I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Trang web vef.vn phản ánh: Một số CTCK mất thanh khoản, không thể trả lại tiền của chính các nhà đầu tư đang dấy lên một làn sóng lo ngại: Liệu có xảy ra một dây chuyền "vỡ nợ" trên thị trường chứng khoán?.
Sau một tuần với chỉ 1 phiên tăng và 4 phiên giảm như thường thấy, TTCK mở đầu tuần mới (12/12) đón thêm một thông tin khá sốc: Công ty Chứng khoán SME (SME) mất khả năng chi trả tiền mặt cho nhà đầu tư. Mới nghe qua thì có vẻ không có gì mới bởi trong khoảng 2 tháng gần đây SME đã 2 lần rơi vào tình trạng mất thanh khoản và bị Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (VSD) đình chỉ hoạt động lưu ký. Lần 1 là từ 3/11 đến 3/12 và lần 2 là từ 7/12/2011 đến 7/1/2012. Ngoài SME, ngày 22/11, Công ty Chứng khoán Tràng An (TAS) cũng bị VSD cảnh cáo vì mất khả năng thanh toán cho các giao dịch chứng khoán. TAS không còn khả năng thanh toán trong các giao dịch mua bán với nhà đầu tư, đồng thời nợ Quỹ Hỗ trợ Thanh toán của VSD hơn 7 tỉ đồng. Lo lắng, một số nhà đầu tư cũng đã tìm cách rút lui khỏi SME vì cho rằng đơn vị này không thể đáp ứng các giao dịch rút, chuyển tiền của họ. Tuy nhiên, cũng có không ít người chậm chân đến đóng tài khoản tại SME đã nhận một quả đắng khi sáng 12/12 họ được thông báo, chứng khoán của mình nằm tại SME sẽ được chuyển sang tài khoản mới mở Công ty Chứng khoán GoldenBridge (GBVS), trong khi tiền mặt thì vẫn phải chờ.
Trong vài năm qua, các doanh nghiệp đã ồ ạt lên sàn và ồ ạt phát hành cổ phiếu. Nhiều doanh nghiệp làm ăn không tốt nhưng vẫn được phát hành cổ phiếu. Thậm chí, không ít doanh nghiệp huy động vốn rồi dùng tiền của cổ đông để đầu tư tài chính... Các CTCK thì lạm dụng tiền của nhà đầu tư. Câu chuyện minh bạch và tách bạch tài khoản tiền gửi của khách hàng với CTCK đã kéo dài nhiều năm nay và đã được bàn thảo ở nhiều hội nghị, hội thảo. Nhưng rốt cuộc, đa số các CTCK vẫn chưa làm được điều này, có chăng chỉ dừng ở mức tách bạch tài khoản tổng, tức là họ vẫn có thể sử dụng tiền của người này cho người khác vay. Và đến khi có rủi ro xảy ra thì mất thanh khoản là không tránh khỏi. Câu chuyện cứu TTCK đã được nhiều người đặt ra, không chỉ ở chỗ như nới van tín dụng, hạ lãi suất... mà điều quan trọng là đẩy nhanh tái cấu trúc thị trường, tái cấu trúc các CTCK để hướng tới một thị trường minh bạch hơn, lành mạnh hơn, bớt đi tình trạng làm giá, tạo sóng, lừa đảo kiếm tiền bất chính... Tái cấu trúc càng nhanh thì niềm tin sẽ sớm trở lại với TTCK.
2. Báo Người lao động phản ánh: Ngày 14-12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (TVQH) đã họp cho ý kiến vào dự án Luật Phòng chống rửa tiền và Luật Bảo hiểm tiền gửi.
Tại phiên thảo luận, nhiều thành viên Ủy ban TVQH cho rằng nên đặt cơ quan phòng chống rửa tiền thuộc Bộ Công an, thay vì Ngân hàng Nhà nước như quan điểm của Thường trực Ủy ban Kinh tế của QH. Thứ trưởng Bộ Công an, Trung tướng Phạm Quý Ngọ, đồng tình đề nghị: Ngân hàng Nhà nước cần thành lập trung tâm thông tin về những tài sản, giao dịch qua ngân hàng có nghi vấn để kịp thời thông báo cho cơ quan chức năng điều tra, xác minh. Còn cơ quan chuyên trách về phòng chống rửa tiền nên thuộc Bộ Công an. Về nội dung này, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng cho rằng không nên quy định “cứng” một cơ quan lo mọi việc về phòng chống rửa tiền mà liên quan đến cơ quan nào thì cơ quan đó thực hiện chức trách.
