Điểm tin báo chí sáng ngày 09 tháng 11 năm 2011

09/11/2011
Trong buổi sáng ngày 09/11/2011, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I-           THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Đại đoàn kết có bài Lần đầu tiên tổ chức: Hội nghị lãnh đạo các tổ chức người Việt ở nước ngoài. Bài báo đưa tin: Chiều 8-11, Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài đã cho biết: Hội nghị lãnh đạo các tổ chức người Việt Nam ở nước ngoài được tổ chức lần đầu tiên từ ngày 11 đến 13 tháng 11 tại khu du lịch Dalat Edensee Resort , TP. Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng).

 Điểm thú vị là, khu du lịch nơi tổ chức hội nghị là một điển hình về đầu tư thành công của kiều bào tại Đức về trong nước. Hội nghị lần này sẽ quy tụ khoảng 150 đại biểu là lãnh đạo hội đoàn tại 30 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hội nghị có chủ đề "Đoàn kết cộng đồng, cùng đất nước hội nhập và phát triển”.

 Đây là bước tiếp tục nhằm triển khai có hiệu quả Nghị Quyết 36/NQ-TW của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.

2. Trang web VTV.VN đưa tin: Sáng nay (8/11), các đại biểu quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2011 - 2015) với đa số phiếu tán thành.

Trang này cũng có bài Nợ xấu của hệ thống NH tới 75.000 tỷ đồng.

Bài báo đưa tin: Theo Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Lê Xuân Nghĩa, hiện nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng khoảng 75.000 tỷ đồng, trong đó nợ có nguy cơ mất vốn chiếm tới 47%. Ông Nghĩa đã trích dẫn số liệu này từ thống kê chính thức của một đơn vị nghiệp vụ thuộc Ngân hàng Nhà nước.

  75.000 tỷ đồng nợ xấu này sẽ trở thành gánh nặng lớn khi thực hiện tái cơ cấu bởi Nhà nước phải xóa nợ, xử lý dứt điểm để các ngân hàng bắt đầu tiến hành tổ chức lại hoạt động kinh doanh, ông Nghĩa nhận định.

 Ông Nghĩa cũng cho rằng, vấn đề quan trọng số một khi tiến hành tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại là phải tập trung xử lý dứt điểm nợ xấu, phải dọn sạch sẽ bảng cân đối tài sản, giúp các ngân hàng hoạt động hiệu quả với chất lượng tài sản cao, trong một hệ thống an toàn, chứ không phải đi xóa sổ các ngân hàng nhỏ.

 

Theo ông Nghĩa, thông thường có 3 nguồn có thể sử dụng để xử lý nợ xấu. Thứ nhất là nguồn dự phòng rủi ro đã trích lập của các ngân hàng thương mại. Thứ hai là các chủ ngân hàng tự bỏ ra và nguồn thứ ba là ngân sách Nhà nước. Trong đó, nguồn dự phòng rủi ro đã trích lập là chủ chốt.

 Giai đoạn 2001-2005, nợ xấu cả hệ thống ngân hàng khoảng 23.000 tỷ đồng. Để tái cơ cấu, ngân sách nhà nước phải bỏ ra 19.000 tỷ đồng. Giai đoạn 2001-2005, Chính phủ đã phải sử dụng 3 nguồn này.     

3. Trang Cafef.vn có bài Xu hướng hạn chế công nghệ độc quyền. Bài báo phản ánh: Sau gần 10 năm, các DN phát triển phần mềm mã nguồn mở ở VN cho rằng họ đang đi đúng với xu hướng thế giới trong vai trò cung cấp công cụ giúp hạn chế sự phụ thuộc vào các công nghệ độc quyền.

Tuy nhiên, đến thời điểm này, sự thúc đẩy và hỗ trợ từ các chính sách vĩ mô còn khá mờ nhạt. Nhìn chung, phần lớn các doanh nghiệp trong lĩnh vực này vẫn tự xoay xở tìm hướng đi phù hợp cho mình. Sự phát triển nhanh của công nghệ và sự thay đổi thói quen một cách nhanh chóng của người sử dụng Internet đang mở ra những cơ hội mới cho các doanh nghiệp phát triển phần mềm mã nguồn mở trong nỗ lực tìm đầu ra cho sản phẩm ở thị trường trong nuớc.

