Trong buổi sáng ngày 02/3/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Đầu giờ sáng 1-3, hàng loạt xe máy đã bất ngờ bị ngã trong hầm đường bộ Kim Liên, chiều từ Kim Liên đi Đại Cồ Việt, khiến giao thông qua hầm bị ùn ứ trong giờ cao điểm. Theo phản ánh của nhiều người dân, các xe máy này khi lưu thông với tốc độ khá cao thì bỗng nhiên đổ xuống mà không có sự va chạm giữa các phương tiện.
Trao đổi với PV Báo SGGP về vấn đề này, đại diện Ban Quản lý dự án giao thông đô thị Hà Nội khẳng định, đường hầm thi công đúng kỹ thuật. Tai nạn xảy ra có thể do thời điểm đang có mưa phùn dẫn đến mặt đường hầm bị ẩm ướt, trong khi các phương tiện lưu thông qua hầm với tốc độ cao, nhiều chiếc xe có vỏ bị mòn, giảm ma sát nên dẫn đến trơn trượt.
Theo quan sát của PV Báo SGGP, hầm đường bộ này có độ dốc khá lớn, được phân làn gần 600m nên các phương tiện, nhất là xe máy, thường chạy với tốc độ cao, khoảng 60 - 70km/giờ. Thêm nữa, ánh sáng trong hầm đường bộ lại kém, độ ồn quá lớn gây mất an toàn cho các phương tiện lưu thông qua đây. Điều đáng nói là ở hai đầu hầm không có biển cảnh báo nào về tốc độ qua hầm.
2. Báo Tuổi trẻ phản ánh: “Chúng tôi đã hoàn thành việc rà soát, trình Chính phủ và Thủ tướng xem xét, quyết định phương án đơn giản hóa đối với 256 thủ tục hành chính ưu tiên” - TS Ngô Hải Phan (tổ phó thường trực tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ) cho biết như trên tại buổi giao ban với các bộ, ngành về giai đoạn rà soát của đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010 chiều 1-3.
Trước đó, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về việc rà soát ngay những thủ tục hành chính (TTHC) đang gây bức xúc cho người dân và doanh nghiệp, tổ công tác chuyên trách đã phối hợp với hội đồng tư vấn cải cảch TTHC xây dựng danh mục 256 TTHC ưu tiên rà soát nêu trên. Đây là những TTHC thuộc nhiều lĩnh vực như hải quan, thuế, giáo dục - đào tạo, y tế... Đơn cử như: lĩnh vực hải quan có thủ tục cấp thẻ ưu tiên hải quan cho doanh nghiệp, thủ tục cấp thẻ nhân viên đại lý hải quan...; lĩnh vực thuế có nhiều thủ tục liên quan đến việc hoàn thuế giá trị gia tăng, đăng ký thuế lần đầu đối với cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công, thu nhập từ đầu tư vốn...
Theo ông Ngô Hải Phan, tổ công tác chuyên trách đã thực hiện việc rà soát độc lập các TTHC và tổ chức 20 cuộc họp với các bộ ngành, doanh nghiệp có liên quan để tham vấn về phương án đơn giản hóa (được hiểu là việc xử lý 256 TTHC nêu trên theo hướng thuận lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp, trong đó có những thủ tục được dự kiến bãi bỏ) do tổ công tác đề xuất. “Chúng tôi cũng đã tính toán chi phí tuân thủ đối với những TTHC được rà soát ưu tiên và lợi ích mang lại đối với từng phương án đơn giản hóa. Nếu phương án đơn giản hóa 256 TTHC này được Chính phủ thông qua sẽ tiết kiệm cho người dân và doanh nghiệp số tiền 6.000 tỉ đồng/năm” - ông Phan nói.