Ở dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi, Thường trực Ủy ban Kinh tế của QH vẫn bảo lưu quan điểm chỉ bảo hiểm tiền gửi của người gửi tiền là cá nhân và chỉ bảo hiểm tiền gửi bằng đồng Việt Nam. Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính và Ngân sách của QH Phùng Quốc Hiển cho rằng cần xem xét lại đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh ở nội dung này, bởi nếu Ngân hàng Nhà nước cho gửi tiền bằng ngoại tệ và vàng nhưng không bảo hiểm cho người gửi là không hợp lý.
Cùng ngày, Ủy ban TVQH cho ý kiến về Pháp lệnh Pháp điển hệ thống pháp luật và dự án Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật.
Báo cũng phản ánh: UBND TP Hà Nội vừa có văn bản xử lý 30 cơ quan, doanh nghiệp để hoang phí hàng trăm ngàn mét vuông đất, trị giá hàng chục triệu USD. Như nhiều địa phương khác trên cả nước, trên địa bàn TP Hà Nội hiện có hàng trăm khu “đất vàng” bị bỏ hoang nhiều năm, trong khi chính quyền lại chưa mạnh tay xử lý thu hồi.
Theo Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Vũ Hồng Khanh, tình trạng nhiều dự án chậm triển khai, bỏ hoang phí kéo dài do nhiều nguyên nhân, như vướng giải phóng mặt bằng hoặc do chủ đầu tư có vấn đề về tài chính, năng lực. “Chỉ rà soát 118 dự án, chúng tôi phát hiện 16 dự án do chủ đầu tư thiếu năng lực tài chính, 16 dự án khác do chủ đầu tư và chính quyền chưa phối hợp tốt trong giải phóng mặt bằng nên triển khai rất ì ạch. Đối với những dự án do chủ đầu tư thiếu năng lực, nếu tình hình không cải thiện, TP sẽ tiến hành thu hồi. Riêng những dự án chậm triển khai theo quy định của pháp luật (chậm quá 24 tháng so với thời gian thi công cho phép), TP đã có kiểm tra và tháo gỡ khó khăn, nếu chủ đầu tư không triển khai cũng sẽ bị thu hồi” - ông Khanh khẳng định.
Cũng theo ông Khanh, trong năm 2011, tổng hợp các dự án chậm tiến độ, đất bỏ hoang, Hà Nội đã xử phạt hành chính 68 đơn vị với tổng số tiền 1,4 tỉ đồng và thu hồi 10 dự án với tổng diện tích hơn 53.000 m2. Ngoài ra, TP Hà Nội cũng đã công khai trên phương tiện truyền thông danh mục, tên tuổi các dự án lãng phí trong diện phải thu hồi. Tuy nhiên, ông Khanh lại thừa nhận việc “đấu với” các chủ đầu tư có dự án nằm ở vị trí đắc địa nhưng bỏ hoang là không dễ bởi thực tế UBND TP Hà Nội đang bị chủ đất kiện vì chỉ đạo đưa tên doanh nghiệp vi phạm lên internet... Điều này lý giải vì sao danh sách 9 dự án vừa được UBND TP Hà Nội đề xuất thu hồi chỉ là những dự án nhỏ, có tổng diện tích chỉ trên 50.000 m2, còn các “ông lớn” chỉ bị xử phạt hành chính.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Công an nhân dân có bài Nhiều địa phương ban hành văn bản trái thẩm quyền. Bài báo phản ánh: Nhiều cấp xã có tình trạng HĐND, UBND ban hành văn bản với nội dung sao chép lại văn bản cơ quan cấp trên hoặc trong nhiều năm không ban hành văn bản nào. Nhiều nơi ban hành văn bản vượt, trái thẩm quyền, văn bản có nội dung trái luật…
Trên cơ sở nghe báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện quy định của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND và các ý kiến góp ý tại phiên họp UBTV Quốc hội chiều 13/12, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng yêu cầu Đoàn giám sát phải "làm đến nơi, đến chốn" và chỉ rõ những việc cần phải làm sau giám sát. Chủ tịch lưu ý: Giám sát không có nghĩa "nghe báo cáo rồi về" mà phải quan tâm chất lượng, nội dung và hậu giám sát. Giám sát phải làm rõ trách nhiệm, phát hiện tồn tại, sai sót, quy rõ ai làm sai, sai ở đâu, sai do trách nhiệm hay quy trình, sai ở khâu nào… Từ đó đưa ra kết luận để giải quyết, xử lý và việc xử lý phải có địa chỉ rõ ràng, đưa ra thời hạn cụ thể, không nêu chung chung. "Văn bản chất lượng thế nào, có gây nhũng nhiễu tiêu cực không, việc này chưa được đánh giá trong báo cáo" - Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng nhắc nhở.