Đại diện các doanh nghiệp phần mềm tự do nguồn mở cho rằng, so với 10 năm trước, các chính sách hỗ trợ hiện nay khá mạnh mẽ, tuy nhiên việc thực thi vẫn gặp nhiều khó khăn, điển hình là tình trạng vi phạm bản quyền vẫn còn cao.

Theo một chuyên gia, giải quyết bài toán phát triển ngành công nghiệp phần mềm nói chung và thúc đẩy xu hướng hạn chế công nghệ độc quyền là một nhiệm vụ đầy khó khăn và thách thức đối với các ngành chức năng. Nếu đẩy mạnh việc ứng dụng phần mềm mã nguồn mở một cách triệt để thì ở một khía cạnh nào đó sẽ gây ảnh hưởng đến chính sách thu hút đầu tư vào ngành gia công phần mềm nói chung và lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp cung cấp phần mềm nguồn đóng. Do đó, theo vị chuyên gia này, các chính sách hiện nay chỉ dừng ở việc khyến khích sử dụng.

Để giải quyết vấn đề này, ông Đoàn Việt Hưng, giảng viên Khoa Khoa học và Kỹ thuật máy tính, trường Đại học Bách Khoa TPHCM, đề xuất cần có một chính sách dung hòa giữa việc phát triển nguồn mở và nguồn đóng nhằm tạo tính cạnh tranh trên thị trường, từ đó thúc đẩy sự phát triển. Phát biểu tại cuộc hội thảo “Thúc đẩy ứng dụng và phát triển phần mềm mã nguồn mở” được tổ chức ở TPHCM hồi cuối tháng 9, ông Hưng cho rằng Nhà nước nên đóng vai trò điều phối thông tin, đánh giá những dự án nào có thể ứng dụng nguồn mở, nguồn đóng để từ đó có thể phân bổ chính sách phát triển, đào tạo nhân lực phù hợp.

Nhiều doanh nghiệp cho rằng cần có những chính sách hỗ trợ các cộng đồng phát triển mã nguồn mở nhiều hơn vì đây là lực lượng quan trọng trong việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển phần mềm mã nguồn mở ở Việt Nam.

4. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Người dân “hoảng“ vì thu tiền sử dụng đất vượt hạn mức. Bài báo phản ánh: Quyết định số 64/2011/QĐ-UBND của UBND TP.HCM về ban hành hệ số điều chỉnh giá đất tính thu tiền sử dụng đất ở đối với hộ gia đình, cá nhân đang khiến dư luận “phát hoảng”. Thông tư số 93/2011/TT-BTC (ngày 29/6/2011) của Bộ Tài chính về sửa đổi, bổ sung Thông tư số 117/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định số 198/2004/NĐ-CP của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất đã gây ách tắc vô số hồ sơ chưa đóng tiền sử dụng đất vượt quá hạn mức trên địa bàn TP.HCM. Sau gần nửa năm đợi chờ trong lo lắng, hôm 15/10, UBND TP.HCM đã ra Quyết định số 64/2011/QĐ-UBND về ban hành hệ số điều chỉnh giá đất tính thu tiền sử dụng đất ở đối với hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn. Tưởng chừng sau thời gian mỏi mòn đợi chờ ấy, các cơ quan chức năng và người dân sẽ được đón nhận một hướng dẫn thống nhất và hoàn chỉnh, nhằm tháo gỡ “mớ bòng bong” trước đó, ai ngờ quyết định này lại gây thêm không ít khó khăn cho cả cơ quan thực hiện lẫn người dân.

Theo Quyết định 64 thì: Đối với phần diện tích vượt hạn mức lớn hơn 50% hạn mức giao đất ở mới, giao UBND quận - huyện thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá đất tính thu tiền sử dụng đất ở sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường. Sau khi có chứng thư thẩm định giá, UBND quận - huyện tổ chức nghiệm thu chứng thư và có văn bản báo cáo Sở Tài chính thẩm định lại trình UBND thành phố xem xét, quyết định.

Trường hợp hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đối với đất đang sử dụng không phải là đất ở sang đất ở, thì đối với phần diện tích vượt hạn mức giao đất ở mới phải nộp tiền sử dụng đất sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường.

