I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo VnExpress có bài Chi 100.000 tỷ đồng để trả nợ trong năm 2012. Bài báo phản ánh: Dự toán Ngân sách năm 2012 vừa được Quốc hội thông qua, quyết định dành 100.000 tỷ đồng để trả nợ và viện trợ, tăng gần 14.000 tỷ so với 2011. Tuy nhiên, tỷ lệ bội chi dự kiến tiếp tục giảm 0,1%, xuống còn 4,8% GDP.
Theo Nghị quyết được Quốc hội thông qua sáng 10/11, tổng thu ngân sách năm 2012 (gồm cả chuyển nguồn từ 2011) đạt 762.900 tỷ đồng. Trong khi đó tổng chi ước khoảng 903.100 tỷ đồng. Mức bội chi, theo đó sẽ đạt tương đương 140.200 tỷ đồng (khoảng 4,8%) GDP.
Với mức dự toán này, Quốc hội giao Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cơ cấu lại ngân sách theo hướng ưu tiên cho con người, bảo đảm an sinh và chi đầu tư để thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng… Trong trường hợp có thu vượt dự toán như 2011, chỉ được phép đầu tư lại không quá 30% số tiền thu vượt. Chính phủ cũng được phép phát hành 45.000 tỷ đồng trái phiếu để đầu tư cho lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục quan trọng đã được Quốc hội cho phép.
Để thực hiện cải cách tiền lương, Quốc hội dành cho Chính phủ khoản ngân sách tương đương 59.300 tỷ đồng, tăng gấp đôi so với dự toán 2011. Số tiền này sẽ được sử dụng để tăng lương tối thiểu cho người lao động lên 1,05 triệu đồng một tháng kể từ 1/5 tới.
Về các khoản trả nợ và viện trợ, ngân sách năm tới dành ra số tiền tương đương 100.000 tỷ đồng, tăng 14.000 tỷ đồng so với 2010. Tuy nhiên, con số này chỉ chiếm 11% tổng chi ngân sách, thấp hơn so với mức gần 12% của năm ngoái. Tại Nghị quyết về Phát triển Kinh tế - Xã hội năm 2012, Quốc hội cũng đã thống nhất ưu tiên sử dụng số vượt thu ngân sách năm 2011 để giảm bội chi, tăng trả nợ hoặc giảm vay nợ.
Trước đó, theo số liệu báo cáo của Chính phủ, nợ công tính đến hết năm 2011 của Việt Nam tương đương 54,6% GDP. Tính đến hết năm 2012 và 2015, con số này sẽ lần lượt đạt 58,4% và 60-65% GDP.
2. Trang vtv.vn có bài Chỉ số HDI của Việt Nam ở mức trung bình. Bài báo phản ánh: “Báo cáo Phát triển con người của Việt Nam năm 2011” cho thấy, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm nay đứng trong nhóm các nước có mức phát triển con người trung bình.
Các chuyên gia của LHQ cũng đánh giá, những tiến bộ về phát triển xã hội, bao gồm cả y tế và giáo dục diễn ra chậm và chưa đóng góp nhiều cho chỉ số này của Việt Nam. Chỉ số phát triển con người được tính không chỉ dựa trên thu nhập, mà cả những tiến bộ đạt được trong chăm sóc sức khoẻ và giáo dục.
Chỉ số phát triển con người của Việt Nam đứng thứ 128/187 nước. Trên Việt Nam có Tajikistan, Kyzgyzstan, Vanuatu, Indonesia, ngay sát dưới Việt Nam là Nicaragua, Morocco, Guatemala, Iraq.
Báo cáo này cho thấy, trong 20 năm qua, chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã tăng thêm 37%. Trong đó, tăng trưởng kinh tế, cụ thể là tăng trưởng thu nhập đã góp phần lớn nhất, cụ thể là hơn một nửa cho tiến bộ đạt được. Trong khi đó, chỉ số về y tế, giáo dục còn thấp đang làm chậm lại tiến bộ chung của Việt Nam. Mức chi tiêu công cho giáo dục của Việt Nam có thể so sánh với các nước trong khu vực, nhưng chất lượng giáo dục lại thấp hơn. Còn mức chi tiêu cho y tế hầu hết từ các nguồn tư nhân, 56% là chi từ tiền túi người dân.
