Điểm tin báo chí sáng ngày 31 tháng 01 năm 2012

31/01/2012
Trong buổi sáng ngày 31/01/2012, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I-           THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Nhân dân có bài Từ ngày 1-2, điều chỉnh giờ học ở 12 quận, huyện. Bài báo đưa tin: Sở Giáo dục - Ðào tạo vừa thông báo về việc thay đổi giờ học của các trường học trên địa bàn mười quận nội thành và hai huyện Từ Liêm, Thanh Trì. Việc thay đổi sẽ được thực hiện từ ngày 1-2.

Ðối tượng áp dụng điều chỉnh là cán bộ, công chức các cơ quan quản lý giáo dục và cán bộ giáo viên, học sinh các trường mầm non, tiểu học, THCS, THPT, các trường trung cấp và cao đẳng. Ðối với cán bộ công chức công tác ở Sở Giáo dục - Ðào tạo, các phòng giáo dục - đào tạo, làm việc từ 8 giờ đến 17 giờ. Cán bộ, giáo viên làm việc trong các trường học  làm việc theo giờ học của học sinh và phân công của lãnh đạo đơn vị. Học sinh các trường mầm non, tiểu học, THCS bắt đầu giờ học buổi sáng từ 8 giờ và kết thúc giờ học chiều vào 17 giờ. Các trường chủ động bố trí cán bộ, giáo viên, nhân viên để tiếp nhận học sinh từ 7giờ 30 phút sáng và quản lý học sinh đến 17 giờ 30 phút hằng ngày. Học sinh, sinh viên các trường THPT, trung cấp, cao đẳng bắt đầu giờ học buổi sáng từ trước 7 giờ; kết thúc giờ học buổi chiều sau 19 giờ.

 Ðối với các trường mầm non, tiểu học, THCS, các phòng giáo dục - đào tạo căn cứ điều kiện thực tế ở từng địa phương, báo cáo UBND quận, huyện có biện pháp chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát và chịu trách nhiệm về việc lên phương án, tổ chức thực hiện điều chỉnh giờ học tập tại các trường học trên địa bàn theo đúng quy định của thành phố. Ðối với các trường THPT, trung cấp và cao đẳng, nội dung đổi giờ học cần được thông báo cụ thể tới gia đình học sinh. Ðồng thời xây dựng kế hoạch làm việc, sắp xếp, điều chỉnh thời khóa biểu cho phù hợp để triển khai hiệu quả, đúng quy định của thành phố.

Ðể tránh việc thực hiện một cách cứng nhắc, Sở yêu cầu các đơn vị trong những ngày đầu thực hiện lịch học mới, nếu có học sinh đi muộn, các nhà trường cần tạo điều kiện để học sinh, sinh viên vào lớp. Nếu cha mẹ học sinh chưa kịp đến đón con em, các nhà trường cần có biện pháp quản lý học sinh.

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Chính phủ tổng kết thi hành Hiến pháp 1992. Bài báo đưa tin: Hôm nay (31-1), Chính phủ sẽ mở hội nghị về tổng kết thi hành Hiến pháp 1992 tại TP.HCM.

Hội nghị sẽ tập hợp các bình luận, phân tích về gần 20 năm thi hành Hiến pháp 1992 cũng như quá trình phát triển, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời gian qua. Đây sẽ là cơ sở quan trọng để giúp Chính phủ có những đề xuất về lý luận và thực tiễn cho việc sửa Hiến pháp thời gian tới.

Về phía các chuyên gia thuộc Ban Biên tập sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992, sau cuộc họp trước tết, các báo cáo, đề xuất về bản Hiến pháp sửa đổi đang được khẩn trương hoàn thiện. Một ủy viên Ban Biên tập cho biết đây sẽ là những báo cáo đầu tiên được Ban Biên tập hoàn thiện gửi Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992. Các phân tích, kiến nghị của giới chuyên gia sẽ là cơ sở để Ủy ban Dự thảo báo cáo Bộ Chính trị, sau đó Bộ Chính trị báo cáo Hội nghị Trung ương gần nhất để quyết định về những nội dung định hướng lớn cho sửa đổi Hiến pháp 1992.