Một số chuyên gia cho rằng, việc xác định như thế nào là giá thị trường không hề đơn giản chút nào. Thực tế cho thấy giá cả đất đai là “vô biên” và tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố. Đôi khi cũng một thửa đất, nhưng phía ngoài có giá khác, phía trong lại có giá khá, hay bên này có giá khác, bên kia có giá khác… Đặc biệt, tại TP.HCM đã xảy ra rất nhiều trường hợp cùng một mảnh đất nhưng khi thẩm định giá thì mỗi cơ quan đưa ra một kiểu giá khác nhau. Chính vì thế mà việc xác định giá đất thị trường là cả một vấn đề.

Thứ hai là, trong khi Thông tư 93 của Bộ Tài chính chỉ yêu cầu thẩm định giá đối với các khu đất kinh doanh của tổ chức kinh tế có giá trị trên 15 tỉ đồng, thì với Quyết định 64 mới ban hành, TP.HCM lại quy định cho tất cả trường hợp đất ở nhỏ lẻ của hộ gia đình, khi vượt định mức dù là một vài mét vuông cũng phải làm theo đúng quy trình rườm rà này.

Việc thành phố giao cho UBND các quận- huyện thuê tổ chức có chức năng thẩm định, xác định giá đất để có chứng thư thẩm định giá báo cáo sở Tài chính xem xét, sau đó trình lên UBND thành phố xem xét, quyết định chắc chắn sẽ mất quá nhiều thời gian và đặc biệt sẽ thiếu khách quan, trung thực và thậm chí cả tiêu cực trong quá trình  thẩm định giá.

Thực tế sau khi triển khai thực hiện quyết định này, các cơ quan thực hiện đều kêu khó và phức tạp vì nhiều lý do. Tại UBND quận Tân Phú có 105 hồ sơ vướng Thông tư 93, đó là chưa kể số hồ sơ ghi nợ tiền sử dụng đất. Sau khi có Quyết định 64 của thành phố, Chi cục Thuế quận này đã tiến hành xác định tiền sử dụng đất được 45 hồ sơ cho các đối tượng vượt không quá 50% quy định hạn mức giao đất ở. Còn đối với số còn lại, phải thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá, xác định thuế đất tính thu tiền sử dụng đất ở sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường và không thể biết được bao giờ mới xong.

Bà Lương Thị Phượng- Phó Chủ tịch UBND quận Tân Phú cũng như hầu hết người dân, cán bộ khi trao đổi với phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam đều mong UBND TP.HCM xem xét và ban hành một quy định thống nhất với Thông tư 93 để triển khai thực hiện hiệu quả hơn. 

II-         THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Công lý có bài Dự thảo Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật: Nhiều quy định còn chung chung. Bài báo phản ánh: Đó là nhận xét của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội trong báo cáo thẩm tra về Dự thảo Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật.

 Ủy ban Pháp luật tán thành về sự cần thiết phải ban hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật với những lý do như đã được nêu trong Tờ trình của Chính phủ. Tuy nhiên, vẫn còn có ý kiến băn khoăn về sự cần thiết ban hành Luật này. Bởi lẽ, trong nhiều văn bản pháp luật hiện hành đã có quy định về phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó giao cho nhiều cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

 Ý kiến này cho rằng, những tồn tại trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chủ yếu là do việc tổ chức thực hiện quy định của pháp luật chưa nghiêm, chưa hợp lý. Trong nhiều trường hợp, các cơ quan, các cấp, các ngành cũng chưa dành sự quan tâm thỏa đáng đến công tác này nên hiệu quả chưa cao, chứ không hẳn là do chưa có một đạo luật riêng điều chỉnh. Hơn nữa, theo báo cáo của cơ quan soạn thảo thì cũng chưa thấy có nước nào trên thế giới ban hành riêng một đạo luật về phổ biến, giáo dục pháp luật.

Ủy ban Pháp luật cho rằng, mục tiêu ban hành Luật đã được thể hiện nhưng chưa thật rõ nét trong Dự thảo; phạm vi điều chỉnh của Luật vẫn chủ yếu quy định trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật mà chưa đưa ra được các quy định về cách thức để người dân thực hiện quyền được tiếp cận pháp luật khi có nhu cầu.