Bà Setsuko Yamazaki, Giám đốc UNDP tại Việt Nam cho biết: “Lần đầu tiên, báo cáo này áp dụng một chỉ số mới trong khảo sát tầm quốc gia ở Việt Nam, đó là chỉ số đói nghèo đa chiều. Năm 2008, tỷ lệ nghèo về thu nhập ở Việt Nam là 14,5%, trong khi tỷ lệ nghèo đa chiều là 23,3%”.
Báo cáo cũng cho thấy, giữa các tỉnh vẫn còn sự chênh lệch đáng kể. Trong khi các tỉnh, thành phố như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Đà Nẵng có mức độ phát triển con người tương đương với Trung Quốc, Jordan, Belize, thì các tỉnh nghèo như Lai Châu, Hà Giang có mức độ phát triển con người tương đương với Papua New Guinea và Swaziland.
Các chuyên gia của UNDP nhận định: Báo cáo phát triển con người này có thể cung cấp dữ liệu cho các nhà hoạch định chính sách trong việc xây dựng kế hoạch phát triển tiếp theo và đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn cho các dịch vụ xã hội ở cả cấp quốc gia và địa phương, nhằm hiện thực hóa tiềm năng phát triển con người của Việt Nam.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Dân Việt có bài Nhiều vi phạm trong việc cho và nhận con nuôi. Bài báo phản ánh: Thời gian qua, tại nhiều tỉnh, thành phố xuất hiện tiêu cực trong việc cho trẻ em, trẻ sơ sinh làm con nuôi.
Hiện nay, có một thực tế cũng cần đề cập là khi có được “đơn đặt hàng” từ những cặp vợ chồng hiếm muộn, những kẻ xấu có thể lợi dụng kẽ hở pháp luật để tìm cách “hợp thức hóa” những trẻ em bị chúng bắt cóc (nhất là trẻ sơ sinh) bằng cách: Đưa các cháu bé này vào trong các trung tâm bảo trợ xã hội (hiện có ở nhiều tỉnh, thành khắp cả nước) dưới dạng trẻ vô thừa nhận, trẻ bị bỏ rơi... Sau đó, cùng với sự tiếp tay của các nhân viên trung tâm bảo trợ xã hội, đứa trẻ bị bắt cóc sẽ có giấy tờ hợp lệ với lý lịch mới. Và khi các thủ tục đã hoàn tất, cha mẹ nuôi – những “người đặt hàng” – có thể đường hoàng tới trung tâm bảo trợ xã hội để xin nhận con nuôi về.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài các bài
* Tủ sách sau lưng chủ tịch xã, người dân có dám mượn? Bài báo phản ánh: Tại một phiên thảo luận về dự án Luật Phổ biến giáo dục pháp luật của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Phó Chủ tịch Nguyễn Thị Kim Ngân đã từng nói, đại ý rằng, bà đi cơ sở, thấy nhiều nơi, tủ sách pháp luật đặt ngay sau lưng chủ tịch xã, do chủ tịch giữ chìa khóa. Phó Chủ tịch Quốc hội đặt dấu hỏi liệu đặt sách ở vị trí như thế, người dân có dám đến mượn, đến đọc không?.
Đây không phải là vấn đề mới nhưng thực sự đó cũng là một câu chuyện dài mà ngành Tư pháp đã thấy rõ ngay từ những ngày đầu mới có chủ trương xây dựng tủ sách pháp luật. Đành rằng, việc trang bị sách phục vụ cho cả hai nhóm đối tượng là cán bộ và nhân dân song thực tế, nếu tủ sách đặt ở Ủy ban cấp xã thì chỉ có cán bộ dùng là chủ yếu.
Phổ biến pháp luật là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội, thiết nghĩ trong điều kiện kinh phí cho công tác này còn nhiều khó khăn thì cần biết “tận dụng” ưu thế của các kênh tuyên truyền và việc này nên bắt đầu từ những điều giản đơn nhất, ví như nơi đặt tủ sách pháp luật.
* Còn rối chuyện xác định cha sau ly hôn. Bài báo phản ánh: Vừa ly hôn xong thì người vợ sinh con. Có nơi chấp nhận làm giấy khai sinh ghi tên người chồng cũ là cha cháu bé, có nơi lại lắc đầu…
Luật quy định con được sinh ra trong vòng 300 ngày kể từ ngày bản án, quyết định của tòa án xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu lực pháp luật thì đương nhiên là con chung của vợ chồng. Nhưng thực tế ủy ban và tòa lại không thống nhất về cách xác định khiến người dân không biết phải làm sao.