Hiện nay đa số thành viên Chính phủ đã nhất trí với phương án đơn giản hóa TTHC do tổ công tác chuyên trách đề xuất. Đó là mới chỉ với 256 TTHC. Theo Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc (tổ trưởng tổ công tác chuyên trách): “Như vậy lợi ích tiềm năng của việc đơn giản hóa trên 5.400 TTHC còn lại lớn hơn rất nhiều, lên tới hàng chục ngàn tỉ đồng mỗi năm nếu chúng ta đưa ra được các phương án cải cách tích cực”. Ông Ngô Hải Phan khẳng định các phương án do tổ công tác chuyên trách đề xuất tuân thủ nguyên tắc: “Cắt giảm gánh nặng hành chính, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, đồng thời vẫn bảo đảm được mục tiêu quản lý của Nhà nước”.
Tại buổi làm việc, đại diện của các bộ ngành đã tham gia thảo luận về quá trình rà soát, đơn giản hóa các TTHC thuộc phạm vi quản lý của bộ ngành mình. Thông tin từ tổ công tác chuyên trách cho hay đến nay các đơn vị có kết quả đáng lưu ý là Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài nguyên - môi trường và Bộ Lao động - thương binh và xã hội. Theo ông Nguyễn Xuân Phúc, cũng có một số bộ ngành thực hiện việc đơn giản hóa TTHC còn “cầm chừng, hình thức” và việc này sẽ được ông báo cáo lên Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Tài chính là đơn vị có khối lượng TTHC được rà soát trong đợt này nhiều nhất, chiếm 1/3 tổng số TTHC được rà soát (86/256 TTHC rà soát ưu tiên) liên quan đến thuế, hải quan có phạm vi ảnh hưởng trực tiếp trên 300.000 doanh nghiệp. “Bộ Tài chính cũng là ngành có chất lượng rà soát tốt nhất, bảo đảm mục tiêu cắt giảm chi phí tuân thủ TTHC của Thủ tướng Chính phủ. Riêng đối với lĩnh vực tài chính, đề xuất đơn giản hóa nếu được chấp thuận có thể giúp cắt giảm 2.100 tỉ đồng mỗi năm chi phí tuân thủ TTHC đối với người dân và doanh nghiệp” - ông Ngô Hải Phan cho biết. Chánh văn phòng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi cho biết cụ thể: trong 86 TTHC rà soát ưu tiên của Bộ Tài chính có 43 thủ tục thuộc lĩnh vực hải quan, số còn lại thuộc lĩnh vực thuế. Đối với các thủ tục thuộc lĩnh vực hải quan, Bộ Tài chính đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ việc đơn giản hóa đạt 95%, còn đối với lĩnh vực thuế thì kiến nghị đơn giản hóa đạt 100%, nghĩa là tất cả thủ tục thuế đưa ra rà soát đều có điều chỉnh để giảm TTHC mà doanh nghiệp và người dân phải thực hiện. Ngoài ra Bộ Tài chính còn chủ động rà soát, đề xuất phương án đơn giản hóa 59 TTHC thuộc lĩnh vực kho bạc. “TTHC nào thuộc thẩm quyền của bộ mà chúng tôi đã rà soát được thì sẽ thực hiện đơn giản hóa luôn” - ông Nguyễn Đức Chi nói.
Đại diện các bộ ngành cho biết việc rà soát cũng như lên phương án đơn giản hóa các TTHC ưu tiên đã gặp một số phản ứng của những đơn vị liên quan đến các thủ tục này. Theo chánh văn phòng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Công, “việc cải cách TTHC ít nhiều đụng chạm đến quyền lợi của một nhóm người”, còn bà Đào Hồng Lan - chánh văn phòng Bộ LĐ-TB&XH - nói “phải không ngại va chạm thì mới thống kê và rà soát được như yêu cầu”. Thứ trưởng Bộ Thông tin - truyền thông Nguyễn Thành Hưng nhấn mạnh yêu cầu quan trọng thời gian tới là việc ban hành mới các TTHC phải vì lợi ích của người dân và doanh nghiệp, sao cho sau này không phải thực hiện động tác cắt giảm TTHC như hiện nay.