Báo cũng có bài Tòa Tối cao phải là cơ quan tư pháp cao nhất. Bài báo phản ánh: Một nguyên tắc hiến định: Tòa án cơ quan tư pháp duy nhất có chức năng xét xử nên phải độc lập với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trong hệ thống chính trị. Đặc biệt, tòa không bị ràng buộc địa giới hành chính do cơ quan hành pháp quản lý. Mô hình tòa án khu vực tái khẳng định điều này.…

Hiến pháp năm 1946 quy định: Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm Tòa án Tối cao; Các tòa án phúc thẩm; Các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Mô hình, tên gọi các tòa trên vẫn còn nguyên giá trị, mang đậm tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền. Vì thế khi cải cách tổ chức, hoạt động ngành tòa án nên giữ tư tưởng uyên bác này của Người.

Trong cải cách tư pháp thì vấn đề cải cách tổ chức và hoạt động của tòa án theo tinh thần Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị là một vấn đề rất quan trọng, đặc biệt là ở Tòa án Tối cao. Trước tiên, phải xác định Tòa án Tối cao là cơ quan tư pháp cao nhất chứ không chỉ là cơ quan xét xử cao nhất. Đây là cơ quan thực thi quyền tư pháp mà không một cơ quan, tổ chức nào trong hệ thống chính trị có quyền này. Theo Nghị quyết 49, đây là tòa có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. So với chức năng, nhiệm vụ hiện hành thì TAND Tối cao sau khi cải cách sẽ không còn chức năng xét xử phúc thẩm, thêm nhiệm vụ “phát triển án lệ”.

Về tổ chức con người của Tòa án Tối cao sau khi cải cách có sự thay đổi lớn so với bộ máy hiện hành theo hướng tinh, gọn (không quá 20 người). Cơ quan này phải tập hợp không chỉ các thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành mà còn tập hợp các chuyên gia đầu ngành về các lĩnh vực pháp luật. Nếu Tòa án Tối cao không có đội ngũ chuyên gia đầu ngành thì không thể đảm đương được nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ như yêu cầu của Nghị quyết 49.

Cạnh đó, để thực hiện tốt vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Tòa án Tối cao theo tinh thần Nghị quyết số 49 thì vấn đề tổ chức lại các tòa chuyên trách thuộc TAND Tối cao và các đơn vị giúp việc là rất quan trọng. Hiện nay nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án hình sự do nhiều đơn vị đảm nhiệm: Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Hành chính, Tòa Lao động, Ban Thanh tra, Ban Thư ký, Viện Khoa học xét xử. Tuy nhiên, công tác giám đốc việc xét xử các vụ án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật và hướng dẫn tòa án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật đối với các vụ án cụ thể, chủ yếu do các tòa chuyên trách đảm nhiệm có sự phối hợp với các đơn vị liên quan. Vì thế, việc cải cách bộ máy của Tòa án Tối cao nói chung và các tòa chuyên trách Tòa án Tối cao nói riêng cần phải được xác định cụ thể, rõ ràng, không thể nêu chung chung.

Cùng với việc cải cách ở Tòa án Tối cao, các tòa án khác như tòa án sơ thẩm khu vực, tòa án trung cấp, tòa án cao cấp cũng phải được nghiên cứu thấu đáo theo hướng vừa bảo đảm việc xét xử vừa thuận tiện cho dân khi có việc phải đến tòa. Chẳng hạn tòa án trung cấp (có ý kiến cho là tòa án đệ nhị cấp), cần được tổ chức gọn nhẹ hơn tòa án cấp tỉnh hiện nay; không có Ủy ban Thẩm phán và các tòa như tòa án cấp tỉnh mà chỉ có các ban (Ban Hình sự, Ban Dân sự...). Còn tòa án cao cấp (tòa thượng thẩm) được tổ chức theo khu vực, chỉ có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm, không thuộc TAND Tối cao như hiện nay mà là một cấp tòa án.