Tháng 5-2008, chị V. nộp đơn đến TAND huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình) xin ly hôn với chồng là anh H. Sau nhiều lần hòa giải không thành, tòa mở phiên xử và chấp nhận yêu cầu của chị V. Bản án này có hiệu lực vào ngày 21-9-2008. Khoảng nửa năm sau, ngày 5-2-2009, chị V. sinh một cháu trai. Khi chị đến UBND xã để làm khai sinh cho con thì xảy ra rắc rối vì ủy ban xã không chấp nhận ghi tên anh H. là cha của cháu bé trong giấy khai sinh. Theo ủy ban, chị V. sinh con sau khi đã ly hôn anh H. nên không có cơ sở để xác định anh là cha cháu bé. Nếu muốn ghi tên anh H. là cha vào giấy khai sinh cho cháu bé thì chị V. phải nộp cho ủy ban bản án hoặc quyết định của tòa án về việc xác định anh H. là cha của cháu bé. Từ đó, ủy ban mới có cơ sở ghi tên anh H. vào giấy khai sinh...
Chị V. lại chạy đến tòa nộp đơn. Tuy nhiên, tòa lại lắc đầu từ chối yêu cầu trên của chị vì không có thẩm quyền giải quyết. Tòa giải thích trong vụ việc này, cơ quan đăng ký hộ tịch phải thực hiện việc đăng ký khai sinh và ghi tên chồng cũ của chị là cha của cháu bé. Bởi theo luật, bé sinh trong vòng 300 ngày khi có bản án ly hôn của tòa… thì bé đương nhiên là con của chồng cũ chị.
Đến nước này chị không biết khai sinh sao cho đứa con đương nhiên là con của chị với chồng cũ mà luật đã quy định.
Còn chị L. ly hôn với anh T. vào tháng 5-2007. Sáu tháng sau, ngày 15-11, chị L. sinh thêm một bé gái. Làm giấy khai sinh, chị ghi anh T. là cha cháu bé. Sau đó do hoàn cảnh khó khăn, thấy mức tiền cấp dưỡng nuôi con của chồng cũ không còn phù hợp nên chị L. yêu cầu anh T. tăng mức đóng góp cấp dưỡng nuôi đứa con trai đầu của anh chị. Đồng thời, chị cũng yêu cầu anh góp thêm tiền để nuôi cả đứa con gái sinh sau. Tuy nhiên, anh T. không chấp nhận.
Tháng 10-2009, chị L. làm đơn yêu cầu TAND huyện Quảng Trạch (Quảng Bình) buộc anh T. phải cấp dưỡng nuôi con gái sau. Khi xem xét hồ sơ, tòa nhận thấy chị L. sinh con gái sau khi đã ly hôn nên để có cơ sở buộc anh T. cấp dưỡng nuôi con thì chị L. phải làm đơn yêu cầu tòa án xác định anh T. là cha của cháu bé trước. Sau đó chị mới có quyền khởi kiện giải quyết việc buộc anh T. đóng góp cấp dưỡng...
Một thẩm phán TAND tỉnh Quảng Bình cho biết sở dĩ có những trường hợp như trên là do nhận thức và xử lý trái ngược nhau giữa tòa và ủy ban. Trong vụ thứ nhất, ủy ban còn dè dặt, không dám ghi tên anh H. vào giấy khai sinh của con mà phải chờ sự xác định của tòa án. Trong khi đó thì tòa án lại khẳng định là không cần thiết. Ngược lại, ở trường hợp thứ hai, trong khi ủy ban đã xác định anh T. là cha của bé gái bằng việc cho đăng ký khai sinh nhưng tòa án lại ngần ngại, buộc đương sự phải yêu cầu tòa xác định cha cho con.
Theo thẩm phán này, cả hai trường hợp người con đều sinh ra sau thời kỳ hôn nhân nhưng người vợ đã có thai trong thời kỳ hôn nhân nên đương nhiên được xác định là con chung của vợ chồng. Cụ thể Điều 63 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng. Và Điều 21 Nghị định 70/2001 của Chính phủ cũng quy định con sinh ra trong vòng 300 ngày kể từ ngày người chồng chết hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của tòa án xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu lực pháp luật thì được xác định là con chung của hai người. Hai trường hợp trên, người vợ đều sinh con trong thời gian luật định.