3. Báo Hà Nội mới phản ánh: Giữ nguyên lãi suất cơ bản 8%/năm từ ngày 1-3, nhưng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) lại cho phép các tổ chức tín dụng (TCTD) áp dụng lãi suất thỏa thuận với các khoản vay trung, dài hạn để sản xuất, kinh doanh (SXKD), dịch vụ và đầu tư phát triển (trước đây chỉ áp dụng cho các khoản vay tiêu dùng). Động thái này của NHNN nhằm khơi thông "dòng chảy" nguồn vốn, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, đây có thể cũng sẽ là một trong những nguyên nhân khiến lãi suất tăng "nóng" trong thời gian tới…
Theo các chuyên gia, việc NHNN cho phép các TCTD áp dụng lãi suất thỏa thuận với các khoản vay trung, dài hạn để SXKD, dịch vụ và đầu tư phát triển là biện pháp nhằm khơi thông dòng vốn và doanh nghiệp (DN) sẽ phải cân nhắc kỹ khi vay tiền của NH, lựa chọn những dự án thực sự khả thi. Ngoài ra, DN có thể tìm cách khác để huy động vốn thay vì đi vay như phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Tuy nhiên, trên thực tế, với mức lãi suất đã đạt sát mức trần theo quy định, các NH khó có thể hút vốn từ người gửi. Vì thế, NHNN nới lỏng nút thắt lãi suất cho vay là điều dễ hiểu. Khi được phép mở rộng lãi suất cho vay, TCTD có thể cải thiện tính thanh khoản, đồng thời kinh doanh có lãi. Các chuyên gia cũng khẳng định, thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận cũng là bước để giúp cho nền kinh tế tiến dần tới tự do hóa lãi suất, giúp dòng vốn được vận hành thuận lợi, phù hợp với thị trường.
Với lãi suất cơ bản 8%/năm, trước đây các NH chỉ được áp dụng lãi suất cho vay là 12%/năm dành cho khách hàng. Với những khoản cho vay tiêu dùng chủ yếu dành cho khách hàng cá nhân như cho vay tín chấp, vay mua nhà, ô tô… được áp dụng lãi suất thỏa thuận tùy thuộc vào cung - cầu của NH và đối tượng khách hàng vay. Trên thực tế, lãi suất thỏa thuận với loại hình cho vay này đã lên tới 17-18%/năm, thậm chí hơn 19%/năm. Còn với DN, với những khoản vay cho SXKD trước đây phải áp dụng lãi suất cơ bản, tức là lãi suất cho vay tối đa là 12%/năm, trong khi lãi suất huy động được NH đồng loạt đẩy lên 10,499%/năm (theo quy định của NHNN, lãi suất huy động không được vượt quá 10,5%/năm) trước nhu cầu vốn quá cao vào thời điểm cuối năm và đầu năm. Song hầu như chẳng có NH nào thực hiện đúng quy định này, bởi nếu thực hiện đúng, NH khó có thể duy trì hoạt động có lãi. Do vậy, NH tìm cách "lách" luật, hợp thức hóa khoản thu không đúng theo quy định. Thay vì chỉ yêu cầu DN ký vào bản hợp đồng vay vốn, NH đề nghị DN phải chấp thuận mức lãi suất cộng thêm tối thiểu là 3%/năm, nhưng không có trên hợp đồng, với lý do là chi phí dịch vụ. Như vậy, lãi suất cho vay lên tới 15-16%, thậm chí có nơi đẩy lên 17-18%/năm. Theo một DN chuyên nhập khẩu thiết bị công nghiệp, vì không chấp nhận lãi suất quá cao, lại không được ghi vào hợp đồng, DN đã tìm cách huy động tiền từ CBCNV. Một DN dệt may cũng cho biết đã phải "gõ cửa" nhiều NH để tìm nguồn vốn, nhưng hầu hết NH đều có những điều khoản rất ngặt nghèo, cộng với lãi suất rất cao.