II-         THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Quân đội nhân dân có bài Cần làm rõ sai phạm trong thi hành. Bài báo phản ánh: Tháng 1-2012, cựu chiến binh Trần Thái Tỉnh, người có hơn 10 năm quân ngũ, từng tham gia chiến đấu tại chiến trường B và làm nghĩa vụ quốc tế tại Cam-pu-chia đã đến Cơ quan thường trú Báo Quân đội nhân dân tại Đắc Lắc, phản ánh việc gia đình ông bị xâm phạm quyền lợi trong quá trình thi hành án.

Từ tháng 7-2008 đến tháng 5-2009, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc) ban hành các quyết định buộc gia đình ông Trần Thái Tỉnh và bà Nguyễn Thị Khuê, trú tại 104 Nguyễn Chí Thanh, phường Tân An, thành phố Buôn Ma Thuột phải trả các khoản nợ theo bản án và hợp đồng vay vốn với tổng số tiền là 1.687.050.000đồng. Hết thời gian tự nguyện thi hành án, gia đình ông Tỉnh không chấp hành, nên Chi cục Thi hành án dân sự Buôn Ma Thuột tiến hành các thủ tục kê biên, cưỡng chế.

Kết quả xác minh ngày 20-9-2008 của Chi cục Thi hành án dân sự Buôn Ma Thuột khẳng định: Hộ ông Tỉnh có nhà và đất tại 104 Nguyễn Chí Thanh. Tổng diện tích đất thực tế sử dụng 524,1m2. Trên thửa đất này, ông Tỉnh được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài (thửa số 9, Tờ bản đồ số 46), tổng diện tích 299,9m2, trong đó đất ở 141m2, đất nông nghiệp 158,9m2. Diện tích còn lại 224,2m2, nằm trong quy hoạch lộ giới đường Nguyễn Chí Thanh và các đường hẻm hông, hẻm phía sau thửa đất. Trên diện tích đất ở đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gia đình ông Tỉnh xây dựng nhà kiên cố (cấp III). Diện tích đất nằm trong quy hoạch lộ giới giao thông, từ năm 1986 đến 1998, ông Tỉnh xây dựng: Lò sấy, nhà tạm phía hông, nhà tạm phía sau, nhà làm quán bán hàng phía trước, tường rào xây gạch và lưới B40 và trồng cây bơ.

Ngày 8-4-2009, Thi hành án dân sự Buôn Ma Thuột tiến hành định giá tài sản đã kê biên của gia đình ông Tỉnh. Thửa đất diện tích 299,9m2 và toàn bộ tài sản trên đất của gia đình ông Tỉnh được định giá 2 tỷ đồng. Ngày 4-6-2009, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Đắc Lắc tổ chức bán đấu giá thành với số tiền 2 tỷ 20 triệu đồng. Thông báo số 3021/TB-THA, ngày 17-9-2009 của Chi cục Thi hành án dân sự Buôn Ma Thuột “Về việc nhận tiền và tài sản kê biên còn thừa” khẳng định: Việc bán đấu giá 299,9m2 đất và tài sản trên đất của ông Tỉnh với số tiền 2 tỷ 20 triệu đồng, sau khi trừ số tiền thi hành án 1.687.050.000đồng, ông Tỉnh còn nhận lại 332.950.000 đồng.