Dự thảo Luật tuy đã được tiếp thu chỉnh lý nhưng vẫn còn tập trung nhiều vào các biện pháp một chiều nhằm đưa kiến thức pháp luật (văn bản pháp luật) tới người dân; chưa đưa ra được các chính sách pháp luật có tính đột phá để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thực sự đem lại hiệu quả hữu hiệu. Các quy định của Dự thảo Luật về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật vẫn còn chung chung, chưa giải quyết được các bất cập còn tồn tại hiện nay. Nhận thức về vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa thực sự đầy đủ. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật còn nặng theo định hướng chủ quan của cơ quan, tổ chức làm công tác này mà chưa xuất phát từ nguyện vọng của đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật còn máy móc, chưa thực sự phù hợp với các đối tượng được phổ biến và tình hình thực tiễn.

Ủy ban Pháp luật cho rằng, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thì cần phải đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động tổng hợp các nguồn lực cho công tác này. Tuy nhiên, trong Dự thảo Luật mới chỉ quy định chung chung “Nhà nước thực hiện xã hội hóa”, “khuyến khích”, “hỗ trợ”, “có chính sách hỗ trợ”. Dự thảo Luật chưa đưa ra được các quy định cụ thể về các biện pháp thúc đẩy việc xã hội hóa đối với công tác này, ví dụ như được hỗ trợ, tạo điều kiện cụ thể như thế nào, được miễn, giảm nghĩa vụ tài chính, thuế?

Ủy ban Pháp luật đề nghị cần bổ sung quy định về việc giáo dục pháp luật trong gia đình, cơ quan, tổ chức, nhất là giáo dục đối với phạm nhân, học sinh trường giáo dưỡng để bảo đảm tính hiệu quả và toàn diện của nội dung này (đối với phạm nhân, học sinh trường giáo dưỡng không nên đặt vấn đề phổ biến, giáo dục pháp luật một cách chung chung mà cần phải tiến hành giáo dục pháp luật nhằm thay đổi hành vi của họ).

Dự thảo Luật quy định hình thức giáo dục pháp luật chính khóa được thực hiện thông qua môn học giáo dục công dân trong trường phổ thông. Ủy ban Pháp luật đề nghị không nên quy định cứng việc giáo dục pháp luật bắt buộc phải được thực hiện thông qua môn học giáo dục công dân. Tùy từng cấp học, lớp học khác nhau mà có thể thực hiện giáo dục pháp luật thông qua môn học giáo dục công dân hoặc lồng ghép trong các môn học khác như: Kể chuyện, Đạo đức, Tiếng Việt, Lịch sử v.v…

Ủy ban Pháp luật cho rằng, quy định về nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật trong Dự thảo Luật vẫn còn chủ yếu thiên về phổ biến, giáo dục kiến thức pháp luật (các văn bản pháp luật). Thực tiễn cho thấy không phải cứ có kiến thức pháp luật là chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật mà còn phụ thuộc rất nhiều vào ý thức chủ quan của mỗi cá nhân. Tình trạng buông xuôi, chấp nhận tiêu cực, vi phạm pháp luật để “được việc” vẫn còn xảy ra khá phổ biến trong nhân dân. Do đó, Ủy ban Pháp luật đề nghị cần bổ sung nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật bao gồm cả ý thức chấp hành pháp luật, lợi ích của việc chấp hành pháp luật, ý thức đấu tranh trước các hành vi vi phạm pháp luật, ý thức bảo vệ pháp chế XHCN.

Theo Ủy ban Pháp luật, mục đích trước hết của phổ biến, giáo dục pháp luật phải là làm sao cho đại bộ phận người dân nâng cao ý thức pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật, hiểu biết pháp luật để thực hiện đúng pháp luật. Dự thảo Luật đã được tiếp thu, chỉnh lý, tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng vẫn chưa thể hiện rõ được quy định về phổ biến, giáo dục pháp luật cho đối tượng chung là đại bộ phận người dân. Với đối tượng này cần thường xuyên, liên tục thực hiện việc phổ biến, giáo dục những kiến thức pháp luật phổ thông, thiết thực với cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày của mọi công dân.