Tuy nhiên, khi NHNN ban hành thông tư mở rộng đối tượng áp dụng lãi suất thỏa thuận cho các khoản vay trung, dài hạn cho SXKD… đồng nghĩa với việc các khoản vay này không còn phải chịu trần lãi suất cơ bản. Điều này cũng có nghĩa những khoản lãi suất không đúng quy định đã được hợp thức hóa và NH không còn phải tìm cách "lách" trần lãi suất cơ bản như trước. Không ít DN lo lắng, thời gian tới lãi suất cho vay sẽ tăng vọt. Nhiều chuyên gia nhận định, cuộc đua về lãi suất, kể cả huy động lẫn cho vay sẽ "nóng" trong những ngày tới. Với quyết định mở rộng đối tượng cho vay thỏa thuận của NHNN, có thể lãi suất huy động sẽ không chỉ dừng lại ở 10,499%/năm như đang áp dụng, mà sẽ lên cao và lãi suất cho vay chưa biết sẽ đạt mức đỉnh nào?! Lãi suất tăng cao khiến "đầu vào" của DN sản xuất bị đẩy lên, hàng hóa sẽ bị "đội giá"… Đây là nỗi lo chung của xã hội, mong ngành chức năng cần sớm vào cuộc để kiểm soát có hiệu quả giá các mặt hàng, không để diễn ra tình trạng lợi dụng tăng giá vô tội vạ.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử Vietnamnet có bài Chủ động nâng cao vị thế luật sư. Bài báo phản ánh: Làm việc với Liên đoàn Luật sư Việt Nam chiều nay (1/3), Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng lưu ý các luật sư cần khẳng định vai trò, vị trí của mình qua các hoạt động tư pháp, các diễn đàn liên quan đến pháp luật để tiếng nói của các thành viên Liên đoàn Luật sư Việt Nam luôn chính xác vì sự công tâm của pháp luật.
Phó Thủ tướng đánh giá cao những nỗ lực của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các luật sư đã vượt qua những khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó; đóng góp tích cực vào công cuộc bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân. "Trong thời gian qua, thông qua các hoạt động nghề nghiệp của mình, các luật sư đã góp phần vào những thành tựu chung của đất nước trong việc ổn định trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an ninh , chính trị và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước", Phó Thủ tướng đánh giá. Theo Phó Thủ tướng, các luật sư cần xác định tinh thần tự lực vươn lên, rèn luyện nâng cao trình độ và đạo đức nghề nghiệp - những yếu tố cơ bản để củng cố vai trò của mình trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, các luật sư cần khẳng định vai trò, vị trí của mình qua các hoạt động tư pháp, các diễn đàn liên quan đến pháp luật để tiếng nói của các thành viên Liên đoàn Luật sư Việt Nam luôn chính xác vì sự công tâm của pháp luật.
Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam Lê Thúc Anh khẳng định: Qua 9 tháng hoạt động kể từ ngày thành lập, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã cơ bản hoàn thiện cơ cấu bộ máy làm việc tại các tỉnh, thành phố và bước đầu đã đi vào hoạt động đảm bảo đúng định hướng của Đảng, Nhà nước và pháp luật trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các luật sư. Ông Lê Thúc Anh đề nghị Chính phủ có những chính sách hỗ trợ cho Liên đoàn phát triển vai trò của mình trong đời sống pháp luật xã hội, trước mắt là hỗ trợ nâng cấp cơ sở vật chất cho Liên đoàn và đoàn Luật sư các tỉnh, hỗ trợ tạo điều kiện cho công tác đào tạo, nâng cao chất lượng luật sư...
2. Báo Tiền phong có bài Có nên bỏ lãi suất cơ bản?. Bài báo phản ánh: Thời gian qua, cùng với việc gia tăng dư nợ tín dụng, nguy cơ lạm phát có thể phát sinh, vấn đề lãi suất cơ bản lại nóng lên. Có quan điểm cho rằng nên bỏ lãi suất cơ bản. Quan điểm khác lại khẳng định phải giữ. Dưới đây là ý kiến của một chuyên gia kinh tế về vấn đề này.
