượng chưa. Sau khi bà Hồng khiếu nại, Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương cử cán bộ làm việc trực tiếp, ông Sa thừa nhận: “Sai sót của công chứng viên là kiểm tra và đối chiếu nội dung của bản chính và bản sao không kỹ”.
Báo cũng có bài Mua xe máy tang vật: Khó đăng ký, sang tên. Bài báo phản ánh: Hiện nay, rất nhiều xe máy tòa tuyên tịch thu sung công trong án hình sự dù chất lượng còn tốt nhưng vẫn phải đối mặt với nguy cơ bị bán làm phế liệu. Nguyên nhân xuất phát từ việc người mua trúng đấu giá xe rất khó đăng ký, sang tên...
Tháng 3-2011, Chi cục Thi hành án (THA) dân sự quận 1 (TP.HCM) ra quyết định THA một chiếc xe máy là tang vật tịch thu được trong một vụ án hình sự để sung công. Theo đó, Chi cục đã chuyển chiếc xe sang UBND quận 1 để bán đấu giá. Trước khi bán, Chi cục cũng đã trưng cầu giám định đối với chiếc xe để biết được số khung, số máy.
Sau khi mua trúng đấu giá chiếc xe trên, anh Q. đã đến Phòng CSGT Công an TP.HCM để làm thủ tục đăng ký, sang tên chiếc xe cho mình. Sau khi nộp hồ sơ, anh K. nhận được hướng dẫn của cán bộ tiếp nhận là muốn đăng ký đối với trường hợp của anh thì trong hồ sơ phải có quyết định tịch thu sung công hoặc quyết định xử lý vật chứng. Trong quyết định đó phải ghi rõ đặc điểm của xe như nhãn hiệu, loại xe, số khung, số máy… Anh K. rất bức xúc, cho rằng mình mua xe hợp pháp do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bán nhưng lại không được đăng ký, sang tên là hoàn toàn vô lý.
Trong trường hợp trên, cán bộ tiếp nhận hồ sơ đăng ký xe đã thực hiện đúng theo quy định tại Thông tư số 36 ngày 12-10-2010 của Bộ Công an. Cụ thể, khoản 15 Điều 21 Chương III Thông tư 36 quy định: Việc đăng ký xe tịch thu sung quỹ nhà nước, không phải có hồ sơ gốc nhưng phải có quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước hoặc quyết định xử lý vật chứng là xe tịch thu (bản chính cấp cho từng xe). Trong đó phải ghi rõ đặc điểm của xe như nhãn hiệu, loại xe, số loại, số khung, số máy của xe, nếu không ghi đầy đủ thì không tiếp nhận đăng ký.
Theo một chấp hành viên Cục THA dân sự TP.HCM, việc thực thi đúng theo quy định của Thông tư 36 là rất khó. Thứ nhất, trong bản án của tòa không ghi rõ những đặc điểm của xe tịch thu thì cơ quan THA không thể tự ý thêm vào. Cho dù cơ quan THA làm công văn hỏi tòa thì tòa cũng không thể giải quyết được. Bởi lẽ nội dung tuyên bố tịch thu sung công của tòa cũng phải dựa vào kết quả giám định. Mà phòng Kỹ thuật Hình sự của cơ quan công an cũng chỉ kết luận về số khung, số máy của chiếc xe trước và sau giám định chứ không hề có chức năng giám định nhãn hiệu, loại xe.
Riêng yêu cầu bản chính cấp cho từng xe như Thông tư 36, chấp hành viên này cho rằng đây cũng là một đòi hỏi vô lý. Theo quy định tại Điều 124 Luật THA dân sự thì khi chuyển giao vật chứng, tài sản tạm giữ phải kèm theo quyết định THA, bản án, quyết định hoặc bản sao bản án, quyết định do cơ quan THA dân sự sao y bản chính. Vì vậy, cơ quan THA sẽ chịu trách nhiệm đối với bản sao y của mình, sao cứ bắt buộc phải có bản chính? Bên cạnh đó, kết luận giám định của cơ quan chức năng chỉ giao cho cơ quan THA có một bản nên cơ quan THA không thể bàn giao bản chính duy nhất đó được.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Phối hợp trong công tác THADS: “Lỗi” một nhịp, chậm cả năm. Bài báo phản ánh: Không ít vụ án phải đưa ra cưỡng chế, tất cả các phương án đã chuẩn bị xong, lực lượng phối hợp đã sẵn sàng thì vào phút 89 có văn bản yêu cầu hoãn hoặc kháng nghị của Tòa án, Viện Kiểm sát. Theo quy định, THA vẫn phải dừng lại việc cưỡng chế. Điều đó đồng nghĩa với việc tốn công, tốn của không ít của nhà nước, của các bên đương sự.
