I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Dân trí đưa tin: Thủ tướng Chính phủ vừa có Chỉ thị 03/CT-TTg yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước tập trung chỉ đạo đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách đối với DNNN, tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho đổi mới tổ chức hoạt động, quản lý, sắp xếp, chuyển đổi sở hữu DNNN. Trong quý I/2012, các Bộ trình Thủ tướng Chính phủ hoặc ban hành theo thẩm quyền.
2. Báo điện tử Chính phủ có bài Tiếp tục đẩy mạnh cải cách TTHC, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi. Bào báo đưa tian: Theo báo cáo của Cục Kiểm soát thủ tục hành chính, Văn phòng Chính phủ, tính đến quý IV/2011, các bộ, ngành đã ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành để đơn giản hóa trên 3.000 thủ tục hành chính trên tổng số 4.751 thủ tục hành chính phải đơn giản hóa theo các Nghị quyết thực thi đơn giản hóa thủ tục hành chính của Chính phủ, đạt tỷ lệ 68%.
Nhiều bộ, ngành đã hoàn thành tốt việc thực thi đơn giản hóa thủ tục hành chính như: Bộ Khoa học và Công nghệ (96%), Bộ Giao thông vận tải (85%), Bộ Thông tin và Truyền thông (80%), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (76%), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (73%).
Hầu hết các bộ, ngành, địa phương đều quan tâm triển khai các nội dung của hoạt động kiểm soát thủ tục hành chính gồm: sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để nâng cao chất lượng các thủ tục hành chính mới; ban hành theo thẩm quyền quy chế phối hợp trong việc công bố, công khai thủ tục hành chính; quy chế phối hợp trong việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị; tổ chức hội nghị triển khai công tác kiểm soát thủ tục hành chính; ban hành văn bản cụ thể hóa các định mức chi phục vụ hoạt động kiểm soát thủ tục hành chính, cũng như kế hoạch kiểm soát thủ tục hành chính năm 2011 và kế hoạch truyền thông phục vụ kiểm soát thủ tục hành chính.
Trong năm 2011 vừa qua, các bộ, ngành đã thực hiện đánh giá tác động đối với 666 thủ tục hành chính quy định tại 130 dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó, Cục Kiếm soát thủ tục hành chính, Văn phòng Chính phủ đã nghiên cứu và tham gia ý kiến phản biện đối với các quy định thủ tục hành chính được quy định tại 77 dự án, dự thảo văn bản.
Các ý kiến phản biện của Cục Kiểm soát thủ tục hành chính, Văn phòng Chính phủ và Văn phòng các bộ, ngành, địa phương đã hỗ trợ các cơ quan chủ trì soạn thảo kịp thời phát hiện, chỉnh sửa nhiều bất cập về thủ tục hành chính trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, góp phần từng bước nâng cao chất lượng các quy định về thủ tục hành chính, đảm bảo duy trì và ban hành những thủ tục thật sự cần thiết, hợp lý, hợp pháp và có chi phí tuân thủ thấp nhất theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng.
Các bộ, ngành cũng đã công bố công khai 1.559 quy định về thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý; xử lý 284/512 phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính.
Về công bố, công khai và cập nhật, vận hành Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, cho đến tháng 12 năm 2011, Cục Kiểm soát thủ tục hành chính đã kiểm soát chất lượng của hàng nghìn hồ sơ thủ tục hành chính, hồ sơ văn bản có hiệu lực thi hành hoặc hết hiệu thi hành trên cơ sở dữ liệu. Tuy nhiên, để bảo đảm tính thời sự, pháp lý, chính xác của cơ sở dữ liệu phục vụ nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, tiếp tục đòi hỏi sự vào cuộc một cách chủ động, tích cực và trách nhiệm hơn nữa của các bộ, ngành và địa phương.
Cải cách thủ tục hành chính nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, giải phóng nguồn lực xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm điều kiện cho nền kinh tế của đất nước phát triển nhanh, bền vững tiếp tục là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ khóa XIII.