Có điều thật kỳ lạ là sau 11 năm Quốc hội ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước (năm 1997), lãi suất cơ bản mới được áp dụng thông qua Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16-5-2008 của Ngân hàng Nhà nước, trong đó đưa ra cách xác định mức trần lãi suất cho vay không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN quy định (nghĩa là với mức lãi suất cơ bản hiện nay đang là 8%/năm, ngân hàng thương mại không được cho vay với mức lãi suất vượt quá 12%/năm). Thực tế, từ khi ban hành Quyết định số 16 đến nay, việc điều chỉnh tăng hay giảm lãi suất cơ bản đã trở thành trung tâm chú ý của các thành phần kinh tế, là kim chỉ báo cho các hoạt động kinh tế trong giai đoạn tiếp theo. Thực sự khó giải thích khi lãi suất cơ bản là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong một giai đoạn nhất định lại không được thực hiện từ khi Luật Ngân hàng Nhà nước có hiệu lực. Khi nói về việc vi phạm pháp luật của dân, chúng ta hay dùng từ “dân trí”. Nếu áp dụng vào trường hợp này, dân trí trong việc hiểu luật và thực hiện đúng và đầy đủ luật của Ngân hàng Nhà nước chưa được ngang tầm với nhiệm vụ được giao.
Chính vì lẽ đó, khi nói đến sự tăng hay giảm lãi suất cơ bản, mọi người đều có sự quan tâm rất lớn và phỏng đoán tác động của việc điều chỉnh lãi suất cơ bản đối với quá trình lưu thông tiền tệ và trong sản xuất - kinh doanh của các thành phần kinh tế. Trong khi đó, sau gần 2 năm thực hiện, trong khi trình Luật Ngân hàng Nhà nước (sửa đổi), Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra đề nghị gây sốc, loại bỏ lãi suất cơ bản, cho vay theo lãi suất thỏa thuận.
Thời gian qua, cùng với Ngân hàng Nhà nước, một số chuyên gia cũng lập luận cần loại bỏ lãi suất cơ bản. Có thể họ cho rằng lãi suất cơ bản là tác nhân chính trong việc căng thẳng tín dụng thời gian qua. Họ muốn lãi suất chỉ tuân theo qui luật cung - cầu và “bàn tay vô hình” (một học thuyết kinh tế)…Thực tế những lý luận trên đã thực sự đúng hay chưa? Nhiều hay ít nước không quan trọng. Nếu Ngân hàng Nhà nước cho rằng trên thế giới chỉ còn 2 nước sử dụng lãi suất cơ bản để đề nghị xoá bỏ thì không có tính khoa học và thực tiễn.
Năm 1999, Việt Nam tiến hành thực hiện thuế giá trị gia tăng (VAT). Khi triển khai cũng có nhiều ý kiến cho rằng nhiều nước đã loại bỏ loại thuế này. Thực tế, sau 10 năm thực hiện, về cơ bản loại thuế này phù hợp với nền kinh tế Việt Nam. Do vậy lý do nhiều nước sử dụng hay ít nước sử dụng không quan trọng. Nếu lãi suất cơ bản = 0, lãi suất cơ bản không còn là cơ sở để Luật Dân sự và Luật Hình sự tham chiếu: Điều này hoàn toàn đúng trên lý thuyết. Khi lãi suất cơ bản = 0, sẽ không có cơ sở để xác định mức lãi suất đi vay và cho vay của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Không có cơ sở xác định vượt mức 150% lãi suất cơ bản là bao nhiêu, Việt Nam đang cần, rất cần thu hút đầu tư từ các nguồn, với tình hình tài chính - tiền tệ Việt Nam (lãi suất còn cao hơn nhiều nước, thiếu vốn). Vì thế, không thể có khả năng lãi suất cơ bản = 0, kể cả trong tương lai dài.