Nhiều vụ án khác, theo quy định thời gian hoãn THA trong vòng 3 tháng, hết thời hạn trên mà không có kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì THA tiếp tục đưa vụ án ra thi hành. Tuy nhiên, thực tế khi đang tiếp tục đưa án ra thi hành, thì bất ngờ mới xuất hiện kháng nghị. Trong khi đó, suốt quá trình hoãn và cả sau đó, Tòa, Viện cũng không hề thông báo cho cơ quan THA là có kháng nghị hay không.
Nhiều trường hợp, THA đã tổ chức thi hành xong bản án, quyết định của Tòa án thì mới có có kháng nghị. “Những trường hợp này gây mất niềm tin của các cơ quan phối hợp, ảnh hưởng đến niềm tin trong dân và làm cơ quan THA gặp nhiều khó khăn, nhất là trong các vụ án phải cưỡng chế”, một chấp hành viên nhận xét.
Không dừng ở Viện, Tòa, ngành Công an nhiều khi cũng có lý do để …từ chối tham gia cưỡng chế. Phổ biến hơn là các ngành như Bảo hiểm, Kho bạc, Ngân hàng…khi thực hiện lệnh phong tỏa tài khoản hay tìm cách gây khó dễ. Cá biệt, nhiều ngành không liên quan gì đến THA nhưng cũng có những động tác can thiệp hết sức kỳ quái…
Theo Cục THADS Hà Nội, pháp luật hiện hành chưa có những quy định thống nhất, đồng bộ về cơ chế kiểm tra, giám sát, quản lý nguồn thu nhập, tài sản của người phải THA thông qua việc đăng ký, kê khai tài sản nên khó khăn cho cơ quan THA trong xác minh, phát hiện và kê biên tài sản của người phải THA. Nhiều trường hợp xác định trên thực tế đúng là tài sản của người phải THA nhưng trong các giao dịch trước đó các bên không làm thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định nên giấy tờ về quyền sở hữu, sử dụng tài sản vẫn mang tên người khác. Vì vậy chấp hành viên không thể tiến hành kê biên, xử lý tài sản .
Ngoài ra, Luật THADS cũng chưa quy định trách nhiệm của Tòa án khi ra quyết định THA và trách nhiệm của trại giam, Trại tạm giam nơi tiếp nhận hình phạt tù phải gửi quyết định và thông báo cho cơ quan THADS cùng cấp với Tòa án xét xử án sơ thẩm. Do vậy, cơ quan THA không thể biết nơi đang chấp hành hình phạt tù của người phải THA. Đối với trường hợp người phải THA không tự nguyện giao giấy tờ cũng vậy. Khi cơ quan THA đề nghị các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định hủy và cấp lại giấy tờ mới thay thế giấy tờ sở hữu mà không thu hồi được thì các cơ quan có thẩm quyền đăng ký không cấp. Lý do là pháp luật về đất đai quy định, việc thu hồi giấy chứng nhận đã cấp chỉ được thực hiện khi có bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực thi hành. Chính vì thế, cơ quan có thẩm quyền không thực hiện đề nghị của THA. Việc thu hồi, hoặc hủy giấy tờ sở hữu, sử dụng tài sản khó thực hiện.
Không thể liệt kê hết những khó khăn trên thực tiễn phối hợp của cơ quan THA. Thực tế nói trên xuất phát từ những quy định của pháp luật, hoặc thiếu, hoặc chưa đồng bộ hoặc bất cập so với yêu cầu của thực tiễn. Nhưng lý do quan trọng hơn xuất phát từ chính nhận thức của các cơ quan liên quan trong việc THA. Giải pháp mà hiện nay nhiều địa phương đã và đang thực hiện là phát huy cao độ vai trò của Ban Chỉ đạo THADS trong kết nối các thành viên, chỉ đạo THA; phát huy vai trò tham mưu của cơ quan THA đối với những vụ việc khó khăn, phức tạp. Bên cạnh đó, đối với những trường hợp không hợp tác với THA cần phải được xem xét, xử lý nghiêm, tránh để tình trạng “nhờn” luật trong chính các cơ quan thực thi pháp luật.