Báo cáo của Đoàn giám sát nêu con số, trong 5 năm (2005 - 2010), tổng số văn bản quy phạm pháp luật được ban hành ở tất cả các cấp (HĐND, UBND cấp tỉnh, huyện, xã) là 135.934, trong đó cấp huyện lớn nhất với 63.543 văn bản. Nhiều hạn chế, thiếu sót được Đoàn giám sát chỉ ra về trình tự, thủ tục, về nội dung. Đáng chú ý, nhiều cấp xã có tình trạng HĐND, UBND ban hành văn bản với nội dung sao chép lại văn bản cơ quan cấp trên hoặc trong nhiều năm không ban hành văn bản nào. Nhiều nơi ban hành văn bản vượt, trái thẩm quyền, văn bản có nội dung trái luật…
Ngay việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật theo công văn của Bộ Tư pháp cũng cho thấy, nhiều địa phương thực hiện dây dưa, kéo dài. Chẳng hạn, quy định của Bộ Tư pháp đề nghị các địa phương phải báo cáo việc rà soát trước 21/6/2011 nhưng đến thời điểm trên, số tỉnh chưa nộp báo cáo còn nhiều. Thêm công văn đôn đốc lần hai nhưng hai tháng sau (8/2011), vẫn còn 14 địa phương không có báo cáo. Trong khi đó, chất lượng báo cáo của các tỉnh gửi về cũng còn nhiều vấn đề như sơ sài, số liệu không đầy đủ, độ chính xác không cao. Điều đó khiến Bộ trưởng Hà Hùng Cường "than" trong báo cáo trình Chính phủ rằng, Bộ phải xây dựng báo cáo dựa vào nhiều nguồn thông tin khác như thực tế theo dõi, kiểm tra, các công trình nghiên cứu, đánh giá của cơ quan chức năng…
2. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Quận 7: Vợ đại gia vẫn tiếp tục thách thúc pháp luật. Bài báo phản ánh: Báo CATP số ra ngày 1-10-2011 đăng bài “Khi vợ đại gia đi cầm cố nhà” phản ánh việc các hộ dân bị bà Huỳnh Thị Lệ Dung (SN 1967), là vợ ông Lâm Văn Tây (SN 1965) - chủ chung cư Chín Tây, 793/28/23 Trần Xuân Soạn, KP4, P.Tân Hưng, Q7 chiếm đoạt tài sản bằng hình thức mượn tiền, cầm cố nhà. Ngày 23-11-2011, bà Trần Thị Hồng Anh (SN 1969, ngụ P6Q4) - người bị bà Dung chiếm đoạt 140 triệu đồng, tiếp tục khiếu nại bị ông Tây nhiều lần gây khó dễ và hành hung. Ngày 15-10-2011, ông Tây mang nhớt đổ vào căn phòng đã cho bà Anh thuê suốt hai năm qua. Ngày 14-11-2011, ông Tây tự ý khóa cửa phòng trong khi gia đình bà Anh không có ở nhà. Sáng 22-11-2011, bà Anh mang búa đến đập ổ khóa để vào lấy đồ đạc thì bị ông Tây cản trở. Vụ việc phải nhờ đến CA phường giải quyết...
Thiếu tá Nguyễn Kỳ Nam - Trưởng CAP Tân Hưng, Q7 - cho biết: khoảng 8 giờ 30 ngày 22-11-2011, trong lúc bà Anh dùng búa đập khóa cửa căn phòng số 4 thì ông Tây từ trong nhà bước ra nói: “Căn nhà này là tài sản của tôi. Chị muốn gì thì đi ra phường thưa!”. Nói xong, ông Tây đi vào nhà ở phía đối diện. Bà Anh đứng trước nhà ông Tây lớn tiếng mắng chửi rồi tiếp tục đập phá cửa căn hộ cho thuê. Thấy vậy, ông Tây cầm cây tre dài trở qua nói: “Bà đừng có ép tôi nha!” rồi đi về. Bà Anh tiếp tục đập hai ổ khóa rồi mang đến CA phường trình báo... Theo lời khai của hai nhân chứng thì ông Tây không đánh bà Anh. Ngón tay bà Anh bị chảy máu là do trong lúc đập khóa cửa bà tự đập vào tay. Trong thời gian qua, CAQ7 đã nhận được đơn khiếu nại của bảy người, trong đó có bà Anh. Do xét thấy vụ việc đang được TANDQ7 thụ lý giải quyết ở vụ án dân sự sơ thẩm, CAQ7 đã ra thông báo hướng dẫn các đương sự khởi kiện ra tòa.
