I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo điện tử Đài TNVN đưa tin: Từ ngày 1/1/2012, 06 Luật sẽ có hiệu lực thi hành là: Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Phòng, chống mua bán người; Luật Kiểm toán độc lập; Luật Viên chức; Luật Thuế bảo vệ môi trường và Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.
2. Báo VnExpress có bài Bộ Công Thương 'phản pháo' chuyện lỗ lãi xăng dầu. Bài báo phản ánh: Sau gần 2 tuần Bộ Tài chính công bố kết luận kiểm toán xăng dầu, Bộ Công Thương lên tiếng khẳng định "9 tháng đầu năm, kinh doanh xăng dầu lỗ hơn 2.000 tỷ đồng". Theo Bộ Công Thương, về tổng thể từ năm 2008 đến hết tháng 9/2011, không tính năm 2009, kinh doanh xăng dầu của Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) là lỗ.
Sản xuất kinh doanh của Petrolimex giai đoạn 2008 - 2011 vẫn nhiều khó khăn. Cụ thể, trong năm 2008, thực chất kinh doanh xăng dầu đã bị lỗ 11.945 tỷ đồng. Ngân sách Nhà nước bù lỗ các mặt hàng dầu khoảng hơn 10.700 tỷ đồng; Bộ Tài chính tạm ứng từ ngân sách tương ứng với số lỗ hoạt động kinh doanh xăng dầu luỹ kế đến 21/7/2008 là hơn 1.800 tỷ đồng. Sau khi được bù lỗ, hoạt động kinh doanh xăng dầu của Petrolimex được phản ánh qua số liệu kiểm toán là lãi 642 tỷ đồng.
Bộ Công Thương khẳng định, chỉ riêng năm 2009, kinh doanh xăng dầu lãi 2.660 tỷ đồng. Bước sang năm 2010 kinh doanh mặt hàng này lại lỗ 172 tỷ đồng.
Như vậy, về tổng thể từ năm 2008 đến hết tháng 9 năm 2011, kinh doanh xăng dầu của Petrolimex là lỗ (trừ năm 2009). Đặc biệt trong 9 tháng đầu năm nay, kinh doanh xăng dầu lỗ hơn 2.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, theo kết luận thanh tra do Bộ Tài chính công bố vừa qua, kinh doanh xăng dầu nội địa của 4 doanh nghiệp đầu mối giai đoạn từ 1/7 đến 26/8 về cơ bản không lỗ, thậm chí có lãi. Cơ quan này còn khẳng định nếu tuân thủ đầy đủ các quy định về chiết khẩu, lợi nhuận định mức, chi phí kinh doanh, đặc biệt là hoa hồng cho đại lý, doanh nghiệp đã có lãi. Bản kết luận này gần như trái với những gì mà doanh nghiệp xăng dầu cũng như Bộ Công Thương lâu nay vẫn kêu là giá thế giới biến động, xăng dầu luôn trong tình trạng lỗ lớn.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Công an Tây Ninh phá 4 vụ buôn người qua biên giới. Bài báo đưa tin: UBND tỉnh Tây Ninh cho biết, từ năm 2005-2010, các lực lượng chức năng xác minh 228 lượt tin về buôn bán phụ nữ, triệt phá 30 vụ, bắt 118 đối tượng, giải cứu và tái hòa nhập cộng đồng cho 196 nạn nhân.
Năm 2011, Công an Tây Ninh khám phá 4 vụ, bắt 19 đối tượng, giải cứu 14 nạn nhân, khởi tố 4 vụ với 10 bị can. Tới đây, Công an Tỉnh sẽ đẩy mạnh tích cực ngặn chặn nạn buôn bán người qua biên giới.
Qua khai thác, các đối tượng khai nhận đã bán hơn 50 phụ nữ ra nước ngoài. Thủ đoạn của bọn tội phạm tinh vi, xảo quyệt như đi tìm việc làm có thu nhập cao, môi giới lấy chồng nước ngoài, xuất khẩu lao động, cho - nhận con nuôi, thăm người thân...