Kinh nghiệm thực tế triển khai Đề án 30 cho thấy, sau khi tất cả các giải pháp đơn giản hóa thủ tục hành chính được thông qua sẽ cắt giảm tối đa chi phí tuân thủ thủ tục hành chính mà xã hội phải gánh chịu, hàng chục nghìn tỷ đồng chi phí tiết kiệm được sẽ được tái phân bổ vào các hoạt động phục vụ việc đầu tư, tạo việc làm, qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, việc đơn giản hóa thủ tục hành chính sẽ góp phần nâng cao hình ảnh của Việt Nam nói chung và các bộ, ngành, địa phương nói riêng trước cộng đồng trong nước và quốc tế, nâng cao vị trí xếp hạng của Việt Nam về tính minh bạch, môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh.
Trong kế hoạch công tác năm 2012, Cục Kiểm soát thủ tục hành chính đề nghị các bộ, ngành sớm hoàn thành việc thực thi các phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính quy định tại 25 nghị quyết của Chính phủ; nghiên cứu xử lý các khó khăn, vướng mắc của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính; đưa kết quả cải cách vào thực tiễn đời sống tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
Cục cũng đề nghị các cơ quan, đơn vị thực hiện nghiêm túc, có chất lượng hoạt động kiểm soát thủ tục hành chính, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm; gắn thi đua, khen thưởng với kết quả thực hiện kiểm soát thủ tục hành chính, không khen thưởng, bổ nhiệm đối với cá nhân, tổ chức thực hiện kiểm soát thủ tục một cách hình thức.
Đồng thời, kiểm soát chặt chẽ các thủ tục hành chính thuộc phạm vi thẩm quyền quản lý từ khâu dự thảo đến việc thực thi; thực hiện nghiêm túc việc đánh giá tác động đối với dự thảo văn bản quy định về thủ tục hành chính; kịp thời công bố công khai và cập nhật thủ tục hành chính vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Vụ án Nông trường Sông Hậu: Đình chỉ điều tra đối với bà Ba Sương. Bài báo đưa tin: Liên quan đến vụ án lập quỹ trái phép xảy ra tại Nông trường Sông Hậu, 9 giờ sáng nay, 19-1-2012, VKSND TP Cần Thơ đã triệu tập bà Trần Ngọc Sương – nguyên Giám đốc Nông trường Sông Hậu đến làm việc.
Tại buổi làm việc, đại diện VKSND TP Cần Thơ đã trao cho bà Trần Ngọc Sương quyết định đình chỉ điều tra đối với bà Trần Ngọc Sương (Quyết định số 56/QĐ/KSĐT do ông Hồ Thanh Long, Viện trưởng VKSND TP Cần Thơ ký ngày 17-1-2012).
Cũng trong sáng 19-1, sau khi làm việc và trao quyết định đình chỉ điều tra cho bà Trần Ngọc Sương, khoảng 9 giờ 35 phút thì các thuộc cấp của bà Trần Ngọc Sương gồm: nguyên phó giám đốc Trương Hồng Nhung, nguyên kế toán trưởng Đặng Thế Quốc Hưng, nguyên thủ quỹ Nguyễn Văn Sơn và nguyên kế toán Hoàng Thị Bình đã được VKSND TP Cần Thơ triệu tập và được trao quyết định đình chỉ điều tra.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Người đưa tin có bài Cần bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa. Bài báo phản ánh: Theo quy định tại khoản 2 và khoản 4 điều 27 Luật luật sư năm 2006: Luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận quyền bào chữa, giấy chứng nhận người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự hoặc giấy chứng nhận người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính gọi chung là giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư).
Giấy chứng nhận tham gia tố tụng của Luật sư có giá trị trong các giai đoạn tố tụng, trừ trường hợp bị thu hồi, Luật sư bị thay đổi hoặc không được tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Điều này quy định về hoạt động tham gia tố tụng nhằm tạo điều kiện cho luật sư khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên trong hoạt động thực tiễn, viện kiểm sát và toà án vẫn không áp dụng điều 27 Luật luật sư, vẫn buộc luật sư phải cung cấp các thủ tục xin cấp giấy chứng nhận bào chữa cho từng giai đoạn tố tụng.
Theo hướng dẫn tại mục 1 - Phần II - Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao, thì trường hợp trong các giai đoạn tố tụng trước đó, bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ đã có nhờ người bào chữa và nay vẫn tiếp tục nhờ người đó bào chữa thì cần phải xem xét người đó có quan hệ thân thích với người nào (thẩm phán, hội thẩm, thư ký toà án) được phân công tiến hành tố tụng trong vụ án hay không.