Tòa soạn Báo CATP còn nhận được đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị Nga (ngụ xã An Khánh, huyện Châu Thành, Bến Tre) về việc ngày 30-11-2009, bà cho bà Huỳnh Thị Lệ Dung mượn 80 triệu đồng với thời hạn ba tháng. Quá hạn mà bà Dung không trả tiền và tránh mặt. Tại bản án số 26 ngày 14-6-2011, TANDQ7 tuyên buộc bà Dung phải trả cho bà Nga là 80 triệu đồng. Ngày 11-10-2011, Chi cục thi hành án dân sự Q7 đã có quyết định thi hành án. Thế nhưng, đã hai tháng trôi qua, vụ việc vẫn cứ “giậm chân tại chỗ” (?!). Tương tự, bà Lê Thị Mộng Xuân (ngụ P5Q3) cũng bị bà Dung chiếm đoạt 30 triệu đồng bằng hình thức mượn tiền, cầm cố nhà. Bị khiếu nại ra UBND P.Tân Hưng, ngày 15-11-2007, vợ chồng Dung - Tây cùng ký tên vào biên bản hòa giải đồng ý trả nợ cho bà Xuân trong khoảng năm tháng - sau khi bà Dung ly hôn với ông Tây, đồng thời trả đủ khoản tiền thuê nhà cho bà Xuân từ tháng 12-2007 đến tháng 4-2008. Đã 5 năm trôi qua, bà Dung và ông Tây vẫn né việc trả nợ (!).
Qua các vụ kiện đã nêu, chúng tôi nhận thấy: các nạn nhân đã mắc sai lầm là xác lập hợp đồng dân sự mà không thông qua công chứng hay chứng thực của chính quyền địa phương, không lưu ý là bản hợp đồng cầm cố nhà chỉ có giá trị khi cả hai vợ chồng Dung - Tây cùng ký tên xác nhận. Riêng vụ việc của bà Anh, do không hiểu rõ quy định của pháp luật, bà đã có sự nhầm lẫn giữa khoản nợ đã cho bà Dung vay mượn với căn phòng cho thuê là tài sản riêng của ông Tây! Từ sự ngộ nhận này, bà Anh đã tự ý không chịu trả ba tháng tiền thuê nhà (từ tháng 9 đến 11-2011) cho ông Tây (theo Biên bản tự khai của ông Lâm Văn Tây ngày 22-11-2011 tại CAP Tân Hưng) với số tiền là 8,1 triệu đồng. Sự chậm giải quyết những vụ việc dân sự có liên quan đến bà Huỳnh Thị Lệ Dung của các cơ quan chức năng tại địa phương đã gián tiếp làm cho hậu quả càng trở nên phức tạp.
3. Trang web cafef.vn có bài Cadovimex có đòi được khoản nợ 5 triệu USD?. Bài báo phản ánh: Bị đơn có tài sản để thi hành án nhưng cơ quan thi hành án lại không thể thi hành, khiến cho doanh nghiệp Việt Nam có nguy cơ mất gần 5 triệu USD. Công ty cổ phần Chế biến và Xuất nhập khẩu thủy sản Cadovimex (Cadovimex) ký hai hợp đồng mua bán, ký gửi hàng hóa với Công ty South China Seafood, Hoa Kỳ (Seafood) do ông Trần Kia, một người Việt gốc Hoa làm Chủ tịch HĐQT. Theo các hợp đồng này, Cadovimex xuất khẩu hàng tôm đông lạnh vào Hoa Kỳ, Seafood nhận ký gửi và bán hàng tại thị trường Hoa Kỳ.
Cho đến tháng 5-2006, Seafood đã nợ Cadovimex hàng triệu USD và bắt đầu trả chậm, xin giãn nợ. Tháng 11-2006 hai bên chốt công nợ. Theo đó, số tiền mà Seafood nợ Cadovimex là hơn 3,7 triệu USD. Mặc dù vậy, hai bên vẫn tiếp tục thực hiện hợp đồng. Cadovimex tin tưởng Seafood thực hiện đúng cam kết nên vẫn bán hàng cho Seafood. Song, toàn bộ số tiền còn nợ cũ và những lô hàng mới nhận, Seafood đã không trả cho Cadovimex. Tính đến tháng 5-2008, sau 3 năm thực hiện hợp đồng, Seafood đã nợ tiền và hàng khoảng 4,7 triệu USD và... không trả nợ. Vì thế, Cadovimex đã khởi kiện đòi nợ đến Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam để giải quyết. Không những chây ỳ không trả nợ, Cadovimex còn thể hiện ý định chiếm đoạt số tiền khi trong quá trình hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết vụ việc, Seafood biến mất tại địa chỉ cũ, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ kiện. Vì thế, sau 8 tháng thụ lý vụ việc, Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam mới ra được phán quyết về vụ việc này.