Vụ việc sẽ không dẫn đến sai phạm, nếu như sau đó Thi hành án dân sự Buôn Ma Thuột không tiến hành bán đấu giá tài sản và giải tỏa phần đất thuộc quy hoạch hành lang lộ giới của gia đình ông Tỉnh, khiến gia đình ông lâm vào tình cảnh không có nhà ở và quyền lợi hợp pháp bị xâm phạm. Mặc dù sau khi trừ tổng số tiền thi hành án, ông Tỉnh còn dư 332.950.000 đồng, nhưng ngày 27-11-2009, Chi cục Thi hành án dân sự Buôn Ma Thuột hợp đồng với Trung tâm thẩm định giá miền Nam tiến hành thẩm định tài sản trên phần đất thuộc quy hoạch hành lang lộ giới giao thông của hộ ông Tỉnh gồm: Lò sấy, nhà tạm phía hông, nhà tạm phía sau, nhà quán phía trước, tường rào xây gạch và lưới B40, cây bơ với tổng giá trị thẩm định là 49.598.000 đồng.

Sau đó, số tài sản trên được Trung tâm bán đấu giá tài sản tỉnh Đắc Lắc bán đấu giá với số tiền 51.600.000 đồng. Ngày 27-1-2010, Chi cục thi hành án dân sự Buôn Ma Thuột tiến hành cưỡng chế bàn giao tài sản cho người mua trúng đấu giá; đồng thời “bàn giao không” (không thu hồi, đền bù cho ông Tỉnh) toàn bộ 224,2m2 đất nằm trong quy hoạch lộ giới giao thông của hộ ông Tỉnh cho hộ ông Nguyễn Bá Huyên (người trúng đấu giá thửa đất 299,9m2) sử dụng. Cũng kể từ ngày 27-1-2010, gia đình ông Tỉnh phải đi thuê nhà ở và tiếp tục khiếu kiện đòi quyền lợi hợp pháp trên phần đất nằm trong quy hoạch lộ giới giao thông.

Tìm hiểu nguồn gốc thửa đất cho thấy, vào ngày 15-3-1986, hộ ông Tỉnh được Liên hiệp Xí nghiệp Cà phê Đắc Lắc cấp 500m2 đất ở. Sau khi sử dụng thửa đất này, ông Tỉnh khai phá thêm, mở rộng diện tích và có nhượng lại một phần đất cho hộ khác. Đến 23-1-2006, gia đình ông được UBND thành phố Buôn Ma Thuột cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 299,9m2, trong khi thực tế sử dụng là 524,1m2. Như vậy, trừ phần diện tích được cấp giấy chứng nhận, hộ ông Tỉnh còn 224,2m2 nằm trong quy hoạch lộ giới giao thông. Diện tích đất và những công trình nằm trong quy hoạch lộ giới giao thông, khi chưa tiến hành xây dựng đường giao thông thì gia đình ông Tỉnh vẫn được sử dụng hợp pháp (không có tranh chấp). Khi Nhà nước thu hồi, xây dựng đường giao thông phải đền bù cho gia đình ông theo quy định của Pháp luật. Thậm chí, trong trường hợp quy hoạch công trình giao thông bị hủy bỏ, thì gia đình ông Tỉnh còn có đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 224,2m2 theo quy định của Luật Đất đai. Việc Chi cục Thi hành án dân sự Buôn Ma Thuột đưa vào bán đấu giá tài sản trên đất thuộc quy hoạch lộ giới giao thông của gia đình ông Tỉnh, và thu không 224,2m2 đất của ông là không đúng thẩm quyền, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của hộ ông Tỉnh. 

Ngày 9-1-2012, trao đổi với chúng tôi, cựu chiến binh Trần Thái Tỉnh bức xúc: “Chi cục Thi hành án dân sự Buôn Ma Thuột lại ngang nhiên bán đấu giá cả tài sản trên phần đất thuộc quy hoạch lộ giới giao thông và thu không 224,2m2 đất giao cho hộ ông Nguyễn Bá Huyên sử dụng là không đúng quy định của pháp luật, cần phải làm rõ. Bởi việc làm này được thực hiện sau khi gia đình tôi đã thực hiện xong toàn bộ số tiền phải thi hành án, thậm chí còn thừa tới 332. 950.000 đồng, số tiền này đến nay Thi hành án dân sự Buôn Ma Thuột đang giữ”.