Nếu có quan hệ thân thích với người nào đó được phân công tiến hành tố tụng trong vụ án,thì cần phân công người khác không có quan hệ thân thích với người được nhờ bào chữa thay thế tiến hành tố tụng và cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho người được nhờ bào chữa đó.
Cho đến nay thì hầu như Toà án các địa phương vẫn áp dụng Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP. Điều này cho thấy việc áp dụng pháp luật không thống nhất, thủ tục cấp giấy chứng nhận vẫn là “rào cản” đối với luật sư trong việc tham gia bào chữa cho bị cáo trong vụ án hình sự.
Về vấn đề này giới luật sư cho rằng: Việc quy định như vậy đã đặt luật sư vào một địa vị pháp lý luôn thấp hơn so với những người tiến hành tố tụng vì phải xuất trình những giấy tờ cần thiết chứng minh mình là luật sư được khách hàng yêu cầu, thì mới được các cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư.
Luật chưa đặt vị trí của luật sư là một yếu tố không thể thiếu được trong các quan hệ tố tụng, yêu cầu cải cách tư pháp và yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền để đảm bảo việc xét xử được khách quan, dân chủ, công bằng.
Nếu nhận thức vì lợi ích chung chứ không riêng gì lợi ích của khách hàng cụ thể thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải có nghĩa vụ phối hợp với luật sư. Vì vậy luật cần phải xác định lại địa vị pháp lý của luật sư trong quan hệ với những người tiến hành tố tụng để cùng có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế.
Thực tiễn áp dụng Luật luật sư trong 05 năm qua thấy rằng, các cơ quan tiến hành tố tụng điển hình là cơ quan điều tra thường xuyên vi phạm việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư.
Không bao giờ đúng thời hạn cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư là 03 ngày (theo quy định khoản 3 điều 27) chưa nói tới một số cá nhân các cơ quan tiến hành tố tụng còn đòi hỏi luật sư xuất trình thêm các giấy tờ ngoài quy định của Luật luật sư đó là xuất trình thêm chứng chỉ hành nghề luật sư, hợp đồng dịch vụ pháp lý của luật sư với khách hàng.
Tại sao lại có hiện tượng đó, bởi vì họ vẫn xuất phát từ tư duy là quyền lực đang nằm trong tay họ, thì họ có thể cho, có thể cấp và có thể không cấp chứ họ chưa ý thức được việc phối hợp với luật sư là nghĩa vụ, là trách nhiệm của hoạt động tố tụng, là đòi hỏi vủa việc cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền.
Vì đây không phải là quan hệ xin cho giữa cá nhân và cá nhân. Nếu điều đó vẫn còn tồn tại, ai là người thiệt thòi nhất trong các quan hệ pháp lý đó, chính là dân chịu, khách hành chịu, cộng đồng xã hội gánh.
Trong khi tuyên ngôn về chủ thể quyền lực của nhà nước ta đã khẳng định trong Hiến pháp 1992 tại điều 2 “Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của do dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân ....”. Vì vậy nhân dân mới là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.
Chính vì lẽ đó, các quy định của Luật luật sư và các quy định khác của pháp luật đều cần phải phù hợp và theo đúng tinh thần của Hiến pháp. Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm, bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình (theo Điều 132 Hiến pháp).
Quyền của luật sư tham gia vào các vụ án cần phải trở thành là một trong các yếu tố không thể thiếu được của các hoạt động tố tụng để đảm bảo về quyền lợi hợp pháp của công dân vì vậy cần phải loại bỏ tư duy xin cho cấp phép.
Vì vậy, chúng tôi hoàn toàn nhất trí với báo cáo, đề xuất của Tiểu ban Luật luật sư - Liên đoàn luật sư Việt Nam: Khi sửa đổi Luật luật sư và sửa đổi bộ luật tố tụng hình sự lần này nên theo hướng, luật sư chỉ cần xuất trình thẻ luật sư và giấy giới thiệu của tổ chức hành nghề về việc bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích cho khách hàng, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phối hợp với luật sư để luật sư thực hiện quyền bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế, phụng sự cộng đồng xã hội.