Lãi suất cơ bản nếu tồn tại chỉ áp dụng trong hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng: Ở đây có hai vấn đề cần giải thích rõ, Thứ nhất, việc ban hành và thực hiện lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước đã được qui định tại Luật Ngân hàng Nhà nước và Bộ luật Dân sự (được luật hóa). Trong mối tương quan giữa hai luật với nhau, Luật Ngân hàng Nhà nước là luật chuyên ngành, còn Bộ luật Dân sự điều chỉnh hầu hết các mối quan hệ xã hội. Do vậy, việc thực hiện Luật Ngân hàng Nhà nước cần phải phù hợp với Bộ luật Dân sự.
Thứ hai: Ngân hàng Nhà nước còn là thành viên Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước còn là tư lệnh của Chính phủ trên “mặt trận” tiền tệ. Do vậy, lãi suất cơ bản khi được Ngân hàng Nhà nước ban hành, có hiệu lực không chỉ với ngân hàng và tổ chức tín dụng, mà còn có hiệu lực với các thể nhân và pháp nhân tham gia hoạt động đi vay hoặc cho vay.
Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, có sự điều tiết của Nhà nước (có thể gọi đó là nền kinh tế hỗn hợp). Việc Nhà nước tham gia điều tiết thị trường tiền tệ là bình thường. Ngoài ra, là qui định hành chính, khi cần thiết, lãi suất cơ bản được ban hành (hoặc điều chỉnh) tại thời điểm nhất định nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô... Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn và chứa đựng nguy cơ xấu (thâm hụt ngân sách, nguy cơ lạm phát…), sự can thiệp của Nhà nước vào hệ thống tài chính - tiền tệ vẫn thực sự cần thiết và không thể thay thế. Với ý nghĩa đó, lãi suất cơ bản vẫn là yếu tố cần thiết như qui định trong luật Ngân hàng Nhà nước, không nên loại bỏ. Những ý kiến đòi loại bỏ lãi suất cơ bản trong hoạt động tài chính - tiền tệ phải chăng còn nóng vội, chưa hiểu hết những khó khăn của kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Lãi suất cơ bản: Khó thực hiện. Bài báo phản ánh: Lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố có hiệu lực ngày 1-3 là 8%/năm, như vậy trần lãi suất cho vay hiện nay của các ngân hàng tính theo Bộ luật Dân sự là 12%/năm. Tuy nhiên, hiện nay nhiều ngân hàng cho người dân vay vốn ngắn hạn, trung và dài hạn đến 15%-18%/năm. Thậm chí có công ty tài chính cho vay tiêu dùng với lãi áp dụng lên đến 25%/năm.
Chị NH nhà ở quận 8, TP.HCM cho biết cuối năm 2009, do có nhu cầu mua căn hộ chung cư để ở nên chị thế chấp nhà của cha mẹ cho một ngân hàng có điểm giao dịch ở đường Lý Thường Kiệt (Tân Bình) để vay tiền. Điều đáng nói là số tiền vay 100 triệu đồng, trả cả gốc lẫn lãi trong năm năm nhưng ngân hàng tính lãi 1,3%/tháng, tính ra chị phải chịu lãi là 15,6%/năm. Nghĩa là vay 100 triệu đồng, trung bình một năm chị H. phải trả tiền lãi là 15,6 triệu đồng. “Nhưng khoản lãi nói trên trong hợp đồng phía ngân hàng áp cũng không cố định. Ngân hàng cho biết cứ sau ba tháng sẽ có điều chỉnh, tăng giảm lãi vay tùy theo biến động của lãi suất thị trường” - chị H. cho biết.