Rõ ràng, việc bán đấu giá, cưỡng chế thi hành án của Chi cục Thi hành án dân sự Buôn Ma Thuột đối với gia đình CCB Trần Thái Tỉnh còn có những sai phạm cần phải làm rõ và xử lý. Dư luận xã hội địa phương kiến nghị, sớm phục hồi quyền lợi gia đình CCB Trần Thái Tỉnh tại thửa đất 224,2m2, để giúp gia đình ông ổn định cuộc sống.

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Nguyên đơn rút đơn kiện, ai phải đóng án phí? Bài báo phản ánh: Trong quá trình hành nghề luật sư, tôi đã gặp những vụ tranh chấp dân sự làm tôi rất băn khoăn về khâu đóng án phí. Đó là trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải chịu án phí dân sự sơ thẩm khi vụ kiện bị đình chỉ do nguyên đơn rút đơn khởi kiện trong giai đoạn phúc thẩm. Họ phải nộp một khoản án phí dân sự sơ thẩm “từ trên trời rơi xuống” dù không được hưởng quyền lợi gì và cũng không thể kêu ca với ai vì đó là… quy định của pháp luật hiện hành?!

Chẳng hạn vụ ông NHA kiện người em trai là ông NVB ra tòa để đòi chia di sản thừa kế là nhà đất mà cha mẹ để lại. Thụ lý, tòa sơ thẩm xác định trong vụ án có ba người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ba anh chị em khác của hai bên nguyên, bị đơn).

Sau đó, tòa sơ thẩm mở phiên xử, tuyên chấp nhận yêu cầu của ông A., xác định nhà đất do ông B. đang quản lý, sử dụng là di sản thừa kế của cha mẹ hai ông để lại không có di chúc. Tòa chia đều khối di sản theo pháp luật. Theo đó, năm anh chị em nhà này mỗi người được hưởng một phần thừa kế trị giá 400 triệu đồng. Mỗi người phải nộp án phí là 20 triệu đồng (5% trên giá trị tài sản được chia).

Sau phiên sơ thẩm, cả ông A. lẫn ông B. đều kháng cáo. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, hai ông tự thỏa thuận với nhau (luật không buộc họ phải xin ý kiến của ba anh chị em còn lại) và ông A. đến tòa rút đơn khởi kiện. Trên cơ sở đó, tòa phúc thẩm đã ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ kiện. Đồng thời, tòa cũng buộc ông A., ông B. cùng ba anh chị em còn lại phải chịu án phí sơ thẩm...

Trong trường hợp này, ba anh chị em của ông A. và ông B. không được hưởng di sản tòa đã chia vì bản án sơ thẩm đã bị hủy. Họ hoàn toàn bị động, không được hỏi ý kiến gì về thỏa thuận rút đơn khởi kiện của nguyên đơn với bị đơn. Như vậy, việc bắt họ phải nộp án phí với số tiền 60 triệu đồng (ba người x 20 triệu đồng) liệu có bất công?

Trước hết, về mặt pháp luật hiện hành, việc tòa phúc thẩm bắt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp án phí sơ thẩm trong trường hợp trên là không sai. Bởi lẽ Điều 269 BLTTDS năm 2004 và khoản 6 Điều 30 Pháp lệnh Án phí, lệ phí tòa án năm 2009 đều quy định “các đương sự” phải nộp án phí. Mà đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (khoản 1 Điều 56 BLTTDS năm 2004).

Tuy nhiên, tôi cho rằng cần phải sửa đổi quy định này vì chưa hợp lý, chưa đảm bảo công bằng. Đúng ra trong trường hợp rút đơn khởi kiện ở giai đoạn xét xử phúc thẩm thì chỉ nên bắt nguyên đơn và bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Bởi lẽ vụ kiện phát sinh là do nguyên đơn khởi kiện, còn việc rút đơn trong giai đoạn phúc thẩm là theo yêu cầu của hai bên nguyên đơn và bị đơn.



File đính kèm