2. Báo Nhân dân có bài Một số vấn đề trong công tác quản lý nhà nước về thông tin trên in-tơ-nét. Bài báo phản ánh: Theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông, đến hết năm 2011, Việt Nam có hơn 30 triệu người sử dụng in-tơ-nét, tương đương tỷ lệ 35% dân số, và là một trong những quốc gia phát triển in-tơ-nét nhanh nhất trên thế giới. Cùng với đó, thông tin điện tử trên mạng bao gồm báo chí điện tử và truyền thông xã hội cũng có sự phát triển rất nhanh chóng.
Nhận thức được sự phát triển mạnh mẽ của nội dung thông tin trên in-tơ-nét với những đặc thù rất phức tạp về công nghệ kỹ thuật toàn cầu, trong những năm gần đây, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phối hợp cùng các bộ, ngành liên quan tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với thông tin trên in-tơ-nét. Tuy nhiên, trên thực tế in-tơ-nét đang thể hiện ngày càng rõ nét đặc trưng của một xã hội ảo, phản ánh ngày càng toàn diện các hoạt động của đời sống thật ở mức độ tự do hơn cho mỗi cá thể, phức tạp hơn cho công tác quản lý. Mặc dù vậy, bên cạnh sự vào cuộc quyết liệt của Bộ Thông tin và Truyền thông cùng với Bộ Công an, nhận thức về trách nhiệm và sự phối hợp của các bộ, ngành khác còn nhiều hạn chế.
In-tơ-nét là lĩnh vực đặc thù có sự phát triển nhanh, mạnh, gắn liền với sự phát triển của thế giới. Vì vậy, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quản lý lĩnh vực này cũng đòi hỏi phải được bổ sung, điều chỉnh thường xuyên cho phù hợp với sự phát triển và yêu cầu quản lý. Ðến nay hệ thống văn bản điều chỉnh các hoạt động liên quan đến việc cung cấp, sử dụng thông tin trên in-tơ-nét đã được bổ sung, hoàn thiện đáng kể. Tuy nhiên hệ thống các văn bản về quản lý nội dung thông tin điện tử trên in-tơ-nét vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu các quy định cụ thể để phân định rõ ràng, chính xác các hành vi vi phạm pháp luật. Việc xây dựng quy định, chính sách chưa theo kịp sự phát triển.
Vấn đề khó khăn trong việc áp dụng chính sách pháp luật là do tính chất không biên giới của in-tơ-nét. Một hành vi trên in-tơ-nét có thể vi phạm pháp luật của một nước, nhưng lại là được phép ở một quốc gia khác, vì vậy việc xử lý vi phạm, yêu cầu gỡ bỏ thông tin sai trái trên môi trường mạng cũng bị giới hạn, chỉ có tác dụng nhất định khi người vi phạm, hành vi vi phạm xảy ra ở quốc gia đó.
Hiện nay, việc xác định và xử lý công khai nội dung sai phạm vẫn do Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, chủ yếu dựa vào các quy định định tính, chưa cụ thể về hành vi sai phạm, của văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành có liên quan. Vì vậy, việc đưa ra quyết định của cơ quan chức năng hay bị cho là có tính áp đặt chủ quan, không khách quan. Nhiều trường hợp bị lợi dụng kích động, gây khó khăn cho việc tạo sự đồng thuận của dư luận xã hội; tạo ra áp lực lớn cho cơ quan chức năng, nhất là đối với những thông tin nhạy cảm về chính trị, đối ngoại... mà dư luận quốc tế đang quan tâm.
Vì vậy trong nhiều trường hợp, các đơn vị thực thi còn khó khăn khi quyết định hình thức xử lý, nhiều trường hợp không dám công khai biện pháp xử lý do có yếu tố nhạy cảm, nên chưa đề cao tính răn đe. Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý sai phạm tuy đã được tăng cường nhưng năng lực bộ máy thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm còn hạn chế, rất thiếu về số lượng thanh tra chuyên ngành; năng lực kỹ thuật xử lý, ngăn chặn thông tin sai phạm từ các máy chủ đặt tại nước ngoài còn nhiều bất cập. Chế tài xử lý chưa đủ mạnh, chưa đạt được hiệu quả răn đe cần thiết.