Về các đối tượng đặc thù trong phổ biến, giáo dục pháp luật, Ủy ban pháp luật đề nghị cần làm rõ hơn cơ sở của việc xác định các đối tượng này. Nếu xác định các đối tượng đặc thù này được “ưu tiên” vì lý do gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận pháp luật như đã nêu trong Tờ trình thì các đối tượng khác như nông dân, người già, người nghèo… cũng gặp khó khăn tương tự thì giải quyết ra sao?

2. Báo VnExpress có bài 9 người liên quan vụ hối lộ lớn nhất Cần Thơ. Bài báo phản ánh: Công an Cần Thơ vừa kết thúc điều tra vụ đưa, nhận hối lộ liên quan cựu phó phòng Tư pháp thành phố. Ông này bị xác định đã nhận "phong bì" 6,5 tỷ đồng để làm ngơ cho hàng trăm trường hợp đăng ký lấy chồng nước ngoài.

Ngày 7/11, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Cần Thơ chuyển kết luận điều tra sang VKS cùng cấp đề nghị truy tố Phạm Thành Dũng (59 tuổi, nguyên phó Phòng Hành chính - Tư pháp Sở Tư pháp TP Cần Thơ) về tội “nhận hối lộ”. Theo cơ quan điều tra, ông Dũng đã móc nối với nhiều người để "làm ngơ" cho hàng trăm trường hợp phỏng vấn tại Sở Tư pháp Cần Thơ được duyệt đăng ký lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc.

Khám xét nhà riêng của ông Dũng, cảnh sát thu một khẩu súng ngắn K59 với 7 viên đạn đã hết hạn cấp phép sử dụng. Với hành vi này, cựu cán bộ tư pháp bị đề nghị truy tố thêm tội “tàng trữ trái pháp vũ khí quân dụng”.

8 người khác liên quan vụ việc bị nhà chức trách đề nghị truy tố về tội "đưa hối lộ". Quá trình điều tra xác định, từ tháng 4/2009 đến tháng 11/2010, ông Dũng đã nhận tổng cộng 6,5 tỷ đồng của Trần Ngọc Trung, Nguyễn Hoàng Minh, Trần Thị Thanh Hường, A Hữu Thọ, Chế Thị Bích Trang, Nguyễn Thị Kim Hoàng, Trần Huệ Cơ, Bùi Hữu Tố.

Theo nhà chức trách, khoản tiền ông Dũng đã nhận lớn hơn nhiều so với con số 6,5 tỷ đồng nhưng chứng cứ buộc tội chưa rõ. Việc ông Dũng khai chia cho hai ông sếp chừng 4,5 tỷ đồng cùng một số nhân viên tham gia phỏng vấn khoảng 1,1 tỷ đồng, cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

3. Báo Tiền Phong Online có bài Trả thù kỳ quái. Bài báo phản ánh: Do thâm thù sếp, cán bộ tư pháp xã đốt phòng làm việc của Chủ tịch UBND xã Quý Hòa (huyện Bình Gia, Lạng Sơn).

Theo cáo trạng của Viện KSND huyện Bình Gia, sáng 17-4, Bế Văn Hành (SN 1984), cán bộ tư pháp xã Quý Hòa rủ Lâm Văn Lon (SN 1981, anh rể Hành), chuẩn bị vải, xăng, mở cửa phòng Chủ tịch UBND xã Quý Hòa châm lửa đốt. Hậu quả, thiêu rụi bàn ghế, giường tủ, tài liệu làm việc của ông Chủ tịch Lý Văn Thạch, tài liệu phục vụ bầu cử Quốc hội khóa XIII, HĐND các cấp như: Thẻ cử tri, con dấu Ủy ban bầu cử xã, danh sách cử tri, cờ, khẩu hiệu...

Công an huyện, làm rõ vụ việc, khởi tố Hành, Lon, tội Hủy hoại tài sản. Hành khai nhận, do mâu thuẫn nên nảy sinh việc đốt phòng ông Lý Văn Thạch. Lợi dụng vợ mình là Lăng Thị Tin, cán bộ văn thư xã, Hành lấy chìa khóa phòng Chủ tịch xã mang đi đánh thêm một chìa đem về nhà cất giấu, chờ thời cơ. Ngày 29-9, TAND huyện Bình Gia xét xử vụ án, tuyên phạt Hành 12 tháng tù, Lon 9 tháng tù. Hai bị cáo phải bồi hoàn thiệt hại cho UBND xã Quý Hòa hơn 3,8 triệu đồng.