Ở trường hợp thứ hai, nếu anh T. không thừa nhận đứa con sau là của mình thì anh phải là người nộp đơn đến tòa án yêu cầu tòa xác định và có nghĩa vụ cung cấp chứng minh điều mình nói chứ không phải là chị L. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay thì tòa án nhiều nơi vẫn yêu cầu đương sự phải tiến hành thủ tục qua tòa xác nhận cha cho con trong trường hợp đương nhiên là con chung rồi mới giải quyết một số yêu cầu khác.
* Địa phương “kêu trời” khi theo dõi thi hành pháp luật. Bài báo phản ánh: Sau một thời gian triển khai nhiệm vụ theo dõi thi hành pháp luật (THPL), phần lớn các địa phương đều kêu khó. Khó vì đây là một công việc mới nhưng mặt khác còn bởi địa phương phải tổ chức thực hiện quá nhiều văn bản do Quốc hội, Chính phủ ban hành và những văn bản chỉ đạo của chính địa phương.
Theo Nghị định số 16/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 8 Nghị định số 13/2008/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV, Sở Tư pháp có nhiệm vụ tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL).
Hướng dẫn thực hiện công tác theo dõi tình hình THPL, Thông tư số 03/2010/TT-BTP quy định: “UBND cấp tỉnh theo dõi tình hình THPL trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của mình ở địa phương. Sở Tư pháp tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh thực hiện công tác theo dõi tình hình THPL trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của UBND cấp tỉnh; giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp theo dõi tình hình THPL trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp ở địa phương”.
Tuy nhiên, quá trình thi hành các quy định pháp luật tại địa phương không phải lúc nào cũng “thuận buồm xuôi gió” khi mà hệ thống pháp luật hiện hành có quá nhiều văn bản phải triển khai và tổ chức thực hiện. Đơn cử, trong lĩnh vực môi trường, hiện có tới 3 Luật, 7 Nghị định, 7 Thông tư, 2 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, 2 Quyết định của Bộ trưởng, đấy là chưa kể các Quyết định và Kế hoạch của UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trên cơ sở các quy định pháp luật, các quận, huyện, thị xã, các xã, phường, thị trấn lại ban hành các văn bản chỉ đạo tổ chức thực hiện.
Như vậy, có thể thấy rằng, chỉ riêng việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) đã đủ khiến cho địa phương “mệt nhoài”. Một vị lãnh đạo của một thành phố lớn cho biết, địa phương rất lúng túng trong việc tổ chức đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật đối với từng văn bản, từng quy định cũng như thống kê cụ thể các quy định chưa được tuân thủ trên thực tế.
Còn theo Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP. Hà Nội Nguyễn Văn Vỹ: “Phạm vi theo dõi tình hình THPL rộng, cơ chế phối hợp với các cơ quan tố tụng chưa được xây dựng nên rất khó khăn cho Sở Tư pháp trong việc giúp UBND thành phố tổng hợp, đánh giá đầy đủ, toàn diện công tác THPL trên địa bàn”.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Chương trình hỗ trợ pháp lý vẫn còn lạ với DN. Bài báo phản ánh: Tại hội thảo “Chương trình hỗ trợ pháp lý cho DN” do Sở Tư pháp TP.HCM tổ chức vào ngày 10-11, Luật sư Trương Thị Hòa nhận định: “DN rất khát khao được hỗ trợ trong trường hợp bị rủi ro. Giả sử khi nhận một thư mời làm việc của công an, nếu được người của hỗ trợ pháp lý theo cùng, họ sẽ rất yên tâm”.. Bà Hòa kiến nghị cần được bổ sung vào chương trình hỗ trợ pháp lý kinh tế các kỹ năng về phòng, chống tranh chấp quốc tế trong quan hệ thương mại với nước ngoài hiện nay đang bắt đầu phát sinh khá nhiều.