Theo Quyết định số 14/08 ngày 25-2-2009 của Hội đồng trọng tài, Công ty South China Seafood phải trả cho Công ty Cadovimex hơn 4,6 triệu USD. Ngoài ra, Seafood bị buộc phải trả lại hơn 6000 thùng hàng đông lạnh của Cadovimex đang ký gửi tại kho đông lạnh của Seafood và số tiền án phí trọng tài gần 300 triệu VNĐ. Tuy nhiên, bất chấp phán quyết trọng tài, Seafoof vẫn không chịu trả nợ và có đơn ra tòa yêu cầu hủy bỏ phán quyết trọng tài vì Công ty này cho rằng, phán quyết trọng tài không đúng pháp luật. Sau khi xem xét đơn TAND TP. Hồ Chí Minh và TAND tối cao đều không chấp nhận yêu cầu của "con nợ” này và khẳng định quyết định của trọng tài là đúng pháp luật.
Việc Công ty South China Seafood, có ý định chiếm đoạt số tiền và hàng hóa gần 5 triệu USD của Công ty Cadovimex đã khá rõ ràng. Theo kết quả xác minh của các cơ quan chức năng Việt Nam và Hoa Kỳ thì Seafood có nhiều động thái lẩn trốn để chủ nợ không thể đòi được nợ. Từ năm 2008, Công ty này đã liên tục biến mất tại các địa chỉ đã đăng ký khiến cho trọng tài không thể tìm được địa chỉ để tống đạt các thông báo về vụ kiện, làm gián đoạn việc giải quyết vụ kiện. Sau khi có quyết định cuối cùng của Tòa án về vụ việc, Công ty này cũng liên tục đổi địa chỉ. Theo thông tin mà lãnh sự quán Hoa Kỳ tại TP. Hồ Chí Minh thì lần biến mất gần đây nhất của Công ty South China Seafood khoảng tháng 10-2010. Theo nhận định của các cơ quan chức năng, hành vi này của chủ Công ty South China Seafood, có dấu hiệu của tội "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo luật hình sự.
Theo Công ty Cadovimex và xác định của các cơ quan chức năng, Công ty South China Seafood đang sở hữu một khối tài sản lớn tại Việt Nam. Đây là số tiền mà Công ty này đầu tư vào Việt Nam từ năm 1994 tại Công ty TNHH Nam Hải, nay là Công ty Duyên hải Bạc Liêu. Theo đó, cơ quan chức năng thống nhất giải quyết theo hướng, nếu xác định được tài sản là của Công ty South China Seafood thì có thể kê biên để thi hành án. Theo Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì chính ông Trần Kia, Chủ tịch HĐQT Công ty South China Seafood đứng đơn xin thành lập Công ty TNHH Nam Hải. Còn cơ quan an ninh đã xác định từ năm 1999 đến năm 2003, Công ty South China Seafood đã chuyển vào Công ty Nam Hải hơn 5,1 triệu USD. Từ năm 2003 đến năm 2009, số tiền rót vào Công ty Duyên Hải Bạc Liêu là gần 3,6 triệu USD. Như vậy, đã có đủ căn cứ để kê biên tài sản của Công ty South China Seafood tại Việt Nam và buộc Công ty Duyên Hải Bạc Liêu phải thi hành phán quyết của trọng tài để trả nợ cho Công ty mẹ.
Mặc dù các cơ quan chức năng ở Trung ương đã thống nhất việc kê biên tài sản của Công ty South China Seafood tại Việt Nam để thi hành án là giải pháp duy nhất và đúng pháp luật. Song, cơ quan thi hành án địa phương vẫn chưa thể thi hành được bản án. Được biết, việc thi hành án còn gặp khó khăn do chưa có sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo địa phương. Theo quy định của pháp luật, lãnh đạo UBND tỉnh Bạc Liêu có trách nhiệm chỉ đạo đối với công tác thi hành án, đặc biệt là các vụ án phức tạp. Vì vậy, UBND tỉnh Bạc Liêu cần chỉ đạo thi hành dứt điểm vụ việc này.