4. Báo Đại Đoàn kết có bài Thanh Hoá: “Bất lực” thi hành án các đơn vị công. Bài báo phản ánh: Lượng án tồn tại, chưa thi hành án dân sự (THADS) ở Thanh Hoá hiện không phải là ít. Có rất nhiều vướng mắc khi THADS với các đơn vị công (các đơn vị sử dụng ngân sách Nhà nước) nhất là UBND các cấp.

 Trong hồ sơ tại Cục THADS tỉnh Thanh Hoá có cả chục vụ việc liên quan tới UBND xã, huyện phải thi hành bản án của Toà nhiều năm nay chưa xong. Điển hình là UBND xã Hoằng Thanh nợ Công ty xây lắp điện Đông Sơn từ năm 1996 không chịu trả. Tới năm 2002, Công ty này đã phát đơn kiện ra TAND các cấp (ngày 19-12-2002 TAND Hoằng Hoá xử sơ thẩm, tới ngày 11-3-2003 TAND tỉnh Thanh Hoá xử phúc thẩm). Toà hai cấp đều buộc UBND xã Hoằng Thanh trả nợ cho Công ty Đông Sơn số tiền 55,739 triệu đồng (tiền gốc là 34,739 triệu đồng, tiền lãi 21 triệu đồng). Khi án có hiệu lực, Công ty Đông Sơn đã làm đơn sang Chi cục THADS huyện Hoằng Hoá đề nghị thi hành bản án theo đúng quy định của pháp luật. Cho tới nay, đã qua 8 năm, THADS Hoằng Hoá vẫn không thể thi hành được. Trong khi đó địa phương này có 2 nguồn tiền từ đóng góp của nhân dân (không phải nhỏ) và tiền từ bàn giao tài sản lưới điện trung áp nông thôn (hơn 160 triệu đồng). Không rõ hai nguồn tiền kể trên đã đi đâu, chi cho việc gì? UBND huyện Hoằng Hoá cần kiểm tra, làm rõ.

Không chỉ có cấp xã, mà đối với UBND huyện, THADS cũng đang phải "bó tay”. Điển hình nhất là tại huyện Hậu Lộc, tại bản án số 01, ngày 30-5-1995, TAND tỉnh Thanh Hoá đã buộc huyện này phải trả cho Công ty Xây lắp và dịch vụ thuỷ sản Miền Trung số tiền 255,530 triệu đồng (bao gồm tiền gốc, lãi, tiền phạt vi phạm hợp đồng). Ngay sau khi án tuyên có hiệu lực, phía Công ty đã làm đơn sang THADS. Tuy nhiên, đến nay bản án vẫn chưa thực hiện được.

Làm việc với với phóng viên, ông Nguyễn Đức Sơn, Chi cục trưởng THADS Hoằng Hoá cho hay: "Việc THADS đối với đơn vị công có tính đặc thù riêng, vừa là cơ quan phối hợp lại vừa là đơn vị phải thi hành. Do là đơn vị sử dụng ngân sách Nhà nước nên không thể cưỡng chế được. Chỉ còn cách khấu trừ vào tài khoản (nếu có số dư), đặc biệt người đứng đầu cơ quan đang phải THADS phải tự nguyện, có trách nhiệm thì may ra mới thi hành được.” Còn ông Lê Văn Khuê, Phó Chi cục trưởng Chi cục THADS Hậu Lộc bộc bạch: "Thực ra các cấp chính quyền địa phương vẫn có ý thức trong việc THADS nhưng do chưa có nguồn. Nếu chủ tài khoản không có trách nhiệm thì vô cùng khó vì đây là nợ kế thừa, người này tới người khác thôi, không trả được thì cứ để đó”.

Sự "bất lực” trong việc THADS đối với các đơn vị công tại Thanh Hóa đang là vấn đề hết sức khó khăn, đây là bài học nhãn tiền cho các công ty, doanh nghiệp lao vào "bãi lầy” này.



File đính kèm