Đặc biệt, thời gian gần đây, công an Tây Ninh phát hiện thêm các dịch vụ đẻ thuê, kết bạn, giả yêu để lừa bán học sinh trên mạng Internet.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử Chính phủ có bài “Chấm điểm” hiệu quả hoạt động pháp luật về kinh doanh của các Bộ. Bài báo đưa tin: Ngày 28/12, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp tổ chức công bố “Chỉ số hiệu quả hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật về kinh doanh của các Bộ năm 2011 - Ministerial Effectiveness Index-MEI 2011”.
Chỉ số MEI được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 2353/VPCP-PL ngày 18/4/2011 về thực hiện đánh giá thường niên hiệu quả hoạt động pháp luật về kinh doanh của các Bộ.
Tổng hợp kết quả đánh giá là cảm nhận của 207 Hiệp hội doanh nghiệp có các hội viên hoạt động trong 17/21 ngành nghề (4 ngành nghề còn lại không hẳn là kinh doanh thuần túy như hoạt động tổ chức quốc tế..) và dữ liệu về việc các Bộ lấy ý kiến cộng đồng doanh nghiệp thông qua VCCI.
MEI 2011 (đánh giá hoạt động năm 2010) cố gắng đưa ra bức tranh toàn cảnh về hiệu quả hoạt động pháp luật về kinh doanh của các Bộ: định lượng mức độ hiệu quả, các khía cạnh khác nhau của hoạt động xây dựng pháp luật, một cách hệ thống và công bằng nhất đối với 14 Bộ có liên quan chặt chẽ tới doanh nghiệp.
Thang điểm 100 với các lĩnh vực đánh giá được xếp loại chủ yếu theo các nhóm với các tên gọi mức độ khác nhau.
Kết quả cho thấy: Bộ đạt điểm thấp nhất là 51,37/100 điểm, Bộ đạt điểm cao nhất là 59, 01/100 điểm
Điểm trung bình của tất cả các Bộ là 54,53/100 điểm. Hai nhóm hoạt động các Bộ đạt điểm khá nhất là “Xây dựng dự thảo VBQPPL” và “Tổ chức thi hành pháp luật”.
Kết quả này cho thấy, theo đánh giá của các HHDN, đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp thì hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật của các Bộ đánh giá ghi nhận cố gắng của các Bộ trong việc thực hiện được vừa đủ các chức năng, nhiệm vụ của mình, nhưng họ chưa nhìn thấy ở các Bộ những nỗ lực cần thiết để thực hiện các công việc của mình một cách hiệu quả.
Các Bộ thuộc tốp đầu là Bộ Tư pháp, Bộ LĐTB&XH, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (là những Bộ tác động trực tiếp nhỏ với các doanh nghiệp, hoặc tác động chung). Các Bộ ở tốp cuối là Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải do hoạt động “va chạm” lợi ích trực tiếp với doanh nghiệp hoặc do tâm lý xã hội nên ít điểm hơn.
Đáng chú ý, chỉ số hoạt động “Cung cấp thông tin” tuyên truyền phổ biến pháp luật vốn được suy đoán là hoạt động “ăn điểm” của các Bộ do tính chất không đòi hỏi quá nhiều chuyên môn sâu, nhưng số điểm đánh giá lại chỉ đạt điểm trung bình 53,77%.
Chỉ số MEI 2011 cho thấy trong thời gian tới, để đáp ứng mong mỏi chính đáng của cộng đồng doanh nghiệp, góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước, cần rất nhiều nỗ lực cải cách, từ tất cả các Bộ ở tất cả các khía của hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật, những nỗ lực không chỉ trong việc hoàn thiện phương thức hoạt động, nâng cao năng lực chuyên môn pháp luật mà còn cả những chuyển biến cơ bản trong quan điểm của các Bộ, cụ thể là tăng cường quá trình công khai minh bạch, thật sự, thực hành dân chủ, phối hợp công tư.
MEI còn góp phần vào việc triển khai thực hiện Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị ngày 9/12/2011 về xây dựng và thực hiện cơ chế đối thoại, tham vấn ý kiến doanh nhân trong quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách pháp luật cũng như tăng cường giám sát, bảo đảm minh bạch trong quan hệ giữa các cơ quan nhà nước và doanh nhân.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Những kiểu “gian lận” trong đăng ký hộ tịch. Bài báo phản ánh: Theo quy định của Nghị định 158/CP về đăng ký và quản lý hộ tịch thì việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi đã được đăng ký, nhưng sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đã bị mất hoặc hư hỏng không sử dụng được, thì được đăng ký lại. Với quy định này, thực tế hiện nay rất nhiều người thực hiện việc đăng ký lại (nhất là với những người sinh ra những năm thập niên từ 80 trở về trước, đến nay hầu như không còn lưu sổ hộ tịch gốc tại cơ quan có thẩm quyền).