Không chỉ có các hợp đồng vay vốn phải chịu lãi suất cao mà các trường hợp sử dụng dịch vụ thẻ cũng chịu mức lãi tính rất cao từ 15% đến 18%/năm. Trong hợp đồng sử dụng dịch vụ thẻ Visa do một ngân hàng có trụ sở trên đường Phan Đăng Lưu (quận Phú Nhuận) cấp cho khách hàng TM đầu năm 2010 áp dụng mức lãi 1,3%/tháng. Anh M. cho biết sử dụng thẻ Visa này tiện lợi vì khi đi nước ngoài có thể rút tiền được. Tuy nhiên, cách tính phí và lãi của loại thẻ này rất cao. Như trong bảng thông báo số tiền nợ do dùng thẻ Visa mà ngân hàng này gửi cho anh vào tháng 2-2010 đã ghi mức lãi ngân hàng tính cho các khoản rút tiền là 1,3%/tháng, mức lãi này so với tháng trước vượt hơn 0,05%.
Ở các ngân hàng cho vay ngắn hạn lãi 15%-18%/năm đã cao nhưng hiện nay nhiều công ty tài chính khi áp mức lãi cho vay tiêu dùng còn khủng khiếp hơn khi lãi tính khoảng 25%/năm. Mới đây, một công ty tài chính khi ra chương trình cho khách hàng vay tiêu dùng đã áp mức lãi này. Thực tế khi phóng viên vào vai một khách hàng muốn vay tiêu dùng trong dịp tết thì được nhân viên công ty tài chính này tư vấn nếu có thu nhập 7 triệu đồng/tháng thì được công ty cho vay 48 triệu đồng, được trả trong năm năm. Và lãi suất tính theo hai cách: Công ty sẽ tính lãi 1,3%/tháng trên tổng số tiền vay, còn nếu người vay trả lãi theo số dư nợ giảm dần thì lãi vay sẽ tính ở mức 2,3%/tháng.
Việc lãi suất cho vay của các ngân hàng, công ty tài chính đang áp dụng cao như nêu trên khởi nguồn từ các văn bản pháp luật của NHNN. Như trước đó NHNN đã có văn bản hướng dẫn các ngân hàng khi cho vay ngắn hạn, vay tiêu dùng, vay thông qua các hình thức phát hành thẻ... được áp dụng lãi suất thỏa thuận. Và mới nhất ngày 26-2, NHNN tiếp tục có Thông tư 07 cho phép các ngân hàng được áp mức lãi vay thỏa thuận khi cho vay trung và dài hạn. Nghĩa là hiện các ngân hàng, công ty tài chính cho khách hàng vay vốn với lãi suất từ 15% đến 18%/năm, thậm chí đến hơn 25%/năm cũng được. Tuy nhiên, vấn đề này đang được xem là trái luật khi quy định của Bộ luật Dân sự chỉ chấp nhận lãi suất cho vay của ngân hàng không được vượt quá 150% so với lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Nếu lấy lãi suất cơ bản do NHNN công bố có hiệu lực từ 1-3 là 8%/năm để tính thì trần lãi suất cho vay mà các ngân hàng hiện được áp dụng chỉ là 12%/năm. Và với mức lãi cho vay này thì xem như việc cho vay vốn ngắn hạn, vay tiêu dùng, vay trung và dài hạn của các ngân hàng trong thời gian qua đã phạm luật.
4. Báo Lao động có bài Thua kiện dân, UBND tỉnh dây dưa thi hành án. Bài báo phản ánh: Bài báo phản ánh: Thua kiện dân, UBND tỉnh BRVT lại chưa chịu thi hành án mà còn làm nhiều "động tác" thể hiện "vai trò" lớn hơn cả phán quyết của toà án... Theo ông Phạm Ngọc Dũng, năm 2002, UBND tỉnh BRVT ra quyết định thu hồi hơn 30.000m2 đất nông nghiệp của gia đình ông ở phường 6, TP.Vũng Tàu để giao cho Cty CP phát triển nhà tỉnh BRVT làm dự án khu nhà ở và khu tái định cư Bến Đình. Thu hồi, nhưng tỉnh chỉ chấp nhận hỗ trợ một phần đất nông nghiệp chứ không đền bù giá trị “sổ đỏ”, trong khi mảnh đất của gia đình được xem là “đất vàng”, nằm ở vị trí đắc địa nên ông Dũng cùng vợ “cực chẳng đã” làm đơn khiếu nại.