Trên thực tế, nguồn phát tán thông tin sai phạm chủ yếu là từ các máy chủ nước ngoài nhằm tránh sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, không điều chỉnh bằng các biện pháp hành chính được; trong khi các biện pháp ngăn chặn kỹ thuật mới chỉ tập trung đối với những thông tin sai phạm về an ninh chính trị, còn đối với những sai phạm thông tin khác chưa có điều kiện quan tâm đúng mức.
Do tính mở của công nghệ, tính hai mặt của thông tin trên in-tơ-nét và do nhu cầu tất yếu sử dụng dịch vụ và nội dung thông tin trên in-tơ-nét, các giải pháp quản lý phải hướng tới việc phát huy những mặt tích cực, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của in-tơ-nét; các biện pháp cấm đoán cực đoan bằng hành chính và kỹ thuật chỉ mang lại hiệu quả hạn chế. Vì vậy, chính sách quản lý phải là sự kết hợp đồng bộ nhiều nhóm giải pháp, bao gồm cả giải pháp hành chính, giải pháp kỹ thuật và giải pháp tuyên truyền giáo dục, trong đó tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của người sử dụng in-tơ-nét là giải pháp thường xuyên, liên tục, lâu dài và đóng vai trò chủ đạo để người dùng in-tơ-nét từng bước thích ứng một cách tích cực với môi trường mạng, biết sàng lọc thông tin xấu, tiếp nhận thông tin hữu ích. Bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm môi trường pháp lý rõ ràng, công khai, minh bạch và bình đẳng cho mọi đơn vị, cá nhân cung cấp và sử dụng thông tin in-tơ-nét trên lãnh thổ Việt Nam. Rà soát và sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả các văn bản hiện có phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Xây dựng các văn bản mới phù hợp với xu thế phát triển và yêu cầu công tác quản lý nhà nước. Nghiên cứu đề xuất, đàm phán các cơ chế phối hợp giữa các quốc gia trong việc quản lý các dịch vụ thông tin xuyên biên giới, phù hợp với các cam kết quốc tế và yêu cầu hội nhập. Cần phải tạo ra nhiều dịch vụ hấp dẫn, lành mạnh về thông tin và giải trí để thu hút người sử dụng trong nước, giảm thiểu tác động tiêu cực của thông tin xấu. Do môi trường pháp lý không bình đẳng về quản lý nội dung thông tin trên in-tơ-nét giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, dịch vụ in-tơ-nét của các doanh nghiệp Việt Nam không thu hút được người dùng Việt Nam như dịch vụ của các doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy, cần có cơ chế đặc thù khuyến khích phát triển một số dịch vụ in-tơ-nét quan trọng để thu hút người dùng Việt Nam; tập trung phát triển các dịch vụ quan trọng nhất như mạng xã hội, công cụ tìm kiếm và các dịch vụ giải trí trực tuyến.
Nâng cao năng lực bộ máy quản lý nhà nước về tổ chức bộ máy, về nguồn nhân lực, về cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao, hiện đại bảo đảm triển khai có hiệu quả các biện pháp quản lý về cả hành chính và kỹ thuật để kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm các sai phạm theo pháp luật.
Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng là nhóm giải pháp có ý nghĩa then chốt và lâu dài nhằm nâng cao dân trí một cách toàn diện, để mỗi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên có ý thức tự bảo vệ mình và trở thành bộ lọc thông tin, hướng dẫn những người chung quanh nhận biết, sàng lọc các thông tin xấu, thông tin độc hại. Nhóm giải pháp này đòi hỏi phải xây dựng một đề án thông tin riêng, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, đời sống, trình độ nhận thức và điều kiện thực tiễn của Việt Nam, bảo đảm tính đa dạng, hấp dẫn, đáp ứng đúng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương, phối hợp trách nhiệm giữa các cơ quan chức năng với các tổ chức, đoàn thể, giữa gia đình và nhà trường, giữa ý thức cá nhân với các phong trào mang tính cộng đồng hướng tới một văn hóa in-tơ-nét lành mạnh, đóng góp ngày càng tích cực và hiệu quả vào sự phát triển của toàn xã hội.