Trong khi đó, nếu muốn chủ đích đăng ký khai sinh lại, dù không mất giấy khai sinh bản gốc thì họ cũng dễ dàng đăng ký lại việc sinh vì không ai buộc họ phải chứng minh bản gốc giấy tờ đã mất. Điều này tạo ra một hệ quả là dữ liệu khai sinh lại có thể sẽ khác so với bản gốc. Như vậy, nếu như muốn gian lận tuổi, hoặc muốn khai lại các dữ liệu khác như họ, tên chữ đệm, dân tộc, quê quán… thì sẽ rất đơn giản.
Cũng về vấn đề này, quá trình thực hiện Nghị định 158, Sở Tư pháp Quảng Bình thừa nhận: Việc quy định UBND cấp huyện cấp lại Giấy khai sinh, đã làm phát sinh vấn đề là có nhiều trường hợp vừa mới đăng ký lại việc sinh ở UBND cấp xã nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên có trường hợp “lách luật” bằng cách khai báo đã làm mất giấy khai sinh để có lý do cấp lại.
Với những trường hợp này, theo Sở Tư pháp Quảng Bình sau khi được cấp lại bản chính Giấy khai sinh, thì đương nhiên cùng một lúc sẽ có 2 bản chính, một do xã cấp và 1 do huyện cấp. Do đó, Sở này đề nghị chuyển thẩm quyền cấp lại giấy khai sinh cho UBND cấp xã.
Ngoài ra, Nghị định 158 cũng chỉ mới quy định cho phép cấp lại bản chính Giấy khai sinh, chưa quy định cấp lại các giấy tờ hộ tịch khác. Vì vậy trong trường hợp bị mất hoặc bị hư hỏng không sử dụng được thì chỉ được sử dụng bản sao, không có căn cứ để cấp lại bản chính.
Theo Thông tư 01 hướng dẫn Nghị định 158 của Bộ Tư pháp thì trong trường hợp người đăng ký lại việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi xuất trình được bản sao giấy tờ hộ tịch đã cấp hợp lệ trước đây, thì không cần phải có xác nhận của UBND cấp xã, nơi đã đăng ký hộ tịch. Như vậy, UBND cấp xã nơi cư trú thực hiện việc đăng ký lại các sự kiện hộ tịch không thể biết được nơi đăng ký hộ tịch trước đây có còn lưu sổ gốc hay không và muốn biết thì phải xác minh. Điều này rất khó bởi vấn đề thời gian và kinh phí.
Cũng theo Thông tư 01 thì trong trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã không có căn cứ để xác định được đương sự đã đăng ký hộ tịch, thì Uỷ ban nhân dân cấp xã chỉ xác nhận về việc sổ đăng ký hộ tịch của năm đó không còn lưu trữ; trong trường hợp việc hộ tịch trước đây được đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, thì do Ủy ban nhân dân cấp huyện xác nhận. Xác nhận về việc sổ hộ tịch không còn lưu trữ được thay cho xác nhận đương sự đã đăng ký hộ tịch.
Tuy nhiên, Nghị định 158 lại không quy định đương sự phải xuất trình giấy tờ gì để chứng minh việc đã được đăng ký hộ tịch khi yêu cầu xác nhận Tờ khai đăng ký lại. Trường hợp UBND không có căn cứ để xác định được đương sự đã đăng ký hộ tịch mà vẫn xác nhận vào Tờ khai đăng ký lại và việc xác nhận này thay cho việc xác nhận đương sự đã đăng ký hộ tịch là chưa phù hợp.
Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật Dân sự và Nghị định 158, cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ, tên trong các trường hợp: theo yêu cầu của người có họ, tên mà việc sử dụng họ, tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó… Theo nhiều địa phương quy định này còn chung chung nên trong quá trình thực hiện còn nhiều cách hiểu khác nhau nên áp dụng không thống nhất