Trước bức xúc của gia đình ông Dũng, tới tận tháng 4.2007, UBND tỉnh BRVT bèn ra Quyết định 1477 đền bù thêm hơn 2,3 tỉ đồng, nhưng lại áp giá và xác định vị trí loại đường để bồi thường trái với các quy định của pháp luật hiện hành. Am hiểu pháp luật, ông Dũng không chấp nhận được điều này, tiếp tục khiếu nại. Tháng 12-2007, UBND tỉnh BRVT ra Quyết định 4678, điều chỉnh lại giá và nâng tổng kinh phí bồi thường cho gia đình ông Dũng lên hơn 6,8 tỉ đồng. Tuy nhiên quyết định trên vẫn áp dụng sai vị trí và loại đường trong việc tính giá trị đền bù, nên quyền lợi vẫn chưa đảm bảo đúng luật, buộc gia đình ông Dũng khởi kiện UBND tỉnh ra toà.
Qua nhiều cấp xét xử, tháng 9.2008, Toà phúc thẩm - TAND Tối cao tại TPHCM đã có bản án số 31, tuyên huỷ 2 quyết định 1477 và 4678 của UBND tỉnh BRVT; chấp nhận một phần kháng cáo của ông Dũng. Toà giao lại cho UBND tỉnh BRVT giải quyết lại việc bồi thường cho vợ chồng ông Dũng theo đúng các quy định của pháp luật hiện hành. Tuy nhiên sau đó, theo ông Dũng, UBND tỉnh BRVT không thi hành án, mà vận dụng luật để “ngâm” vụ việc tới gần 1 năm sau, tháng 7.2009 mới làm văn bản kiến nghị giám đốc thẩm.
Tháng 9.2009, Viện KSND Tối cao có văn bản số 2914, khẳng định bản án số 31 của Toà phúc thẩm - TAND Tối cao tại TPHCM có căn cứ pháp luật, không đủ cơ sở đề nghị giám đốc thẩm. Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng còn có ý kiến yêu cầu UBND tỉnh BRVT báo cáo việc thi hành bản án số 31. Nhưng UBND tỉnh BRVT vẫn chưa chịu thi hành án. Đến khoảng cuối năm 2009, UBND tỉnh BRVT còn ra công văn chỉ đạo Thanh tra tỉnh chủ trì phối hợp các ngành chức năng rà soát lại tính pháp lý của việc đền bù đất cho gia đình ông Dũng. Oái oăm, chính Thanh tra tỉnh đã có báo cáo gửi Chủ tịch UBND tỉnh, khẳng định rất “thật thà”: Thanh tra tỉnh, Sở Tư pháp, Sở TNMT, Hội Nông dân, UBND TP.Vũng Tàu, UBND phường 6 thống nhất kết luận là diện tích 30.400m2 đất của ông Dũng, bà Nguyệt khiếu nại đủ điều kiện được đền bù giá trị quyền sử dụng đất.
Chỉ có mỗi Sở Tài chính không chung sự “thống nhất” trên. Cũng dễ hiểu, bởi chính sở này là đơn vị đã tham mưu cho UBND tỉnh BRVT ban hành các quyết định đền bù “trật” luật đã bị Toà phúc thẩm tuyên hủy. “Rõ ràng đến vậy, nhưng tận giờ này, UBND tỉnh vẫn chưa chịu thi hành bản án của Toà phúc thẩm - TAND Tối cao. Đến tôi là người hàng chục năm làm trong ngành pháp luật, hiểu rành rẽ còn chịu cảnh này, huống gì người dân không rành pháp luật (?!)” - ông Dũng chua chát!