Một luật sư cho hay một nghịch lý là nhiều trung tâm hỗ trợ pháp lý lâm cảnh ngồi chơi xơi nước, dù thực hiện miễn phí. Lý do DN không biết mình có quyền lợi này. “Tôi đã từng chứng kiến một người định xin thành lập DN sửa xe, đến Sở Kế hoạch và Đầu tư tìm hiểu thủ tục, nghe nói phải có điều lệ DN là mất hồn, lật đật chuyển qua nhờ cò với chi phí 1,5 triệu đồng. Cò đề nghị ông này thành lập hẳn luôn công ty cổ phần sửa xe, hội đồng quản trị phải có ba người thì bổ sung vợ, con ông này vào” - ông kể.
Bà Ung Thị Xuân Hương, Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP - cơ quan chủ trì tham mưu về chương trình này, giải thích hỗ trợ pháp lý cho DN không đồng nghĩa với hoạt động tư vấn pháp lý có thu phí. Bà Hương rất đồng tình và chia sẻ với những ý kiến trên và sẽ đưa vào chương trình, đặc biệt là góp ý làm sao cho DN biết đến chương trình hỗ trợ pháp lý. Ngoài ra, giải pháp thực hiện để xây dựng trách nhiệm của các sở, ngành, DN cũng sẽ được Sở nghiên cứu để đưa vào nội dung chương trình.
Báo cũng có bài Tạo thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng. Bài báo phản ánh: Ngày 10-11, trong buổi góp ý dự thảo các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật tố tụng dân sự do TAND Tối cao tổ chức tại TP.HCM, nhiều ý kiến cho rằng còn rất nhiều quy định cần được hướng dẫn cụ thể để tránh lúng túng khi áp dụng…
Điểm đáng chú ý đầu tiên là những đề xuất của TS Nguyễn Công Bình (Trưởng khoa Luật dân sự ĐH Luật Hà Nội) xung quanh việc tòa án cần phải tạo thuận lợi hơn nữa cho người dân khi tham gia tố tụng dân sự.
TS Bình cho rằng sau khi thụ lý một vụ khởi kiện dân sự mà tòa dân sự nhận thấy rằng đó là án hành chính thì thay vì ra quyết định đình chỉ vụ án, tòa nên chủ động chuyển hồ sơ qua tòa hành chính. Làm như vậy sẽ giúp người dân không phải mất công, mất sức khởi kiện lại ở tòa hành chính.
Một vấn đề nữa, theo TS Bình, việc quy định tranh chấp đất đai phải qua khâu hòa giải tại chính quyền địa phương thì tòa mới thụ lý là không cần thiết. Bởi lẽ nếu một bên đương sự không muốn phải ra tòa thì sẽ “lách luật” bằng cách không chịu tham gia hòa giải ở địa phương. “Đặt ra càng nhiều quy định thì càng làm khổ dân cũng như gây khó khăn cho chính ngành tòa án” - TS Bình nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, nhiều ý kiến khác đã chỉ ra những trường hợp quy định còn chưa rõ, gây lúng túng và vướng mắc cho tòa khi giải quyết án dân sự.
Thẩm phán Nguyễn Hoàng Đạt (Phó Chánh tòa Dân sự TAND TP.HCM) nêu tình huống: Nếu vụ án ly hôn có tranh chấp về tài sản là đất đai thì có cần thiết phải hòa giải ở chính quyền địa phương như tranh chấp đất đai thông thường hay không?
Thẩm phán Huỳnh Trung Hiếu (Phó Chánh án TAND TP Cần Thơ) nêu một tình huống khác: Tòa thụ lý vụ án đòi chia tài sản thừa kế, sau đó mới phát hiện trong vụ án có người liên quan đang ở nước ngoài mà lại không rõ địa chỉ thì phải làm thế nào?
Ngoài ra, Điều 202 BLTTDS quy định tòa vẫn tiến hành xét xử trong các trường hợp: Nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị tòa xét xử vắng mặt; nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có người đại diện hợp pháp tham gia phiên tòa… Vấn đề là gặp tình huống tất cả các bên đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) đều xin xét xử vắng mặt thì tòa phải xử lý ra sao?
Cả Thẩm phán Đạt và Thẩm phán Hiếu đều cho rằng cần thiết phải có hướng dẫn về những trường hợp này. Đồng tình, thẩm phán Tưởng Duy Lượng (Phó Chánh án TAND Tối cao) cũng cho rằng một số quy định chưa được rõ ràng, nếu không bổ sung sẽ gây lúng túng cho các tòa khi áp dụng.